Trần Gia Phụng
Biến cố 30/04/1975 là một sự kiện quan trọng trong lịch sử
Việt Nam. Nhiều sách báo đã viết về biến cố nầy. Nhân sắp đến ngày 30/04, ở
đây chỉ xin ôn lại diễn tiến trong ngày 30/04/1975 tại Sài Gòn.
Từ 26/04/1975, quân Cộng Sản bao vây Sài Gòn từ 5 hướng:
hướng Bắc (Quân Đoàn 1 CS), hướng Tây Bắc (QĐ 3 CS), hướng Đông (QĐ 4 CS), hướng Đông Nam (QĐ 1 CS), hướng Tây và Tây Nam (Đoàn 232 và SĐ 8 thuộc
Quân Khu 8 CS). Chiều 26/04, CS bắt đầu tấn công, đánh phá vòng đai phòng
thủ bên ngoài, chiếm Long Thành, Trảng Bom, Nhơn Trạch, Bà Rịa, cắt đường
số 4 từ Sài Gòn đi miền Tây.
Đối đầu với lực lượng lớn mạnh nầy, quân đội Việt Nam Cộng
Hoà (VNCH) bảo vệ thủ đô Sài Gòn chỉ gồm Quân Đoàn III (hai sư đoàn 5 và 18), các chiến đoàn tập họp từ các sư đoàn của QĐ I và QĐ II di tản vào Sài Gòn, các Lữ Đoàn TCLC, Dù, các Liên Đoàn BĐQ, một số Trung Đoàn Pháo Binh, Kỵ
Binh Thiết Giáp và Nghĩa Quân, Địa Phương Quân. Các đơn vị nầy đều thiếu quân
vì trước đó đã bị tấn công, phải di tản, đồng thời thiếu trang bị võ khí,
đạn dược và thiếu nhiên liệu cần thiết.
Chiều 28/04 , ngay sau khi cựu Đại Tướng Dương Văn Minh vừa
nhận chức Tổng Thống , 5 chiếc A-37 trước đây của Không Quân VNCH bị CS tịch
thu , nay dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Thành Trung , cựu Trung Uý phi công VNCH
, vốn là đảng viên CS cài vào Không Quân VNCH , bay đến thả bom sân bay Tân Sơn
Nhứt . Tối hôm đó , CS tiếp tục pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhứt làm hỏng các
phi đạo . Phi trường không thể sử dụng được , nên phải dùng trực thăng đề di
tản.
Hôm sau 29/04, CS chiếm được các căn cứ Nước Trong, Long
Bình, thành Tuy Hạ (quận Long Thành, tỉnh Biên Hoà), Đồng Dù (Củ Chi) ,
Hậu Nghĩa. Sáng 30/04 quân CS bắt đầu tiến vào nội thành Sài Gòn. Trước sự đe
doạ của CSVN , ảo vọng thương thuyết của Dương Văn Minh hoàn toàn tan vỡ. Cuối
cùng, lúc 1024 giờ sáng 30/04/1975, qua đài phát thanh Sài Gòn, Dương Văn
Minh, với tư cách Tổng Thống Tổng Tư Lệnh Quân Đội, nhận chức trước đó 2 ngày, ra lệnh toàn thể quân đội VNCH ngưng chiến đấu, hạ khí giới. Sau đây là
nguyên văn lời Dương Văn Minh:
«Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hoà giải và
hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào . Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà
giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ
đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà hãy bình tĩnh
ngưng nổ súng và ở đâu thì ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính
phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi
ở đây đang chờ gặp chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam để
cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ
máu vô ích cho đồng bào». (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hoà ,
10 ngày cuối cùng , Fountain Valley, CA: NXB Nam Việt, 2006, tr 358)
Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tổng tham mưu phó quân đội
VNCH, thay mặt trung tướng Vĩnh Lộc, tổng tham mưu trưởng (vắng mặt), ra
lệnh cho tất cả quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh của Tổng
Thống Dương Văn Minh.
