Ngô Nhân Dụng
Từ giữa thế kỷ 20 môn kinh tế học mới bắt đầu chú ý đến luân lý như một tài nguyên; có người gọi thẳng là Love (tình thương), có người gọi là Civic spirit hoặc Civic Culture (tinh thần công dân), hoặc như Albert O. Hirschman từ năm 1970, gọi chung là các tài nguyên tinh thần (moral resources). Gọi là một tài nguyên, người ta công nhận nó giống như một thứ “Vốn” chung của xã hội, nó có thể giúp gia tăng của cải, sẽ sinh lợi không khác gì các thứ vốn như tiền bạc, đất đai, hiểu biết, vân vân; và nó cũng có thể bị phí phạm, hao mòn, hay được làm cho đầy, cho phong phú thêm.
Dần dần, hầu hết các nhà kinh tế đã đồng ý “tài nguyên tinh thần” rất quan trọng, nên giữ gìn và phải học cách sử dụng sao cho hiệu quả nhất. Một thứ tạo nên tài nguyên tinh thần là Niềm Tin (Trust) trong xã hội. Kinh tế chỉ có thể phát triển nếu mỗi người ký một hợp đồng có thể tin rằng phía bên kia sẽ hết sức thi hành bản hợp đồng đó. Ngay cả những doanh nhân không thích ký hợp đồng, nhưng họ biết đang làm ăn những người đáng tin (quân tử nhất ngôn), khi bắt tay nhau là họ có thể tin nhau rồi, thì việc kinh doanh của họ rất phát đạt. Các Hoa kiều hải ngoại hay làm ăn kiểu đó. Nhưng nếu niềm tin được bảo vệ bằng các định chế chính thức của xã hội, như luật lệ, hệ thống tư pháp sạch sẽ và tòa án công minh, thì thứ tài nguyên đó sẽ giúp cho kinh tế phát triển rất mạnh. Chỉ khi nào chứng kiến những xã hội lạc hậu về kinh tế vì người dân không ai dám tin ai mà cũng không nghĩ người khác sẽ tin mình, thì mới thấy thiếu niềm tin là mất một tài nguyên kinh tế rất quan trọng. Trong các xã hội lạc hậu, mọi người sống ích kỷ không nghĩ đến người khác, không có lòng tôn trọng công ích hơn tư lợi, thì nền kinh tế không thể nào phát triển cao được; vì mọi người khó cộng tác với nhau.
Tại sao có những xã hội mà người ta tạo được tài nguyên tinh thần rất giầu, còn nhiều xã hội thì không? Tài nguyên tinh thần cần được gieo giống, rồi được tưới tẩm, hết thế hệ này sang thế hệ khác. Muốn hiểu diễn trình cấu tạo nên tài nguyên tinh thần, có thể dùng một phương pháp kinh tế học là Game Theory (Lý thuyết Trò chơi). Một câu chuyện nổi tiếng là Chuyện Hai người tù (The prisoners dilemma). Đại khái, có hai người bị bắt, nếu cộng tác với nhau cùng khai vô tội thì sẽ được bị án rất nhẹ, còn nếu phản phúc thì cả hai sẽ bị án nặng nề. Nhưng hai người tù không tin được nhau. Khi suy xét một cách thuần lý, cuối cùng mỗi người tù thấy chọn đường phản phúc thì có lợi nhất, mặc dù cả hai đều bị thiệt. Trong xã hội, mọi người đều biết suy nghĩ như thế. Điều này trái ngược với nhận xét chung là trong rất nhiều xã hội người ta vẫn tin tưởng nhau, vẫn cộng tác với nhau. Làm cách nào giải thích được hiện tượng nghịch lý này?
Các nhà nghiên cứu kinh tế và xã hội học đã thấy là có một cách để bảo đảm một người sẽ không phản phúc, là tiếng tăm. Nếu anh bị mang tiếng là hay phản phúc thì sẽ bị mọi người ruồng bỏ, không ai tin anh nữa, đó là một hình thức trừng phạt. Một “Định luật” được công nhận là khi một người tham dự vào “nhiều cuộc chơi lập lại rất nhiều lần” (repeated games) thì dần dần họ sẽ sợ bị người chung quanh trừng phạt, do đó sẽ chọn hành vi cộng tác để được tín nhiệm. Có những điều kiện giúp củng cố luật chơi tín nhiệm này: Số người tham dự nhỏ (trong một xóm ai cũng biết ai, phản phúc là tự loại mình); hoặc thông tin về hành vi của mọi người đều dễ phổ biến cho tất cả biết (không cấm tự do thông tin, không có những quyết định trong các phiên họp bí mật); và các người tham dự biết giá trị của những lợi ích tương lai chứ không chỉ chú tâm đến hiện tại. Khi xã hội đã thiết lập được một hệ thống trừng phạt và tưởng thưởng như thế, niềm tin chung sẽ gia tăng. Nếu ngược lại, có lúc hệ thống tưởng thưởng và trừng phạt này bị phá vỡ vì xã hội theo những luật chơi mới, niềm tin sẽ tan mất. Muốn lập lại, phải bắt đầu cuộc chơi lại từ đầu, xây dựng niềm tin lên dần dần, mất nhiều thời gian.
