Justin Logan, Foreign Policy, November 9, 2011
Trần Ngọc Cư dịch
Mỹ quyết định hướng về phương Đông là hợp lý. Nhưng ngấm ngầm bảo các
 đồng minh ở châu Á rằng Mỹ sẽ chi viện để bảo vệ nền an ninh của họ là 
một luận cứ điên rồ và không đứng vững.
Sự kiện được lưu lại trên hồ sơ là, Chính quyền của Tổng thống Barack
 Obama muốn chuyển hướng chính sách đối ngoại Mỹ từ Trung Đông sang Đông
 Á. Bài viết mới đây của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton trên 
tạp chí Foreign Policy tiêu biểu cho tư duy này. “Tương lai của
 Mỹ được đan quyện thiết thân với tương lai khu vực châu Á-Thái Bình 
Dương”, bà Clinton đã viết như vậy, đồng thời đề cao “vai trò không thể 
thay thế [của Washington] trong khu vực Thái Bình Dương”.
Tập trung sự quan tâm của Mỹ vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương là 
một tham vọng hợp lý, nhưng chính sách của Chính quyền Obama ở vùng này 
thì không. Chính cái động lực muốn trấn an các đồng minh châu Á rằng Mỹ 
chắc chắn sẽ bảo vệ an ninh cho họ có khả năng khiến họ tiếp tục lợi 
dụng các nỗ lực của Mỹ để đỡ phải chi phí an ninh quốc phòng – trong một
 thời đại mà Washington càng ngày càng thâm hụt ngân sách.
Cả Robert Gates lẫn Leon Panetta, trong chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng 
Mỹ, đều đã đến châu Âu để khiển trách các đồng minh của Mỹ ở đó đã không
 có một ngân sách đầy đủ cho quân lực của mình. Đây không phải là một 
hiện tượng lạ tại châu Âu – thậm chí trong thời Chiến tranh lạnh, các 
đối tác của Mỹ tại châu Âu cũng chỉ đóng những vai phụ trong vở tuồng 
giữa hai vai chính là Washington và Moscow. Từ khi Liên Xô sụp đổ đến 
nay, sự cách biệt về ngân sách quốc phòng giữa Mỹ và các đồng minh châu 
Âu đã trở nên tồi tệ hơn nữa: Chỉ 4 trong 27 quân đội của các nước thành
 viên NATO, không tính đến Mỹ, chịu chi tiêu đủ tỷ số đã thỏa thuận là 
2% GDP vào ngân sách quốc phòng.
Sở dĩ các đồng minh châu Âu này đã tránh né những cam kết quốc phòng 
cũng chỉ vì họ quá khôn ngoan đó thôi. Họ biết rằng nếu họ không tự bảo 
vệ chính mình, thì đã có Chú Sam làm việc đó cho họ. Thái độ khôn ngoan 
này đã cho phép người châu Âu chi tiêu các nguồn lực của mình vào nhiều 
thứ khác hơn là quốc phòng, từ việc bành trướng nhà nước phúc lợi 
(welfare states) đến việc thực thi các chương trình xây dựng cơ sở hạ 
tầng đồ sộ. Họ để người đóng thuế tại Mỹ – và bây giờ là chủ nợ của họ –
 đứng ra chi tiêu cho quốc phòng của châu Âu.
Trở về với thập niên 1960, các nhà hoạch định chính sách Mỹ đã phải 
ngỡ ngàng ở mức độ chi tiêu quốc phòng quá thấp của các thành viên NATO 
châu Âu. Trong một bài báo xuất bản năm 1966, các nhà kinh tế Mancur 
Olson Jr. và Richard Zeckhauser chứng minh rằng trong việc cung ứng các 
lợi ích tập thể (như an ninh) trong các tổ chức (như các liên minh), các
 thành viên to lớn nhất có khuynh hướng chịu đựng “một phần to lớn vượt 
mức tương xứng [disproportionately] trong gánh nặng chung”. Khi một tập 
thể tuyên bố một điều gì đó là lợi ích chung, thì người ta coi là hợp lý
 khi các thành viên nghèo khổ tránh né nghĩa vụ và để các thành viên 
giàu có hơn gánh vác phần lớn gánh nặng vượt mức tương xứng.