Lúc 1130 giờ ngày 30/04/1975, xe tăng của Đại Đội 4, Lữ
Đoàn Thiết Giáp 203 CS tiến vào dinh Độc Lập. Lúc đó , một số cán bộ Trung
đoàn 66 thuộc Sư đoàn 304 CS, do Đại Uý Trung Đoàn Phó Phạm Xuân Thệ dẫn đầu,
đến phòng họp dinh Độc Lập, nơi có mặt Tổng Thống Dương Văn Minh và nội các
của Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu. Đại Uý Thệ đã nói thẳng với Dương Văn Minh và Vũ Văn
Mẫu rằng các ông bị bắt làm tù, phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và không
có gì bàn giao cả. Sau đó, quân CS áp tải Dương Văn Minh tới đài Phát thanh
để đọc lời tuyên bố đầu hàng. Tại đài phát thanh, các sĩ quan CS soạn tại chỗ
lời đầu hàng, và buộc cựu Đại Tướng Dương Văn Minh phải đọc như sau:
«Tôi, Đại Tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống chính
quyền Sài Gòn, kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hoà hạ vũ khí, đầu hàng vô điều
kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn, từ
trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ trung
ương đến địa phương lại cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt
Nam». (google.com.vn ) (vào chữ Dương Văn Minh, tìm 30/04).
Trước áp lực của họng súng quân thù, cựu Đại Tướng Dương
Văn Minh đành phải đọc bản văn do CS soạn sẵn, «kêu gọi quân đội Việt
Nam Cộng Hoà hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt
Nam». Quân đội VNCH liền ngưng chiến đấu, tự nhiên rã ngủ, trong khi
còn nhiều đơn vị vẫn muốn tiếp tục chống cộng, nhất là Quân Đoàn IV vẫn còn
nguyên vẹn, chưa thất trận. Việt Nam Cộng Hoà hoàn toàn sụp đổ.
2 - Ngày Quốc Hận
Thông thường , người ta tản cư hay di tản khi chiến tranh bùng
nổ . Người ta bỏ chạy để tránh lửa đạn . Đàng nầy , chiến tranh chấm dứt ngày
30/04/1975 , lửa đạn không còn , mà người ta bỏ chạy , chạy xa thật xa , nghĩa
là người ta sợ cái gì còn hơn lửa đạn .
Ngay khi CS chiếm Sài Gòn , khoảng 150000 người Việt bỏ ra
nước ngoài , trong đó khoảng 140000 đến Hoa Kỳ và khoảng 10000 đến các nước
khác . ( Nguồn : UNHCR , The State of the World’s Refugees – Fifty Years of
Humanitarian Actions , ch 4 , tr 81 ) . Cộng Sản Việt Nam tố cáo những người di
tản là tay sai đế quốc Mỹ . Theo luận điệu nầy , trưa ngày 30/04/1975 , Trịnh
Công Sơn lên đài phát thanh Sài Gòn phát biểu rằng : « Những kẻ ra đi
chúng ta xem như là đã phản bội đất nước » . ( Trích nguyên văn :http://ngoclinhvugia.wordpress.com/ ) . Viên nhạc sĩ
nầy còn hát bài « Nối vòng tay lớn » , nhưng dân chúng không chấp nhận vòng tay
lớn của CS , tiếp tục ra đi dù bị kết tội « phản quốc » .
Sau ngày 30/04/1975 , càng ngày càng có nhiều người kiếm
cách ra nước ngoài , dầu phải hy sinh chính mạng sống của mình, tạo thành
phong trào vượt biên. Theo thống kê của Cao uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra
năm 2000, từ ngày 30/04/1975 cho đến cuối năm 1995 , tổng số người di tản và
vượt biên đến được các trại tỵ nạn là 989100 ( gần một triệu ) kể cả đường biển
lẫn đường bộ . Người ta phỏng chừng có khoảng từ 400000 đến 500000 thuyền nhân
bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết . Ngoài ra , phải kể thêm số người
rời Việt Nam qua các hải đảo nhưng không đậu thanh lọc và bị đuổi về nước . Nếu
kể thêm chương trình ODP ( Orderly Departure Program ) và chương trình HO do
chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, đưa vài trăm ngàn người nữa ra nước ngoài bằng đường
chính thức, thì tổng cộng tất cả các số liệu trên đây, sau khi CS chiếm miền
Nam Việt Nam, trên 1,5 Triệu người Việt đã bỏ nước ra đi.
