Douglas Pike
Bản dịch của LM Phêrô Phan Văn Lợi
Huế là một trong những thành phố buồn nhất trên trái đất
chúng ta, không phải chỉ vì những gì đã xảy ra ở đấy vào tháng 02-1968 mà vốn
không thể tưởng tượng. Đó còn là một lời khiển trách thầm lặng đối với tất cả
chúng ta, những kẻ thừa hưởng 40 thế kỷ văn minh nhưng trong thế kỷ này, lại đã
cho phép những quan điểm tập thể hóa đẩy chúng ta vào những tội lỗi hiện đại
xấu xa nhất, từ thờ ơ đến vô nhân đạo. Những gì đã xảy ra ở Huế làm cho mọi ai
còn là văn minh trên hành tinh này phải dừng lại suy nghĩ. Nó phải được khắc
ghi để khỏi bị quên lãng cùng với những hành xử vô nhân đạo khác giữa loài
người với nhau vốn đã rải rác ghi dấu lịch sử nhân loại. Huế là một minh chứng
khác về việc con người có thể đẩy mình đến chỗ làm những gì khi nó không đặt
giới hạn cho hành động chính trị mà lại vô tình theo đuổi giấc mơ về một xã hội
hoàn hảo nào đó.
Đấy là những sự kiện cơ bản, những thống kê quan trọng. Thế
giới không tọc mạch biết được gì về Huế thì cũng chỉ như thế, vì đó là những gì
đã được báo chí thế giới ghi lại cách khiêm tốn sơ sài. Xem ra nó đã chẳng ảnh
hưởng gì lên lương tri hay lương tâm của thế giới cả. Đã không có những phản
đối mạnh mẽ, những cuộc biểu tình trước các tòa Đại sứ Bắc Việt khắp năm châu.
Trong một cung giọng hết sức cay đắng, người dân ở đây sẽ nói với bạn rằng thế
giới không biết chuyện gì đã xảy ra ở Huế, hoặc nếu biết thì cũng chẳng bận
tâm.
Trận chiến
Trận chiến tại Huế là một phần chiến dịch Đông-Xuân
1967-1968 của Cộng sản. Toàn bộ chiến dịch được chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn I bắt đầu trong tháng 10, tháng 11, tháng 12 năm
1967 và đòi hỏi những “phương pháp chiến đấu phối hợp”, nghĩa là những trận
đánh khá lớn, kiểu cổ điển nhắm vào các căn cứ quan trọng (của QLVNCH) hay
những nơi tập trung quân Đồng minh. Các trận đánh ở Lộc Ninh tỉnh Bình Long, ở
Dakto tỉnh Kontum và ở Cồn Tiên tỉnh Quảng Trị, cả ba tại các vùng đồi núi Nam
Việt gần biên giới Cam Bốt và Ai Lao, đều là những trận đánh điển hình và do đó
là yếu tố quan trọng của Giai đoạn I.
Giai đoạn II diễn ra trong tháng 01, tháng 02, tháng 03 năm
1968, và kéo theo việc dùng “những phương pháp chiến đấu độc lập”, nghĩa là
nhiều trận đánh do những đơn vị khá nhỏ thực hiện cùng lúc trên một diện tích
lớn và sử dụng những chiến thuật du kích tiên tiến, tinh luyện. Vì rằng Giai
đoạn I đã thực hiện chủ yếu với các toán quân chính quy Bắc Việt (lúc ấy khoảng
55.000 đang ở miền Nam), Giai đoạn II thực hiện chủ yếu với các toán Cộng quân
miền Nam (tức Lực lượng Vũ trang Giải phóng). Cao điểm của Giai đoạn này là
cuộc Tấn công Tết Mậu Thân trong đó 70,000 quân đánh vào 32 trung tâm dân cư
lớn nhất của Nam Việt, kể cả thành phố Huế.