Trước Hirschman có người đã nhận xét rằng Niềm Tin là “một thứ tài nguyên càng sử dụng thì càng giầu hơn chứ không bị hao mòn; nhưng nếu không được đem dùng thì nó sẽ dần dần tiêu tán.” Nó cũng giống như một kỹ năng (skill), chẳng hạn tài chơi đàn, hay nói được một tiếng ngoại quốc. Nó cũng không hiếm hoi như quặng mỏ hoặc trình độ giáo dục.
Albert Hirschman đưa ra một cách nhìn mới. Ông nhận thấy có hai trường hợp khiến tài nguyên tinh thần có thể bị hủy hoại: Một là khi nó không được dùng tới, sẽ hao mòn đi, như người khác đã thấy. Hai là nếu nó bị sử dụng nhiều quá, quá khả năng cung cấp của loài người, thì cũng sẽ giết chết nó.
Hirschman (năm nay 96 tuổi) đã nhìn thấy, từ 1970, 80, tình trạng tài nguyên tinh thần bị hao mòn hay bị hủy diệt, trong cả hai hệ thống kinh tế tư bản và cộng sản. Trong kinh tế tư bản, người ta không chú ý vận dụng tài nguyên tinh thần, vì rất khó đo lường để đưa nó vào phương trình kinh tế. Cho nên, tài nguyên tinh thần có thể bị hao mòn (atrophy) vì mọi người chỉ lấy lợi nhuận làm thước đo thành công. Nếu niềm tin còn tồn tại trong thế giới tư bản, đó là nhờ các định chế pháp luật và các quyền tự do dân chủ, chúng bảo đảm những người cộng tác được thưởng, kẻ phản phúc bị trừng phạt.
Trong hệ thống kinh tế cộng sản thì ngược lại. Họ tận dụng tài nguyên tinh thần, cổ động niềm tin vào chủ nghĩa, vào khả năng giới lãnh đạo; họ không coi niềm tin giữa các cá nhân là quan trọng như một tài nguyên tinh thần; vì tất cả đã được thay thế bằng niềm tin chung vào chủ nghĩa cộng sản. Chỉ cần động viên niềm tin vào Đảng cho vững chắc là mọi chuyện sẽ thành tựu. Nhưng hệ thống kinh tế và chính trị cộng sản cổ động niềm tin quá khả năng cung cấp của tất cả mọi người, nhất là các đảng viên. Họ đưa ra những khẩu hiệu, như “Con người mới” của Fidel Castro, “Tự chủ” của Kim Nhật Thành. Điều nguy hiểm là sự thành công của cả hệ thống lại tùy thuộc vào tài nguyên tinh thần này. Cho nên họ đòi hỏi, “Muốn có xã hội cộng sản phải có con người cộng sản.” Mà một mẫu người lý tưởng theo kiểu các tôn giáo vẫn đề cao như thế thì chỉ có trong tưởng tượng, không xã hội loài người nào đạt được. Hậu quả là hệ thống kinh tế cộng sản tạo ra một xã hội sống giả dối, dùng nhiều mặt nạ khi sống với nhau. Lối sống đó tất nhiên phá hoại tất cả tài nguyên tinh thần. Tình trạng tài nguyên tinh thần bị hao mòn là một phần nguyên do đã gây ra hậu quả kinh tế trì trệ rồi sụp đổ.