Đây chỉ là những người có điều kiện ra đi. Còn biết bao
nhiêu người muốn ra đi mà không đi được. Nghệ sĩ Trần Văn Trạch đã từng nói
một câu bất hủ: «Ở Việt Nam hiện nay, cây cột đèn cũng muốn ra đi«.
Trước khi quân Cộng Sản vào Sài Gòn , nhiều chức quyền cao
cấp VNCH đã di tản ra nước ngoài . Trong số các chức quyền ở lại , có phó Tổng
Thống rồi Tổng Thống Trần Văn Hương . Ngày 28/04/1975 , trước khi bàn giao chức
vụ Tổng Thống cho Dương Văn Minh , đại sứ Pháp ở Sài Gòn cho người đến mời Tổng
Thống Hương di tản . Ông Hương trả lời : « Nếu trời hại , nước tôi mất ,
tôi xin thề là tôi sẽ ở lại đây và mất theo nước mình » . Sau khi Trần Văn
Hương giao quyền Tổng Thống cho Dương Văn Minh tối 28/04 , thì hôm sau , ngày
29/04 đích thân đại sứ Hoa Kỳ là Graham Martin đến gặp Trần Văn Hương và mời
ông ra đi . Trần Văn Hương trả lời như sau : « Thưa ông đại sứ , tôi biết
tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm . Đã đến đỗi như vậy , Hoa Kỳ cũng có một
phần trách nhiệm trong đó . Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương , tôi rất cảm
ơn ông đại sứ . Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với nước tôi . Tôi
cũng dư biết rằng Cộng Sản vào được Sài Gòn , bao nhiêu đau khổ , nhục nhã sẽ
trút xuống đầu dân chúng miền Nam . Tôi là người lãnh đạo hàng đầu của họ , tôi
tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau khổ tủi nhục , nỗi
thống khổ của người dân mất nước . Cảm ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi » .
Sau khi nghe Trần Văn Hương trả lời , Martin nhìn trân trân vào ông Hương , rồi
ra đi mà chẳng bắt tay từ biệt ( Trần Đông Phong , sđd tt 352-355 ).
Trần Văn Hương thấy trước và nói rất đúng: «Tôi cũng
dư biết rằng Cộng Sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút
xuống đầu dân chúng miền Nam» .Nước mất là mất tất cả. Mất tất cả
các quyền tự do dân chủ, cả tôn giáo, văn hoá, mất tài sản, nhà cửa, đất
đai, ruộng vườn, có người mất luôn cả thân nhân nữa. Trước ngày 30/04/1975,
dầu chưa hoàn thiện, dầu bị giới hạn vì chiến tranh, chế độ Cộng hoà vẫn là
chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng dân quyền và nhân quyền.
Khi mới chiếm được miền Nam , Cộng Sản bắt ngay sĩ quan ,
công chức , cán bộ của VNCH còn lại trong nước giam giữ dài hạn , không tuyên
án trên các vùng rừng thiêng nước độc . Số lượng sĩ quan , công chức và cán bộ
VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1 Triệu người tại trên 150 trại giam ; theo đó ,
khoảng 500000 được thả về trong 3 tháng đầu , 200.000 bị giam từ 2 đến 4 năm,
250.000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60.000
người bị giữ lại. (Spencer C . Tucker , Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume Two, Santa Barbara, California, 1998, tr. 602). Số liệu nầy theo dư luận chung, còn thấp hơn
so với số lượng người và số năm bị thực giam. Ngoài ra, trong số trên 1 Triệu
người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có
khoảng 165.000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù «cải tạo». (Anh Do
& Hieu Tran Phan, «Millions of lives changed forever with Saigon’s fall»
, nhật báo Orange County Register, số ngày Chủ Nhật, 29/04/2001,
phụ trang đặc biệt về ngày 30/04 , tt 2-3 ). Sau khi bắt giam hàng triệu công
chức quân nhân trên toàn cõi miền Nam Việt Nam, Cộng Sản trấn áp dân chúng
miền Nam bằng nhiều phương thức khác nhau:
Thực hiện chế độ hộ khẩu, ai ở đâu ở yên đó, không được di
chuyển, không có quyền tự do đi lại. Muốn đi lại phải xin giấy phép khó khăn. Về kinh tế, Cộng Sản đổi tiền nhiều lần một cách tàn bạo. (Đổi lần đầu
ngày 22/09/1975, năm trăm (500) đồng VNCH lấy 1 đồng mới. Đổi lần thứ hai
ngày 03/05/1978 và lần thứ ba ngày 14/09/1985). Cộng Sản tổ chức đánh tư sản
mại bản, tư sản dân tộc, tư sản nhỏ (tiểu tư sản), lục soát nhà cửa, tịch
thu vàng thật, rồi lập biên bản là «kim loại có màu vàng», để đổi vàng giả.