Giai đoạn III, diễn ra trong tháng 04, tháng 05 và tháng 06
năm 1968, đầu tiên là phối hợp những phương pháp chiến đấu độc lập và hiệp
đồng, kết thúc là một trận đánh lớn cố định đâu đó. Đây là điều mà các tài liệu
bắt được đã thận trọng nhắc đến như “đợt sóng thứ hai”. Có thể đó đã là Khe
Sanh, căn cứ Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nằm ở góc cực Bắc của Nam Việt. Hoặc có
thể là Huế. Đã không có đợt sóng thứ hai chủ yếu là vì trong Giai đoạn I và II,
các biến cố đã không phát triển như mong đợi. Mặc dù vậy, cuộc chiến đã đạt tới
độ đẫm máu nhất trong tám năm hồi ấy, suốt thời gian kể từ trận đánh Huế vào
tháng 02 tới cuộc giải vây cho Khe Sanh vào mùa hè.
Suốt ba tháng ấy, tổn thất của Hoa Kỳ trung bình vào khoảng
500 binh sĩ tử thương hàng tuần; tổn thất của Nam Việt gấp đôi; còn tổn thất
của Việt Cộng (cả Bắc lẫn Nam) gần tám lần của Hoa Kỳ. Trong chiến dịch Đông
Xuân, Cộng sản bắt đầu với khoảng 195,000 quân chính quy miền Bắc và du kích
miền Nam. Suốt 9 tháng, họ mất (vì tử thương hay tàn phế vĩnh viễn) khoảng
85.000 người.
Chiến dịch Đông Xuân là cố gắng toàn lực của Cộng sản nhằm
đánh gãy lưng Quân lực Nam Việt và dồn chính phủ Việt Nam, cùng với các lực
lượng Đồng minh, vào trong các khu vực phòng thủ ở thành phố. Nói cho đúng,
Trận đánh Huế thuộc Giai đoạn I hơn Giai đoạn II vì nó đã sử dụng “các phương
pháp chiến đấu hợp đồng” có lôi kéo quân đội Bắc Việt hơn là các du kích quân
miền Nam. Về phía Cộng sản, chủ yếu là hai sư đoàn kỳ cựu của Bắc Việt trong đó
có Sư đoàn 324-B, được tăng cường bằng các tiểu đoàn chính quy và một vài đơn
vị du kích với khoảng 150 chính ủy và cán bộ dân sự địa phương.
Tóm lại, trận đánh Huế gồm ba bước phát triển lớn sau đây:
Cuộc tấn công khởi đầu của Cộng sản, chủ yếu do hai tiểu đoàn 800 và 802, đã đủ
lực và đà để tiến vào Huế. Bình minh ngày đầu tiên, Cộng sản đã kiểm soát toàn
thành phố ngoại trừ Bộ Tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh và khu vực các cố vấn quân sự
Mỹ. Việt và Mỹ đã điều động quân tiếp viện với mệnh lệnh tới hai điểm còn cầm
cự đó để củng cố cho họ. Cộng sản liền điều động một tiểu đoàn khác, tiểu đoàn
804, với mệnh lệnh ngăn chận lực lượng tiếp viện. Việc này thất bại, hai điểm
cầm cự đã được củng cố và không bao giờ còn bị đe dọa trầm trọng nữa.
Từ đó, trận đánh mang tính cách một cuộc bao vây. Cộng quân
ở trong Thành Nội và rìa tây thành phố. Quân Việt và Mỹ tại ba mặt còn lại, bao
gồm phần phía Nam Huế của con sông (Hương), đã quyết tâm đánh bật chúng ra
khỏi, với hy vọng ban đầu là dùng hỏa pháo và không kích. Nhưng Thành Nội được
xây quá kiên cố và người ta đã sớm thấy rõ rằng nếu Cộng quân được lệnh cầm cự,
thì chúng chỉ có thể bị đánh bật bằng chiến tranh thành phố, đánh chiếm từng
nhà và từng khối, một hình thức chiến đấu đắt giá và chậm chạp. Lệnh đã được
ban ra.
