Krzysztof Rybiński – Lê Diễn Đức dịch 
Thị trường chứng khoán trên Wall Street, New York - Ảnh: NYPI.NET
Giới tài chính đầu sỏ lợi dụng các cơ chế sẵn có trong nền dân 
chủ để thực thi lợi ích của họ bằng cái giá của công chúng. Giới đại tư 
bản giờ đây chính là mối đe dọa lớn nhất đối với nền dân chủ, bởi vì nó 
đã làm phát triển bốn thứ bệnh lý nguy hiểm. Cội nguồn trước hết của 
những bệnh lý này là Hoa Kỳ, nhưng âm hưởng của nó đang ngày càng mạnh 
mẽ ở Tây Âu.  
Bệnh lý 1: Quy mô hoạt động quá lớn, nhưng đa phần không hiệu quả
Chưa bao giờ trong lịch sử, một số rất ít người giàu có lại chiếm 
hữu một tài sản khổng lồ bằng cái giá phải trả của vô số người khác như 
hôm nay - Raghuram Rajan viết.
Rajan là giáo sư tài chính của Chicago University, nhà kinh tế chủ 
chốt trước đây của Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF, người giành chiến thắng 
trong lễ trao giải đầu tiên của Giải thưởng Fischer Black cho giáo sư 
xuất sắc nhất trong lĩnh vực tài chính, hiện đang quản lý Quỹ Trọng tài 
John Paulson, có thu nhập 3,7 tỷ đô la trong năm 2007 (ông là tỷ phú chỉ
 tính riêng theo tiền lương, chứ không tính theo giá trị tài sản, như 
với nhiều tỷ phú khác). Nghĩa là 74 ngàn lần nhiều hơn so với thu nhập 
của một hộ gia đình trung bình ở Hoa Kỳ. Năm 1976, một phần trăm người 
Mỹ giàu có nhất chiếm 8,9% tổng thu nhập quốc dân, trong năm 2007 đã là 
23,5%. Nói cách khác, cứ mỗi đồng đô la tăng trưởng kinh tế đạt được 
giữa năm 1976 và năm 2007 thì có 58 xu chạy vào một phần trăm của những 
công dân giàu có nhất Hoa Kỳ.
Phần lớn những người Mỹ giàu có nhất là những đại diện của khu vực 
tài chính - và đây là một hiện tượng hoàn toàn mới trong lịch sử. Từ 
cuối Chiến tranh Thế giới II đến đầu thập niên tám mươi, mức lương trung
 bình trong ngành ngân hàng ở Mỹ gần bằng với mức lương trung bình trong
 khu vực tư nhân nói chung. Năm 2007, mức lương này đã cao gấp đôi.
Bạn có thể tự hỏi ngành ngân hàng Mỹ cho ra cái gì mới ghê gớm để 
biện minh cho mức lương cao như thế. Giải thích rất rõ ràng là, trong 
hai thập kỷ qua, người ta đã tạo ra rất nhiều sáng chế trong lĩnh vực 
tài chính, dẫn đến sự gia tăng về quy mô hoạt động của các ngân hàng. 
Những sáng chế rất có lợi nhuận và phổ biến (như chứng khoán, CDS, CDO, 
mô thức chuyển giao rủi ro cho những người không hiểu nó thấu đáo, những
 sáng tạo trong ngân sách với những thủ pháp nhằm tăng đòn bẩy tài 
chính, v.v và v.v) đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất từ tám
 mươi năm nay. Theo tổng kết trong báo của Ngân hàng Anh quốc, được điều
 tiết bảo lãnh và bảo đảm, thì người nộp thuế đã phải gánh hơn 10 nghìn 
tỷ đô la cho việc tài trợ các tổ chức tài chính trước nguy cơ sụp đổ 
trên toàn thế giới.
Tại sao công chúng lại phải như thế? Bởi vì các ngân hàng đã trở thành "quá lớn để sụp đổ" (too big to fall),
 mặc dù có một tuyên bố chính xác hơn là: đã quá hệ thống với tầm quan 
trọng ở mức có thể cho sụp đổ. Năm 1995, tài sản của sáu ngân hàng lớn 
nhất ở Hoa Kỳ chiếm ít hơn 20% thu nhập quốc dân của Hoa Kỳ. Trong năm 
2007, đã lên tới 60%, nhưng trong cuộc khủng hoảng thậm chí còn tăng lên
 do sự sáp nhập của các ngân hàng.