Cộng Sản cướp nhà cửa , buộc những người khá giả phải hiến
đất , hiến nhà để khỏi bị tù. Tại thành phố, CS đưa vào quốc doanh tất cả
những xí nghiệp, cơ sở kinh doanh do CS quản lý. Tại nông thôn, CS quốc hữu
hoá toàn thể đất đai, ruộng vườn; nông dân phải vào hợp tác xã, làm việc
chấm công để lãnh lúa, dân chúng gọi là «lúa điểm» tức «liếm đũa». Cộng
Sản buộc dân chúng phải đi kinh tế mới, sống trên những vùng khô cằn, nghèo
khổ. Cộng Sản thi hành chính sách ngăn sông cấm chợ , để CS độc quyền lưu
thông và phân phối hàng hoá. Tất cả chính sách của CS nhắm làm cho dân chúng
nghèo khổ cho CS dễ cai trị.
Chính sách cai trị của CS sau năm 1975 đưa Việt Nam đến bờ
vực thẳm, nguy hại cho chính CS. Trước tình hình đó, CS mở phong trào đổi
mới từ năm 1985. Cộng Sản đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc
Việt Nam. Từ đó, Việt Nam thay đổi dần dần, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập
WTO vào đầu 2007 . Tuy nhiên dầu đổi mới về kinh tế nhưng Cộng Sản vẫn duy trì
độc quyền chính trị, lo sợ «diễn biến hoà bình», định hướng kinh tế xã hội
chủ nghĩa,không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do dân chủ, không tôn trọng
dân quyền và nhân quyền. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh.
Như thế, ngày CS vào Sài Gòn, chấm dứt chế độ VNCH, là
một biến cố lịch sử có tầm vóc lớn lao, làm thay đổi dòng sinh mệnh dân tộc,
ảnh hưởng lâu dài cho đến ngày nay. Ngày 30/04 cũng là ngày mở đầu thảm hoạ
chẳng những cho dân chúng miền Nam mà cho cả toàn dân Việt Nam khi chế độ Cộng
Sản càng ngày càng bạo tàn, tham nhũng và nhất là lộ rõ bộ mặt tay sai Trung Cộng, dâng đất, nhượng biển, quy luỵ Bắc Kinh để duy trì quyền lực. Vì vậy
dân chúng gọi ngày nầy là ngày Quốc Hận. Hai chữ Quốc Hận do dân
chúng tự động đặt tên cho ngày 30/04 và truyền khẩu với nhau thành danh xưng chính
thức, chứ không có một chính phủ, hay một đoàn thể chính trị nào đặt ra. «Ngàn
năm bia miệng vẫn còn trơ trơ».
3 - Ngày Quốc Hận Là Ngày Quốc Hận
Những người vượt biên được gọi chung là thuyền nhân. Thuyền
nhân là từ ngữ được dịch từ chữ «boat people» trong tiếng Anh, xuất hiện từ
cuối thập niên 70 để chỉ những người Việt bỏ nước ra đi sau khi Cộng Sản cưỡng
chiếm miền Nam Việt Nam.
Người Việt vốn ràng buộc với đất đai, ruộng vườn, chỉ ra
đi trong hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, số
lượng người Việt bỏ nước ra đi lên đến hàng triệu người. Đặc điểm nổi bật của
phong trào thuyền nhân là tất cả những người vượt biên đều tự nguyện ra đi , tự
mình muốn ra đi, hoàn toàn tự phát ra đi theo từng gia đình, từng nhóm nhỏ.