Qua tuần thứ ba của tháng 02, việc bao vây Thành Nội đã tiến
triển tốt đẹp và Quân đội VNCH lẫn Thủy quân Lục chiến Mỹ tiến từng thước qua
Thành Nội. Sáng ngày 24 tháng 02, lính Sư đoàn I Bộ Binh giật xuống lá cờ VC đã
treo 24 ngày trên vòng thành ngoài và thượng lá cờ mình lên. Trận chiến đã toàn
thắng, dù thỉnh thoảng còn tiếp tục đánh nhau bên ngoài thành phố. Khoảng 2.500
cộng quân chết suốt trận đánh và 2.500 tên khác chết khi những thành phần Cộng
sản bị truy đuổi bên ngoài Huế. Tử trận của Đồng minh là 357 người
Những phát hiện
Trong cảnh hỗn loạn tiếp theo sau cuộc chiến, mệnh lệnh đầu
tiên cho công việc dân sự là cấp cứu, dưới hình thức cung cấp thực phẩm, ngăn
ngừa bệnh dịch, săn sóc y tế cấp thời v.v… Tiếp đến là nỗ lực xây dựng lại nhà
cửa. Chỉ sau đấy Huế mới bắt đầu lập bảng kê các thương vong của mình. Đã chẳng
có một cuộc kiểm kê dân số thực sự ngay sau cuộc tấn công. Đến tháng 03, các
viên chức địa phương mới báo cáo rằng 1.900 thường dân đã nhập viện với những
vết thương chiến tranh và họ ước lượng rằng khoảng 5.800 người đã không tìm ra
tung tích.
Khám phá đầu tiên về các nạn nhân của Cộng sản là tại sân
trường Trung học Gia Hội ngày 26-02: rốt cục 170 thi thể đã được tìm thấy.
Trong những tháng kế tiếp, thêm 18 địa điểm chôn người được tìm thấy, lớn nhất
là Tăng Quang Tự (67 nạn nhân), Bãi Dâu (77), vùng Chợ Thông (ước lượng khoảng
100), khu vực các lăng tẩm (201), Thiên Hàm (khoảng 200) và Đông Gi (khoảng
100). Tổng cộng gần 1,200 xác đã được tìm thấy trong những ngôi mộ đào vội vã,
lấp sơ sài.
Ít nhất một nửa trong họ đã cho thấy bằng chứng bị giết cách
thảm khốc: hai tay bị trói bằng dây sau lưng, giẻ rách nhét đầy miệng, thân thể
vặn vẹo không thương tích (cho thấy bị chôn sống). Gần 600 nạn nhân còn lại
mang nhiều vết thương nhưng chẳng có cách nào xác định họ đã chết vì bị xử bắn
hay vì lạc đạn.
Nhóm phát hiện lớn thứ hai nằm trong bảy tháng đầu tiên của
năm 1969 ở quận Phú Thứ (Độn Cát và Lệ Xá Tây), quận Hương Thủy (Xuân Hòa, Vân
Dương) vào cuối tháng 03 và tháng 04. Thêm nhiều địa điểm chôn xác khác cũng đã
được tìm thấy tại quận Vinh Lộc trong tháng 05 và quận Nam Hòa trong tháng 07.
Lớn nhất trong nhóm này là các phát hiện ở Độn Cát tại ba địa điểm Vinh Lưu, Lê
Xá Đông và Xuân Ổ, trong các cồn cát nhấp nhô với cỏ mọc thành búi gần biển
Đông. Ngăn cách bởi những thung lũng đầm lầy nước mặn, các độn cát này thật lý
tưởng để làm mộ địa. Trên 800 thi thể đã được phát hiện ở đây.
Trong cuộc phát hiện ở Độn Cát, kiểu chung là trói các nạn
nhân thành từng nhóm 10 hoặc 20 người, xếp hàng họ trước một con mương được dân
công lao dịch địa phương đào rồi hạ sát họ bằng súng máy (một trong những kỷ
vật trân quý của địa phương là một viên đạn súng máy đã bắn của Nga lấy được từ
một ngôi mộ). Thường thì người chết bị chôn thành ba bốn lớp, khiến cho việc
nhận diện hết sức khó khăn.