Bệnh lý 2: Người nộp thuế là con tin của ngân hàng
Trong nhiều thế hệ, kinh tế tư nhân đã là động cơ của tăng trưởng 
kinh tế. Các doanh nhân sử dụng tiền tiết kiệm của họ và gia đình, 
thường đi vay tiền, để có thể phát triển doanh nghiệp của mình, và gặt 
hái thành quả. Kết quả có được đã phải trả giá cho sự chấp nhận mạo hiểm
 cao, làm việc nặng nhọc và những hy sinh. Nếu doanh nghiệp thất bại, 
công ty phá sản, doanh nhân sẽ mất hết tài sản hoặc một phần.
Đôi khi, các công ty trở nên quá lớn và đặt ra mối đe dọa cho công 
chúng. Ví dụ, thông qua kích thước của chúng và những lợi nhuận khổng lồ
 họ có thể "mua" phiếu bầu, hoặc đạt được lợi nhuận độc quyền. Trong 
nhiều thế kỷ qua, người ta đã lưu tâm để các công ty không trở nên quá 
lớn ở mức như vậy. Việc làm của các vị tổng thống và dân biểu quốc hội 
đã dẫn đến việc phân chia những tập đoàn khổng lồ như Standard Oil hay 
Nothern Securities Company trong thế kỷ XX.
Nhưng trong trường hợp của ngành ngân hàng người ta đã không có 
hành động hiệu quả nào để chống lại sự gia tăng của các tổ chức này ở 
mức độ đe dọa nền kinh tế và dân chủ.
Trong hoạt động của ngành ngân hàng ở Mỹ (như được nói đến trong 
phần tiếp theo), các ngân hàng đã có thể thực hiện mô hình phát triển 
của mình một cách hiệu quả: Nếu chúng tôi có lãi thì đó là phần kiếm 
được của giới tài chính đầu sỏ, còn nếu chúng tôi thua lỗ - người đóng 
thuế sẽ chi trả.
Khi có bất kỳ vấn đề gì, các ông chủ ngân hàng trên Phố Wall và 
những học giả hàn lâm, các nhà báo, nghị sĩ và các nhà quản lý, những 
người liên quan với họ, ngay lập tức làm khuấy động lên nỗi hoảng sợ, 
rằng, nếu các ngân hàng sụp đổ thì sẽ là thảm hoạ lớn. Sau khi cuộc 
hoảng sợ bắt đầu, người ta có thể chi ra hàng trăm tỷ đô la tiếp theo để
 giải cứu các ngân hàng.
Các ngân hàng đang ngày càng trở nên lớn hơn và bệnh lý dựa trên 
thực tiễn là các chủ ngân hàng bắt người nộp thuế làm con tin ngày càng 
phổ biến.
Tôi đang đợi ở phiên bản mới của cuộc khủng hoảng đang nhanh chóng 
tới gần, một lần nữa chúng ta sẽ thử độ sâu của túi người nộp thuế, chỉ 
khác là thời gian này phải thọc tay sâu hơn nhiều so với năm 2008 và 
2009.
Bệnh lý 3: "Tham nhũng hiện đại" với quy mô chưa từng có
Trong bảy tháng đầu tiên giữ chức Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ, 
Timothy Geitner đã cho ký kết hơn 80 hợp đồng với các chủ tịch ngân 
hàng, Goldman Sachs của Lloyd Blankfein, Jamie Dimon của JP Morgan và 
Vikram Pandit của Citigroup. Tất nhiên là Bộ trưởng Ngân khố thì phải 
nói chuyện với các chủ ngân hàng khi cuộc khủng hoảng tài chính kéo dài.
 Nhưng sự cân đối trở nên khập khiễng khi ông ta gặp gỡ người đứng đầu 
Goldman thường xuyên hơn là với Chủ tịch Ủy ban Ngân hàng của Thượng 
viện, và thường xuyên hơn với người đứng đầu của Citigroup hơn là Chủ 
tịch Ủy ban tài chính của Quốc hội.
Sự hợp tác chặt chẽ này, hay mối quan hệ gần gũi của các ngân hàng 
và các chính khách, cùng với những nhà hoạch định chính sách, xuất phát 
từ hai lý do.
