Hà Giang/Người Việt
Công việc '3 Ds' trên xứ Ðài
Đài Loan - Sau năm ngày được Bộ Du Lịch Ðài Loan hướng dẫn đi  thăm những thắng cảnh và điểm hẹn nổi tiếng của hòn đảo nằm ở phía Ðông Nam  Trung Quốc, có cái tên thơ mộng là Formosa - “hòn đảo xinh đẹp” - chiều 12 tháng  9, chúng tôi háo hức đáp xe taxi từ Ðài Bắc đến Ðào Viên, thăm “Văn Phòng Trợ  Giúp Lao Ðộng Di Dân và Cô Dâu Việt Nam,” một tổ chức phi chính phủ, do Linh Mục  Nguyễn Văn Hùng tổ chức.
Tại nơi đây, chúng tôi sẽ có cơ hội gặp gỡ, chuyện trò, tâm sự  và tìm hiểu về đời sống của công nhân Việt Nam qua Ðài Loan theo diện “xuất khẩu  lao động,” hoặc các cô dâu Việt Nam lấy chồng Ðài Loan, hiện đang sinh sống tại  đây.
Chính phủ Ðài Loan có chương trình “nhập cảng người lao động”  rất mạnh mẽ. Theo tài liệu của Bộ Lao Ðộng Ðài Loan, hiện xứ sở này có khoảng  360 ngàn lao động di dân,  đa số đến từ những nước đang phát triển, như Indonesia, Philippines, và Việt  Nam, trong đó theo tài liệu của Bộ Lao Ðộng Ðài Loan, người lao động di dân đến từ Việt Nam đông hàng thứ nhì,  chỉ sau Indonesia.
Những “lao động di dân” này, đến Ðài Loan với ước mơ tìm cách  giải quyết cuộc sống cực kỳ khó khăn nghèo túng của họ tại quê nhà, và để đổi  lại nguyện vọng “kiếm một ít tiền mang về quê hương sau một thời gian lưu đầy,”  họ phải đảm nhận những công việc mà người Ðài Loan mệnh danh là công việc “3  Ds,” những công việc mà người dân bản xứ “chê,” không ai thèm làm.
“3 Ds” là gì?
Ðó là 3 chữ D, bắt đầu của những chữ: “Difficult” (khó khăn), “Dirty”  (bẩn thỉu), và “Dangerous” (nguy hiểm).
Tại sao lại Difficult?
Cứ hỏi cô Thu thì biết!
Chúng tôi tình cờ gặp Thu, 24 tuổi, và Hạnh, 26 tuổi, hai cô gái  lao động di dân khi đi thăm “chợ đêm” ở một ngoại ô của Ðài Bắc. Giữa những  tiếng bản xứ líu lo lạ tai, chúng tôi mừng rỡ khi thoáng nghe được tiếng Việt  Nam, và quyết định tiến đến chào hỏi.
| Một cô dâu người Việt Nam lấy chồng Ðài Loan tại Ðài Bắc trả lời: “Hạnh phúc à?” khi được hỏi cuộc sống của cô có... hạnh phúc không. (Hình: Hà Giang/Người Việt) | 
Thu cho biết quê ở Thanh Hóa, đến Ðài Loan theo diện “xuất khẩu  lao động” được hơn một năm nay. Thu làm việc tại một viện dưỡng lão, được gọi là  nơi ẩn náu của người già tại Ðài Loan. Trách nhiệm của Thu là săn sóc 12 cụ già  tuổi từ 68 đến 75. Thu làm việc mỗi ngày từ 6 giờ sáng đến 8 giờ tối, và hầu như  không có giờ nghỉ ở giữa.
“Công việc khó khăn và căng thẳng lắm chị ạ. Các cụ vì yếu nên  tính tình bẳn gắt, em chưa kịp lo xong cho cụ này thì đã bị cụ khác réo  gọi!”
“Nhiều khi em bưng bát cơm lên chưa kịp ăn thì đã phải bỏ xuống,  lo cho cụ khác.” Thu tâm sự.
Còn tại sao lại Dirty?
“Thì chị bảo, các cụ không tự đi vệ sinh được, mình phải lo hết  thì không bẩn làm sao được?” Hạnh, đến Ðài Loan đã gần hai năm, giải  thích.
Ngoài Hạnh và Thu, trong lúc đi mua sắm tại một khu tập trung  nhiều tiệm tạp hóa tại Ðài Bắc, chúng tôi cũng đã gặp được một số cô dâu Ðài  Loan, đa số lấy chồng già hơn mình từ 15 đến 20 tuổi, hiện đang làm việc tại  đây.
Cuộc gặp gỡ tình cờ, cũng là nhờ nghe được người nói tiếng mẹ đẻ  ở xứ người thật cảm động. Chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng, chuyện trò tíu  tít, nhưng phải vội vàng vì phải đi theo thời khóa biểu của đoàn.
Trước khi từ giã, anh Tùng, người quay phim đi cùng đoàn với  chúng tôi hỏi một cô là cuộc sống của cô có hạnh phúc không?
Thay vì trả lời, cô chỉ thẫn thờ nhắc lại câu hỏi: “Có hạnh phúc  không à?” Và ánh mắt trông theo của cô đã không chỉ làm anh Tùng, mà chúng tôi  cứ mãi vương vấn.
Trên đường từ Ðài Bắc đến Ðào Viên, tôi than là sao các cô gái  Việt Nam, cô nào trông cũng xinh xắn, nhưng lại hao gầy và xa vắng  thế.
“Không xinh xắn sao được! Cô nào cũng được tuyển chọn bao nhiêu  vòng mới đến được đây!” Anh Tùng chua chát.
