Đoàn Hưng 
Quốc
Mỹ hiện nợ 
tổng cộng 15 ngàn tỷ USD, Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất cho vay khoảng 1300 tỷ 
(8%). Trong khi đó Âu châu đang nài nỉ Hoa Lục góp vốn hàng trăm tỷ USD vào quỹ 
cứu trợ để thoát khỏi cơn khủng hoảng hiện thời.
Trước nay khi 
kinh tế bị khủng hoảng các nước thường nhìn về Hoa Kỳ chờ cứu giúp. Lần này ông 
nhà giàu không còn là Mỹ nhưng lại chính là Trung Quốc với hầu bao hơn 3000 tỷ 
USD. Miệng người sang có gang có thép, thật khó lòng tránh để Bắc Kinh không đòi 
hỏi các điều kiện thuận lợi về cả chiến lược lẫn tài chánh. 
Trung Quốc có 
thể sẽ lên chức Chủ Tịch Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) trước giờ vẫn do Tây Âu nắm 
giữ. Hoa Lục lại sẽ đòi thêm quyền phủ quyết trong IMF để ngang hàng với 
Âu-Mỹ.
Bắc Kinh sẽ 
yêu cầu Âu Châu gỡ bỏ lệnh cấm bán các thiết bị quân sự và điện tử tối tân - để 
khi mua rồi sẽ tìm cách bắt chước; đòi Tây Âu ủng hộ việc WTO công nhận Trung 
Quốc là một thi trường tự do sớm hơn hạn định; hay áp lực các nước Tây Phương 
không tiếp đón và cô lập đức Đạt Lai Lạt Ma, hoặc không ủng hộ cho các phong 
trào dân chủ. 
Đối với Mỹ 
thì việc thương lượng sẽ khó khăn hơn vì dù gì Hoa Kỳ vẫn còn là siêu cường hàng 
đầu. Hoa Lục cần thị trường tiêu thụ của Mỹ để xuất cảng hàng hoá; cần cho Hoa 
Kỳ vay tiền vì hết chổ tín nhiệm để gởi! Hơn nửa Mỹ lại có lợi thế mượn bằng 
đồng đô-la, nếu kẹt quá thì in thêm tiền, đô-la bị hạ giá lại khiến hàng hoá của 
Hoa Lục lên giá khó bán, thêm vào đó các khoảng nợ lại mất giá trị. 
 
Nhưng nếu 
nhìn tầm xa thì tình trạng này sẽ thay đổi trong vòng 10-20 năm nửa. Với đà phát 
triển dù chậm lại ở mức 7% (thay vì 10% như trong 20 năm nay) thì GDP của Trung 
Quốc có thể qua mặt Hoa kỳ vào khoảng năm 2020 đến 2030.
Khi đó thương 
mại giữa thế giới và Hoa Lục sẽ ngang bằng hay nhiều hơn so với Mỹ. Các nước 
không còn muốn chỉ ôm đô la vốn ngày càng mất giá; nên đa phương hoá một phần dự 
trữ sang Nhân Dân Tệ thì vừa giữ giá, lại thêm mua bán với Trung Quốc được thuận 
lợi vì không phải qua một đơn vị tiền tệ thứ ba.
Bắc Kinh nắm 
vai trò trọng yếu của IMF sẽ vận động để đồng Nhân Dân Tệ trở thành một trong 
các loại tiền tệ chính trên thế giới bên cạnh đô-la và euro (nếu lúc đó còn 
euro!)
Giả sử Hoa Kỳ 
lại cần vay mượn để tránh một cơn khủng hoảng khác. Nước Mỹ bị hạ điểm tín dụng, 
các chủ nợ nay có lối thoát nên đòi Hoa Kỳ phải nâng cao  lãi xuất công 
phiếu. Mỹ lâm vào thế khó nên đến IMF nhờ bảo đảm nợ thì Bắc Kinh có thể dùng 
quyền phủ quyết bắt chẹt. 
Năm 1956 
Anh-Pháp đem quân chiếm đóng kênh đào Suez tại Ai Cập bị Mỹ phản đối vì không 
muốn bị gán với thế lực thực dân, Khi đó đồng Bảng xuống giá khiến kinh tế nước 
Anh rơi vào khủng hoảng, Hoa Kỳ đã doạ dùng quyền phủ quyết không cho IMF trợ 
giúp. Kết cuộc Anh đồng ý rút quân thì Mỹ đã chấp thuận cho IMF vay với con số 
khổng lồ là 1.2 tỷ USD (so với thời đó). Bài học này cho thấy việc Trung Quốc 
dùng sức mạnh tài chánh để áp lực Hoa Kỳ nhân nhượng các quyền lợi ở Thái Bình 
Dương không phải là không thể xảy ra. 
Nhưng cho dù 
các cường quốc có buôn bán quyền lợi theo thời cơ thì chỉ có nội lực, và lòng 
yêu nước là mãi mãi không đổi. Theo chính sách ngoại giao đu dây giữa các thế 
lực bên ngoài mà không phát huy sức mạnh của dân tộc không thể là kế sách lâu 
dài giữ nước.