Thứ nhất là mô hình hoạt động "cánh cửa quay", thông qua đó các 
thành viên trong Hội đồng quản trị của ngân hàng cũng giữ các chức vụ 
công cộng quan trọng, có ảnh hưởng lên các quy chế ngân hàng, còn các 
cựu chính khách thì tới ngân hàng làm việc, kiếm nhiều triệu đô la mỗi 
năm. Có thể nêu hàng trăm ví dụ, nhưng chúng ta chỉ đưa ra một số: Bộ 
trưởng Tài chính Hank Paulson là cựu lãnh đạo của Goldman Sachs, ba cố 
vấn quan trọng trong thời gian ông tại nhiệm - Robert Steel, Saffron 
Steve và Neel Kashari - đã được tuyển chọn từ Goldman. Larry Summers, 
nhà kinh tế nổi tiếng và là giám đốc quản lý quỹ trọng tài D. E. Shaw, 
trở thành người đứng đầu Hội đồng Kinh tế Quốc gia trong chính phủ của 
Barack Obama. Robert Rubin, Peter Orszag, và nhiều người khác, và thậm 
chí cả Giám đốc Văn phòng của Barack Obama, Ram Emmanuel, trước đây đều 
có mối liên kết với ngân hàng hoặc các quỹ trọng tài. Tất cả mọi người 
chăm lo cho lợi ích của Wall Street và quên lãng số phận của những gia 
đình bình thường mà thu nhập thực tế của họ bị giảm đi trong hai thập kỷ
 qua. Nhưng đó là những gia đình đã phải chịu chi phí giải cứu hệ thống 
ngân hàng trong năm 2008 và 2009.
Thứ hai, các ngân hàng lớn nhất cũng là các nhà tài trợ kinh phí 
cho các chiến dịch vận động tranh cử vào Thượng viện và Quốc hội. Nhiều 
nghiên cứu được thực hiện đã chỉ ra rằng, các dân biểu và thượng nghị sĩ
 đã từng nhận nhiều tiền nhất từ các ngân hàng, sau đó rất năng động 
và quảng bá có hiệu quả cho lợi ích của ngân hàng. Sự bãi bỏ những quy 
định chế tài xảy ra trong ba mươi năm qua mà một phần phải chịu trách 
nhiệm cho cuộc khủng hoảng tài chính trong quá khứ và đang tới, đã được 
thực hiện theo cách này, bằng bàn tay và tiếng nói của những dân biểu 
quốc hội đã nhận tiền từ ngân hàng tài trợ cho các chiến dịch tranh cử 
của họ. Mặc dù tất cả mọi thứ được thực hiện theo đúng quy định của pháp
 luật, nhưng nhiều tác giả gọi cách thức này là "tham nhũng hiện đại" 
trên một quy mô lớn hơn nhiều so với tham nhũng thường gặp phổ biến ở 
các nước cộng hòa chuối.
Bệnh lý 4: Thói tự mãn và tham lam
Ba thứ bệnh lý đã nói trên được bổ sung thêm bệnh lý thứ tư, tức là
 sự tự mãn. Trong năm 2008, khi khu vực tài chính lung lay và người nộp 
thuế đã phải giải cứu các ngân hàng bằng hàng trăm tỷ đô la, sếp của 
Citigroup Vikram Pandit nhận 30 triệu đô la tiền lương cho chức vụ chủ 
tịch ngân hàng và 165 triệu đô la từ việc bán quỹ trọng tài của mình 
cho... Citigroup.
Sếp của Goldman Sachs, Lloyd Blankfein, nói công khai rằng, ông ta 
đã làm công việc của Thượng Đế, bởi vì ông cho các công ty vay tiền là 
để tuyển dụng người làm việc, làm cho họ có thể sản xuất ra cái gì đó.
Một thành viên khác của hội đồng quản trị của Goldman Sachs còn nói
 với công luận rằng Chúa Giêsu nói hãy yêu thương người thân cận như 
chính mình, có nghĩa là chúng tôi hỗ trợ cho các hoạt động có lợi cho 
chính bản thân mình. Do đó, chúng tôi phải chịu sự phân tầng rất lớn của
 thu nhập, bởi vì đây là cách để đạt được sự phát triển nhanh hơn và tạo
 cơ hội cho tất cả.
Thế nhưng, như thể hiện qua dữ liệu trong vài thập kỷ qua, cơ hội 
chủ yếu là dành cho giới tài chính đầu sỏ của Hoa Kỳ kiếm được hàng tỷ 
đô la bằng cái giá phải trả của người nộp thuế. Các gia đình trung bình,
 trong trường hợp tốt nhất, giữ được mức thu nhập của mình. Các tổ hợp 
ngân hàng Phố Wall và những chính trị gia của Washington có liên hệ với 
họ đã nhìn thấy vấn đề này, bởi vì người Mỹ trung bình không thể tăng 
thu nhập từ bối cảnh trì trệ, nên người ta đã cung cấp tín dụng giá rẻ 
cho họ và đẩy mạnh lối sống trên vay mượn. Mức nợ không chỉ của người 
Mỹ, mà còn của người Anh và Tây Ban Nha, đã đạt tới mức phi lý, chưa 
từng có trong lịch sử nhân loại.