Đảng Cộng sản ở hai nước Trung Quốc và Việt Nam đã “đổi mới kinh tế.” Họ đã khai thác ngay được một thứ tài nguyên lớn, là sức người. Chỉ cần họ nới lỏng guồng máy kiểm soát kinh tế; cứ cho người dân được thêm một chút tự do làm ăn là khả năng sản xuất của người ta chắc chắn sẽ tăng lên. Nhưng cả hệ thống chính trị của hai nước vẫn chưa nghĩ đến chuyện khôi phục lại các tài nguyên tinh thần đã bị mất. Ngược lại, việc họ tìm cách bảo vệ quyền lợi các đảng viên bằng hệ thống tham ô toàn diện còn làm cho các tài nguyên tinh thần bị hủy hoại mạnh và nhanh hơn trước. Tình trạng đạo đức giả chỉ tăng lên chứ không giảm đi, vì nó thể hiện từ cấp cao nhất: lý thuyết, tư tưởng chính thức của guồng máy cai trị. Họ vẫn nói đi theo chủ nghĩa Cộng sản, nhưng trong thực tế họ pha trộn một hệ thống tư bản thời hoang dã với một chế độ công an trị thời phát xít. Miệng đề cao công ích nhưng ai cũng chỉ lo vơ vét tư lợi. Tham ô và nhũng lạm quyền hành được phơi bầy công khai, trâng tráo, trong khi nhà nước vẫn hô hào chống tham nhũng. Tài nguyên tinh thần đã bị phá hoại toàn diện chứ không phải chỉ bị hao tổn như khi còn theo kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Một độc giả Người Việt mới viết cho tòa soạn kể chuyến đi thăm quê hương mấy tháng. Vị độc giả nhận thấy guồng máy chính quyền bóc lột dân; chuyện đó nhiều người đã nói. Nhưng ông (hay bà) còn thấy, “người dân cũng bóc lột lẫn nhau vô tội vạ, đối xử với nhau bằng những cái mặt nạ nhân nghĩa giả dối trơ trẽn!”
Hồi đầu tháng Ba năm 2011, ký giả Carl Robinson sau khi thăm Việt Nam, mới nêu một nhận xét, “Sau gần 60 năm cai trị của Đảng Cộng sản ở miền Bắc và hơn 35 năm ở miền Nam, tất cả người Việt Nam ngày nay theo chủ nghĩa cá nhân tột cùng. Thay vì tinh thần hướng về cùng một mục đích chung và đoàn kết với nhau thì bây giờ ai cũng chỉ lo cho bản thân mình, như tâm trạng sauve qui peux (ai chạy được thì thoát, tiếng Pháp trong nguyên văn) …” Robinson cho biết ông đã đi khắp nơi, gặp rất nhiều người ở Việt Nam trong 18 tháng trời.
Không biết Carl Robinson có đọc Albert O. Hirschman hay không, nhưng ông mô tả tình trạng ở Việt Nam hiện nay giống hệt điều mà nhà kinh tế đã nêu ra trước đây mấy chục năm: Lạm dụng tài nguyên tinh thần sẽ hủy hoại nó. Ông kể đã thấy người Việt Nam được đảng và nhà nước đối đãi giống như các học sinh trong các trường mà trong đó các vị giáo sĩ dậy trẻ những quy luật không bao giờ được ai theo cả: “Tất cả mọi người được coi như trẻ nít, được học giáo lý suốt ngày bằng những khẩu hiệu, các ngày lễ lạc, các giấc mơ vĩ đại. Khi tôi than phiền với một số người ở một thành phố ven biển gần đây về những bài phát thanh tuyên truyền mỗi sáng, một người cười lớn nói, Đó chỉ là tuyên truyền thôi; chúng tôi không bao giờ nghe cả!”
Đó là một cách tiêu diệt tài nguyên tinh thần một cách có hệ thống. Muốn xây dựng lại được vốn liếng tinh thần mà tổ tiên đã xây dựng trong mấy ngàn năm trước người Việt Nam biết sẽ phải làm gì. Phải thay đổi cách sống chung với nhau, tất cả mọi người. Một chế độ đã hủy hoại tài nguyên tinh thần của dân tộc hơn một nửa thế kỷ qua, không có lý do gì để tiếp tục việc tàn phá đó nữa.
Không phải ai cũng ở Việt Nam lâu ngày, được đi nhiều, thấy nhiều, gặp gỡ và chứng kiến nhiều cảnh sống để kết luận như ký giả Robinson. Nhưng chắc phần lớn mọi người quan sát đời sống ở nước ta hiện nay đều thấy nền tảng tinh thần, đạo đức đã bị sói mòn khá nặng nề trong mấy chục năm qua. Đó là một sự mất mát lớn.