Tại quận Nam Hòa là phát hiện thứ ba, hay còn gọi là phát
hiện Khe Đá Mài, cũng được gọi là Phủ Cam tử bộ (dead march), diễn ra ngày
19-9-1969. Ba hồi chánh viên VC đã kể cho các sĩ quan tình báo của Lữ đoàn 101
Không vận HK rằng họ đã chứng kiến cuộc thảm sát vài trăm người tại Khe Đá Mài,
cách phía nam Huế khoảng 10 dặm, vào tháng 02-1968. Vùng này rất hoang vu, không
người ở và gần như bất khả xâm nhập. Lữ đoàn đã phái đi một nhóm thám sát, họ
báo cáo rằng khe suối chứa rất nhiều xương người. Bằng việc ghép lại các mảnh
thông tin, người ta xác định được những gì đã xảy ra tại Khe Đá Mài như sau:
Vào ngày mồng 5 Tết tại Phủ Cam, nơi sinh sống của khoảng ba phần tư trong số
40.000 người Công giáo thành phố, một số lớn cư dân đã tìm nơi lẩn trốn trận
đánh tại ngôi nhà thờ địa phương, một phương pháp lánh nạn chiến tranh thông
thường tại Việt Nam. Nhiều người trong đó thật ra không phải là Công giáo.
Một chính ủy Cộng sản đã đến nhà thờ và ra lệnh cho khoảng
400 người, một số thì đích danh, một số xem ra vì ngoại diện của họ (trông giàu
có hoặc nhìn như thương gia đứng tuổi, ví dụ vậy). Y nói họ sẽ đi đến “vùng
giải phóng” trong ba ngày để học tập cải tạo, sau đó ai nấy có thể về nhà.
Họ đã đi bộ chín cây số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi
Cộng sản thiết lập bộ chỉ huy. Tại đó 20 người bị kêu ra khỏi nhóm, tập hợp
trước một tòa án quân sự dã chiến, bị xét xử, bị tuyên tội, bị hành quyết và
chôn trong sân chùa. Số còn lại bị dẫn qua qua bên kia sông và được giao lại
cho một đơn vị Cộng sản trong một sự trao đổi có giấy biên nhận đưa cho viên
chính ủy. Có lẽ viên chính ủy định rằng tù nhân của y sẽ được cải tạo rồi trở về,
nhưng với chuyện bàn giao, mọi chuyện thoát khỏi sự kiểm soát của y.
Suốt nhiều ngày kế tiếp, chính xác bao nhiêu không ai biết,
những người bị bắt và những kẻ bắt người lang thang vùng nông thôn. Và rồi đến
một điểm nào đó, Cộng sản địa phương đã quyết định thủ tiêu các nhân chứng: Các
tù nhân bị dẫn qua sáu cây số của một trong những vùng đất gồ ghề lởm chởm nhất
miền Trung Việt Nam, đến khe Đá Mài. Tại đấy họ đã bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ và
xác của họ bị để cho trôi đi theo giòng nước chảy. Nhóm binh lính lo nhiệm vụ
chôn cất của lữ đoàn 101 Không vận thấy rằng không thể vào tới khe bằng đường
bộ, vì đường không có hoặc không thể đi qua. Tán lá nơi khe là cái mà tại Việt
Nam gọi là nhị tầng, nghĩa là hai lớp, lớp một gồm những bụi rậm và cây thấp
sát đất, lớp hai gồm những cây lớn với cành lá xoè rộng trên cao. Bên dưới là
ánh sánh thường xuyên lờ mờ. Công binh lữ đoàn đã bỏ hai ngày để mở một lỗ
xuyên qua hai tầng lá bằng cách cho nổ các quả mìn lúc lắc cuối những sợi dây
dài dưới các trực thăng lượn lờ của họ. Việc này đã tạo ra một mặt phẳng cho
các trực thăng chở quan tài hạ xuống. Rõ ràng đây là nơi mà xác chết dễ dàng bị
che giấu không cần phải chôn cất.