Sự bùng nổ kinh tế dựa trên tín dụng đã chứng tỏ là một ảo ảnh, 
cũng như huyễn hoặc về quyền sở hữu nhà của hàng triệu người Mỹ mà bây 
giờ bị các ngân hàng thu hồi. Ngân hàng gom lại một khối tài sản lớn 
không thể tưởng tượng, còn người Mỹ trung bình sống trong ảo tưởng. Ngân
 hàng thu lợi hai lần, đầu tiên từ khách hàng của các ngân hàng trong 
hai thập kỷ qua, và sau đó từ người nộp thuế trong cuộc khủng hoảng năm 
2008-2009. Khi các nhà tài chính nhận tài trợ của chính phủ sau sự sụp 
đổ của Lehman Brothers, họ tự đảm bảo cho mình những điều kiện rất thuận
 lợi, rẻ hơn nhiều lần so với nguồn tài trợ của các ngân hàng tại thời 
điểm này từ các nhà đầu tư tư nhân.
Hành xử của các ngân hàng trong cuộc khủng hoảng, như là một sự tự 
mãn, họ chi ra nhiều triệu đô la tiền thưởng trong khi hàng triệu người 
mất việc và nhà cửa, đã gây ra sự bất mãn rất lớn, thậm chí thù hận 
trong xã hội Hoa kỳ đối với giới tài chính đầu sỏ. Nhưng, mặc dù có sự 
bất bình lớn như vậy, các đạo luật tiếp theo, mà mục đích là để kiểm 
soát các ngân hàng lớn của Hoa Kỳ, chỉ có hiệu quả thấm nước, nhờ ảnh 
hưởng to lớn của các ngân hàng lên quá trình lập pháp tại Washington. Cơ
 chế Dân chủ ngưng làm việc.
Hãy kịp trước khi có cuộc cách mạng
Trong vài năm qua đã có nhiều cuốn sách viết về vai trò ngày càng 
tăng của giới  tài chính đầu sỏ, đặc biệt ở Hoa Kỳ. Được biết đến nhiều 
nhất là "Superclass" của David Rothkopf trong năm 2008, "Too Big Fail" của Andrew Roskina trong năm 2009 và "13 Bankers"
 của Simon Jonson và James Kwak trong năm 2010. Các chủ đề được minh hoạ
 bằng hình ảnh tư liệu, dựa trên những cuộc họp cụ thể, các cuộc hẹn, 
hoặc quá trình ban hành pháp luật, mô tả quá trình của bốn bệnh lý mà 
tôi kể ra. Với các bạn quan tâm, tôi đề nghị đọc những cuốn sách này, 
bởi vì lĩnh hội các dữ kiện chứa trong các cuốn sách trên, mọi người có 
thể hiểu rõ hơn lý do tại sao tôi đặt ra giả thiết mạnh mẽ: giới tài 
chính đầu sỏ ở Hoa Kỳ là mối đe dọa lớn nhất đối với dân chủ.
Không thể được bầu vào Thượng viện hay Quốc hội nếu không có số 
tiền rất lớn và số tiền này chủ yếu là từ ngân hàng. Không thể chia các 
ngân hàng ra nhỏ hơn, hoặc không thể không cho họ kinh doanh rủi ro, bởi
 vì quyền lợi của họ được bảo vệ bởi những người ngồi tại Thượng viện và
 Quốc hội, những người nhờ có tiền từ ngân hàng mà giành được ghế trên 
Capitol Hill. Không được cho phép các ngân hàng sụp đổ trong khủng hoảng
 vì chúng "quá lớn" hoặc "quá quan trọng đối với hệ thống kinh tế" - và 
họ có khắp mọi nơi những người của mình không cho phép làm như thế.
Lịch sử đã cho chúng ta những bài học rằng rất nhiều giai đoạn, 
trong đó một nhóm nhỏ những người làm giàu quá mức bằng cái giá của công
 chúng, đều kết thúc bi thảm. Cách mạng bùng nổ, chiến tranh hoặc bạo 
loạn, các quốc gia nghèo đi, còn dân chủ và thị trường tự do phải trải 
qua sự suy yếu rất lớn, thường kéo dài nhiều thập kỷ.
Theo nhận định của tôi, một cuộc khủng hoảng lớn đang tới, có thể 
sâu sắc hơn nhiều so với thời kỳ năm 2008-2009, sẽ dẫn đến một cuộc suy 
thoái lớn ở châu Âu, và có lẽ trên thế giới. Sau đó, các chính phủ và 
quốc hội của nhiều quốc gia sẽ phải đối mặt với sự lựa chọn: tiếp tục 
cứu các ngân hàng một lần nữa, hay là cứu đất nước ấy khỏi phá sản, tức 
là cứu các công dân bình thường. Mong rằng họ sẽ có quyết định khôn 
ngoan.
Bản Việt ngữ © 2011 Lê Diễn Đức - RFA Blog