Tài sản mất sẽ tạo lại được. Của cải mất rồi có lúc lại làm ra, khá nhanh. Tự do bị mất, mất rất nhanh, ngay lập tức sau ngày 30 tháng Tư, nhưng thế nào cũng sẽ đòi lại được, cũng không lâu lắm đâu. Nhưng có một thứ đã mất, mất từ từ chậm chậm; mà muốn phục hồi được rất khó, đó là nền tảng tinh thần của xã hội. Cái vốn tinh thần phải hàng ngàn năm mới dựng lên được. Khi muốn phá, chỉ cần một thế hệ cũng đủ. Muốn dựng lại, cần vài ba thế hệ mới hy vọng xong.
Vậy chúng ta đã mất gì sau ngày 30 tháng Tư năm 1975? Nếu nhìn lại lịch sử cả nước Việt Nam thì câu hỏi không còn là ngày 30 tháng Tư ai mất những gì nữa. Bởi vì chỉ có người Việt ở miền Nam bắt đầu thấy các tài nguyên tinh thần bị soi mòn từ ngày đó; còn đồng bào ở miền Bắc đã bị mất mát như vậy từ một phần tư thế kỷ trước, tính đến nay hơn 60 năm rồi.
NND
Chú Thích
Ngụ Ngôn Hai Người Tù
Ngụ Ngôn Hai Người Tù, tên gọi đúng là “Thế Lưỡng Nan của Người Tù” – prisoners’ dilemma. Lưỡng nan là khi chúng ta phải chọn giữa hai đường, đường nào cũng có cả lợi lẫn hại. Khi hiểu chuyện ngụ ngôn về thế lưỡng nan này chúng ta sẽ thưởng thức được ý nghĩa của cuộc thí nghiệm.
Chuyện ngụ ngôn hai người tù kể như vầy: Tanya và Cinque bị bắt trong lúc cướp ngân hàng Hibernia, họ bị giam ở hai phòng riêng. Theo giả thuyết trong kinh tế học, ai cũng suy nghĩ thuần lý tức là mỗi người chỉ lo cho mình trước, lo cho bạn sau.
Một viên biện lý khôn ngoan biết mình không đủ bằng cớ buộc tội, đã bảo riêng mỗi người tù rằng: “Mày có thể thú tội, hoặc giữ im lặng. Nếu mày thú tội mà bạn mày không thú, mày sẽ được tha, còn bạn mày sẽ bị tù 10 năm vì có mày làm chứng. Ngược lại, nếu mày im lặng mà bạn mày tự thú thì nó sẽ được tha, còn mày ở tù 10 năm. Nếu cả hai cùng thú tội, cả hai sẽ bị tù, nhưng tòa sẽ cho án nhẹ thôi, mỗi đứa 5 năm. Nếu cả hai cùng im lặng, dù không tìm đủ chứng cớ buộc tội ăn cướp, nhưng tòa sẽ vẫn buộc tội mang vũ khí bất hợp pháp và phạt ít nhất là 6 tháng tù. Bây giờ nghĩ đi, sáng mai viết cho tòa một tấm giấy thú tội!”
Xét kỹ các điều kiện trên thì tốt nhất là cả 2 bị cáo đều nhất định chối, mỗi anh sẽ bị 6 tháng thôi; nói theo các nhà kinh tế đó là “giải pháp tối ưu.” Nếu cả hai cùng thú tội, sẽ bị tù đến 5 năm.
Nếu hai người tù có dịp bàn bạc với nhau, chắc chắn họ sẽ cùng chối bay chối biến. Đó là “giải pháp tối ưu” cho cả hai người (tập thể) và cho mỗi người (cá nhân)!
Nhưng liệu họ có thể tin nhau không? Nếu thằng bạn nó phản, đi thú tội thì sao? Nó sẽ được tha còn mình bị 10 năm tù! Biết lựa chọn thế nào bây giờ? Nên cộng tác hay nên phản bạn? Đúng là một thế lưỡng nan.
Mỗi người tù suy nghĩ. Đây là một thí dụ về nghệ thuật “quyết định trong hoàn cảnh bất định,” tức là không biết trước tương lai sẽ thế nào. Đối với mỗi người tù, sẽ có một điều không thể biết trước, không kiểm soát được. Hoặc tên đồng phạm của anh ta sẽ cộng tác và chối tội. Hoặc hắn sẽ phản bội mà đi thú tội. Khi không biết cái gì sẽ xẩy ra, muốn nghĩ một cách thuần lý, tốt nhất là cứ tính toán xem trong mỗi trường hợp, mình nên làm gì có lợi nhất cho mình.