Những gì đã diễn ra ở châu Âu hiện đang diễn ra ở châu Á. Các nước 
trong khu vực đã bày tỏ mối lo âu đáng kể trước sự bành trướng sức mạnh 
của Trung Quốc – và đang phản ứng bằng các vận động ngoại giao. Tháng 
Chín vừa qua, tiếp theo sau các hành động khiêu khích của Trung Quốc 
trong Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông], các lãnh đạo của Philippines và 
Nhật Bản đã ra một tuyên bố chung đánh dấu một “Quan hệ đối tác chiến 
lược” mới mẻ và bày tỏ “những lợi ích chiến lược chung” như “đảm bảo sự 
an toàn của các đường vận chuyển trên biển”. Gần đây hơn, Thủ tướng Nhật
 Yoshihico Noda tuyên bố rằng môi trường an ninh của Nhật ngày càng trở 
nên “vẩn đục do việc Trung Quốc tăng cường các hoạt động trên các vùng 
biển trong khu vực và do việc Trung Quốc bành trướng quân đội quá 
nhanh”.
Những vận động ngoại giao này là đáng hoan nghênh, nhưng vấn đề là 
những đồng minh quan trọng nhất của Mỹ trong khu vực này không chịu chi 
tiêu sòng phẳng. Nhật bản chỉ tiêu 1% GDP cho quốc phòng, và Nam Hàn 
tiêu chưa đến 3%, mặc dù nước này ở sát nách Trung Quốc và Bắc Hàn. Đài 
Loan, đang đối mặt với một trong những tình thế đe dọa nhất trên địa 
cầu, cũng chi tiêu chưa tới 3% GDP cho quốc phòng. Giả dụ không có sự 
che chở của Mỹ, chắc chắn các nước này sẽ nỗ lực nhiều hơn để tự lo cho 
chính mình.
Nhưng Mỹ, với lợi thế cô lập địa lý và kho vũ khí hạt nhân đồ sộ, lại
 chi tiêu đến 5% lợi tức quốc gia cho quốc phòng. Trừ phi người ta vững 
tin rằng sự tăng trưởng kinh tế vững mạnh, những cắt giảm y tế cho người
 cao niên và an sinh xã hội, hay những đợt tăng thuế to lớn sắp diễn ra 
trên đất Mỹ, tình trạng bế tắc ngân sách – và cùng với nó, sức ép thúc 
đẩy phải cắt giảm các chi tiêu quốc phòng – chỉ tiếp tục gia tăng mà 
thôi.
Các nhà hoạch định chính sách tại Washington trong cả hai đảng, Dân 
chủ và Cộng hòa, có vẻ tin tưởng rằng trấn an các đồng minh của Mỹ tại 
châu Á là đường lối tốt nhất để bảo vệ các lợi ích của Mỹ trong khu vực 
châu Á – Thái Bình Dương. Nhưng thay vì tìm cách xoa dịu nỗi lo lắng của
 các quốc gia đối tác, Mỹ cần phải gieo hoài nghi về sự cam kết của Mỹ 
đối với nền an ninh của các nước đồng minh. Chỉ khi đó họ mới chịu chia 
sẻ gánh nặng đề phòng chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc. Nếu không, 
các Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nay mai lại phải than phiền các đồng minh 
châu Á, cũng như các đồng minh châu Âu trước đây, không chịu từ bỏ việc 
ăn bám.
Justin Logan là Giám đốc Ban nghiên cứu chính sách đối ngoại tại 
Viện Cato, một viện nghiên cứu chính sách (think tank) có khuynh hướng 
tự do tại thủ đô Washington.
T.N.C. dịch