Không có một đảng phái, một thế lực chính trị hay một nước ngoài nào can thiệp
hay tổ chức cho thuyền nhân ra đi. Có khi, nhà cầm quyền CS lợi dụng lòng
khao khát ra đi tìm tự do của dân chúng để bán bãi, hay tổ chức vượt biên bán
chính thức nhằm lấy vàng. Dầu ra đi trong kế hoạch mà CS gọi là «bán chính
thức», người ra đi vẫn là những người tự nguyện muốn rời bỏ Việt Nam để tránh
nạn độc tài Cộng Sản.
Như thế, vượt biên hay thuyền nhân là một phong trào của
vài triệu người , kéo dài trong nhiều năm và nhiều địa điểm khác nhau . Phong
trào nầy là hậu quả của ngày Quốc Hận 30/04. Ngày 30/04 là ngày đánh dấu sự
thành công của chế độ độc tài toàn trị, gây tang thương cho dân tộc Việt Nam.
Nỗi đau nầy càng ngày càng nhân lên khi CSVN càng ngày càng đàn áp phong trào
dân chủ quốc nội. Chỉ vì lòng yêu nước, người Việt biểu tình phản đối TC xâm
lược mà cũng bị CSVN bắt giam thì trên thế giới, chuyện nầy chỉ xảy ra ở Việt
Nam.
Hai sự kiện ngày Quốc Hận 30/04 và Phong trào thuyền nhân
hoàn toàn khác nhau và không thể lẫn lộn nhau. Ngày 30/04 là ngày kỷ niệm Quốc
Hận của toàn dân. Phong trào thuyền nhân ban đầu chỉ khoảng 1,5 triệu người. Nếu
ngày nay, dân số thuyền nhân phát triển lên khoảng 3 triệu, thì ở trong nước,
dân số tăng lên mấy chục triệu người.
Vì vậy, để kỷ niệm phong trào vượt biên, ngày 28/04/2009,
toàn thể Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua nghị quyết số 342 do Dân Biểu Liên Bang
Hoa Kỳ gốc Việt Nam là Cao Quang Ánh đề xướng, ấn định ngày 02/05/2009 là «Ngày Vinh Danh Người Tỵ Nạn Việt Nam» tại Hoa Kỳ (tức thuyền nhân Việt cộng
them những người ra đi theo chương trình ODP và HO). Sau đó, ngày 12/08/2009, Hội đồng thành phố Westminster, (thuộc Orange County , tiểu bang California
) thông qua nghị quyết số 4257, ấn định ngày Thứ Bảy cuối cùng của mỗi tháng
Tư hằng năm là « Ngày Thuyền Nhân Việt Nam». Westminster là thành phố có
Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ , khánh thành ngày 27/04/2003, và từ đó là nơi diễn
ra lễ Kỷ niệm ngày Quốc Hận hàng năm của Cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn CS.
Cả hai nghị quyết trên đây đều chọn một ngày khác với ngày
30/04 để kỷ niệm phong trào thuyền nhân, nhằm tránh làm mất ý nghĩa quan trọng
của ngày Quốc Hận 30/04. Chỉ có Cộng Sản và những người làm tay sai cho CS mới
cố tình vận động chuyển đổi ngày Quốc Hận 30/04 thành ngày Thuyền Nhân , nhằm
làm giảm nhẹ tội lỗi của Cộng Sản Việt Nam trước lịch sử , trong khi tội lỗi
của Cộng Sản đối với dân tộc Việt Nam không thể xoá bỏ được.
Mưu toan nầy hoàn toàn thất bại vì Cộng đồng Người Việt Hải
ngoại quyết liệt phản đối , chỉ vì một lý do đơn giản , thật đơn giản : Ngày
Quốc Hận Là Ngày Quốc Hận , không thể nào khác hơn được và không có chữ
nào đúng hơn được.
Trần Gia Phụng 2012/04/03
Xem thêm >>>> "Quốc Hậm 30 tháng tư - Black April"