Trường hợp thứ nhất: Nếu anh kia nó cộng tác, không thú tội, mình có thể chọn hoặc chối tội, hoặc sẽ thú tội. Nếu mình chối thì cả hai đều bị tù nhẹ chỉ vì tội mang súng bất hợp pháp. Ngược lại nếu mình thú tội, thì sẽ được tha luôn, không bị cái án nào ghi vào lý lịch cả. So sánh hai hậu quả kể trên thì thấy được tha vẫn hơn là bị tù 6 tháng: nên thú tội tốt hơn!
Bây giờ xét đến trường hợp thứ hai: Nếu thằng bạn không cộng tác mà lại phản bội mình thì tính sao? Nếu mình chối tội, mình sẽ bị tù 10 năm, còn nó sẽ được tha. Nếu mình cũng thú tội, cả hai sẽ bị tù nhưng án tù chỉ có 5 năm, nhẹ hơn 10 năm. Kết luận, trong trường hợp này, anh kia nó phản bội, mình cứ thú tội như nó vẫn hơn.
Cả hai người tù cùng suy nghĩ thuần lý sẽ thấy dù tên đồng lõa hành động thế nào mình cũng không biết trước được; trường hợp nào thì mình thú tội vẫn lợi hơn!
Đó là phương pháp suy nghĩ thuần lý dựa trên quyền lợi của mình, đứng trước một điều không thể đoán trước. Dù có bàn với bạn và cùng quyết định chối tội, mỗi người tù cũng không biết nó có phản mình hay không; thì vẫn nên thú tội! Nhưng khi họ lựa chọn như vậy, hai người tù đã bỏ mất “giải pháp tối ưu!”
Câu chuyện này cho thấy trong xã hội nhiều lúc người ta không có giải pháp tối ưu tập thể. Nếu mỗi người chỉ dùng tinh thần duy lý và duy lợi thì kết quả có thể gây thiệt hại cho chính mình và người khác! Ở đời có rất nhiều trường hợp người ta phân vân trước tương lai bất định, rồi hành động như vậy! Cho nên chuyện ngụ ngôn này đã được dùng trong phương pháp nghiên cứu kinh tế, chính trị, và chiến lược quân sự. Sau đó đem ra thử nghiên cứu về đạo đức học nữa.
Vấn đề quyền lợi chung xung khắc với lợi ích riêng đã được các triết gia suy nghĩ, thảo luận từ lâu. Chắc nhiều người còn nhớ câu chuyện đặt ra với Mạnh Tử: Nếu người cha vua Thuấn là Cổ Tẩu mà phạm tội, có thể bị quan chấp pháp Cao Dao bắt, thì ông Thuấn nên làm gì? “Nên cõng cha chạy trốn vào rừng!”
David Hume đã đưa ra câu chuyện những người nuôi cừu, bò cho ăn chung trên một cánh đồng cỏ. Nếu ai cũng chỉ lo cho bò của mình ăn cỏ cho đã, không để cỏ non mọc lên kịp, thì cánh đồng sẽ chụi; nhưng nếu hạn chế bò của mình thì chỉ nhường cho bò người khác ăn thôi. Cuối cùng, tất cả mọi người sẽ bị thiệt hại. Từ thế kỷ 18 sau đó, nhiều người đã thảo luận về những giải pháp cho “Thảm kịch của những bãi cỏ chung” (The tragedy of the commons)! Trong số những thí dụ về xung khắc riêng và chung, công và tư, ngụ ngôn hai người tù đã được đời nay dùng làm mẫu khai thác để phát triển ra nhiều nhất.
Chuyện “Mối lưỡng nan của hai người tù” do Merrill Flood và Melvin Dresher bịa ra lần đầu tiên, năm 1950. Họ làm cho Cơ quan RAND, nghiên cứu về chiến lược trong thế giới khi hai cường quốc Nga, Mỹ đang đe dọa nhau bằng bom hạch tâm. Đặt ra câu chuyện này, như một trò chơi, cốt để suy đoán hành vi của con người trong những tình thế khó xử. Sau đó, Albert Tucker kể lại câu chuyện, cho thêm các con số cụ thể hơn, để các giáo sư tâm lý trong Đại học Stanford có thể đem trắc nghiệm! Cho tới cuối thập niên 1970 đã có cả ngàn bài nghiên cứu dùng câu chuyện này làm mẫu. Từ 1988 đến 1994 có hơn 200 cuốn sách viết đến các vấn đề xoay quanh Chuyện Hai Người Tù, trong các môn Kinh tế, Xã hội học, Chính trị học, Tâm lý hoặc Đạo đức học.