Khuôn mặt của những người chúng tôi gặp trong tình cờ khiến  chúng tôi càng nóng lòng đi sâu vào hành trình tìm hiểu hoàn cảnh của những  người Việt Nam đang sống trên đất Ðài.
Chỉ hơn nửa giờ đồng hồ nữa thôi!
Chúng tôi sẽ gặp họ.
Nếu cảm giác đầu tiên của chúng tôi từ những ngày đầu bước chân  đến Ðài Loan là đất nước này sao giống Việt Nam thế, giống từ cái nóng, từ độ ẩm  khiến mồ hôi dính nhơm nhớp vào áo, đến những cơn mưa phùn đến bất chợt, và  những tòa nhà hẹp mà cao chen chúc nhau, và đường phố đông người tấp nập, thì  Ðào Viên, là một tỉnh lỵ nhỏ, còn giống Việt Nam hơn nữa, với dòng xe cộ như mắc  cửi, những con hẻm ngoằn ngoèo, và đặc biệt là đâu đâu cũng thấy những quán ăn  chỉ vỏn vẹn gồm một chiếc xe hủ tíu, và vài bộ bàn ghế thô sơ.
Chúng tôi không có nhiều thì giờ để rong chơi. Người tài xế lái  Taxi từ Ðài Bắc, bỡ ngỡ với đường phố ở Ðào Viên, sau khi loay hoay kiếm mãi mới  ra địa chỉ, vì, cũng giống như Việt Nam, đường phố ở Ðài Loan không dễ tìm, cuối  cùng rồi cũng đưa chúng tôi đến cửa “Văn Phòng Trợ Giúp Lao Ðộng Di Dân và Cô  Dâu Việt Nam.” Kim đồng hồ chỉ đúng 4 giờ 30 phút chiều.
Một vài nữ nhân viên của văn phòng, những cô gái Việt Nam trước  đây cũng qua Ðài Loan theo diện cô dâu, đón chúng tôi vào khuôn viên khiêm  nhường, nhưng lại là nơi nương tựa quan trọng của những người di dân lao động,  và cô dâu Việt Nam trên đất khách quê người.
Ða số những người chúng tôi gặp hôm đó là thanh niên thiếu nữ,  vừa cô dâu vừa lao động di dân, khoảng từ 24 đến 32 tuổi. Chưa cần chuyện trò  nhiều, chỉ cần nhìn những ánh mắt chịu đựng trên những khuôn mặt non trẻ, chúng  tôi đã cảm nhận được nỗi khó khăn của họ.
Tôi liên tưởng đến chữ “Dangerous” khi gặp Hương, một cô gái  xinh đẹp, mới 24 tuổi, cụt mất một bàn tay khi sử dụng một máy tại xưởng nơi  Hương làm việc.
“Em đang ở đây để nhờ văn phòng cha Hùng giúp thủ tục pháp lý  đòi chủ nhân bồi thường “ Hương tâm sự.
Hùng, khoảng 28 tuổi, cụt một chân, chống nạng, đứng gần đó, gật  đầu, và nhìn Hương bằng cái nhìn đầy thương cảm. Thương người và thương  mình?
Nhận diện “xuất khẩu lao động”
Sau khi mang hành lý đến khách sạn ở gần đó lấy phòng, chúng tôi  được Taxi đón đến một Thánh đường gần đó để dự thánh lễ, do Linh Mục Cường, phó  giám đốc “Văn Phòng Trợ Giúp Lao Ðộng Di Dân và Cô Dâu Việt Nam” cử hành. Linh  Mục Hùng cho biết đa số những người đến dự lễ qua đây theo diện “xuất khẩu lao  động.”
Vừa bước vào khuôn viên thánh đường nhỏ, nhưng chật ních, khoảng  hơn 100 người, Tùng quay sang tôi thì thào: “Toàn là người trẻ thôi!”
Vâng, tuổi trẻ Việt Nam sống cảnh lưu đầy đang đứng trước mặt  chúng tôi. Mặt họ thông minh quá, nhưng những ánh mắt pha nét buồn, chịu đựng,  hầu như đã thành dấu ấn của những người chúng tôi gặp ở đất nước này.
Cha Hùng cho biết sáng ngày mai, nếu muốn, chúng tôi có thể tháp  tùng một nhóm công nhân đón chuyến xe lửa từ Ðào Viên đến Ðài Bắc để tham dự hai  cuộc biểu tình được tổ chức liền nhau của công nhân ở đây.
Cuộc biểu tình thứ nhất, sẽ diễn ra trước ty cảnh sát Ðài Bắc,  để phản đối sự nặng tay của cảnh sát Ðài Loan khi lùng bắt những người lao động  di dân bỏ chạy, mà chính phủ Ðài Loan gọi là “Runaway Migrant  Workers.”
Cuộc biểu tình thứ nhì sẽ ở trước Bộ Lao Ðộng Ðài Loan, cũng ở  Ðài Bắc để yêu cầu tăng lương căn bản, và được đối xử công bình.
“Tại sao những người lao động di dân phải bỏ chạy?” Tôi  hỏi.
“Chị đi tham dự cuộc biểu tình thì sẽ hiểu!” Linh Mục Nguyễn Văn  Hùng mỉm cười.
Cuộc hành trình của chúng tôi sáng mai mới thực sự bắt  đầu!
Kỳ sau: Chi phí môi giới lao động, nguyên nhân đưa  đến hiện tượng bỏ trốn, khởi đầu của các vấn nạn liên quan đến người lao động  nước ngoài.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=120794&z=211