Lòng khe Đá Mài, dài khoảng một trăm thước Anh tính ngược
lên hẻm núi, để lộ nhiều sọ, nhiều bộ xương và nhiều mảnh xương người. Xác chết
đã bị để trên đất (đối với những người thờ vật linh giữa họ, điều ấy có nghĩa
là hồn họ sẽ lang thang trên trái đất hiu quạnh mãi mãi, vì đó là số phận của
kẻ chết không được chôn táng) và 20 tháng trong dòng suối chảy đã rửa sạch
trắng những bộ xương.
Nhà chức trách địa phương sau đó đã phổ biến một danh sách
gồm 428 người mà họ nói đã được nhận diện từ những gì còn lại ở lòng khe. Lý do
căn bản Cộng sản đưa ra về cách hành xử thái quá của họ chính là tiêu diệt các
“phần tử phản cách mạng”. Danh sách 428 nạn nhân được phân ra như sau: 25 phần
trăm là quân nhân: hai sĩ quan, còn lại là hạ sĩ quan và binh sĩ; 25 phần trăm
là học sinh sinh viên; 50 phần trăm là công chức dân sự, viên chức làng xã,
nhân viên phục vụ đủ loại và công nhân bình thường.
Nhóm phát hiện thứ tư hay Phát hiện Ruộng muối Phú Thứ là
vào tháng 11-1969, gần làng đánh cá Lương Viện, khoảng mười dặm về phía Đông
của Huế, một nơi hoang vu khác. Quân đội chính quyền từ đầu tháng đã bắt đầu
một nỗ lực tập trung nhằm dọn sạch khu vực tàn quân của tổ chức Cộng sản địa
phương. Dân làng Lương Viện, khoảng 700 người, từng giữ im lặng trước sự hiện
diện của quân đội suốt 20 tháng trời, sau đấy xem ra cảm thấy đủ an toàn khỏi
bị CS trả thù nên đã phá vỡ im lặng và dẫn các sĩ quan đến chỗ phát hiện mộ.
Dựa trên các mô tả của những dân làng mà trí nhớ không phải luôn luôn rõ ràng,
các viên chức địa phương đã ước lượng số thi thể tại Phú Thứ ít nhất phải 300
và có thể tới 1000.
Câu chuyện không hoàn tất. Nếu sự ước lượng của nhà chức
trách Huế gần đúng, thì khoảng 2,000 người vẫn còn mất tích.
Tổng kết số người chết và mất tích:
Sau trận đánh, chính phủ Nam Việt ước lượng số thương
vong dân sự do trận đánh Huế là 7,600.
Lý do căn bản của Cộng sản
Việc giết người tại Huế cho thấy cuộc thảm sát ở đây đã vượt
xa mọi việc tàn ác của CS trước đó tại Nam Việt về số lượng. Điểm khác biệt
không chỉ ở mức độ mà còn ở thể loại. Đặc tính của sự khủng bố nhận thấy từ
việc nghiên cứu Huế hoàn toàn khác với những hành vi khủng bố của CS ở chỗ
khác, dù thường xuyên hoặc tàn bạo. Cuộc khủng bố tại Huế không phải là một
hành vi nâng cao tinh thần (Cộng quân) vì đã thọc sâu và nhanh vào hang ổ đối
phương để chứng minh chỗ yếu nhược của kẻ thù, sự toàn năng của du kích, tính
khác biệt với việc bắn gục thường dân trong những vùng do du kích kiểm soát. Đó
cũng chẳng phải là cuộc khủng bố để quảng cáo chính nghĩa, để gây bối rối và
cách ly cá nhân về tâm lý, vì phần lớn các cuộc chém giết đều thực hiện trong
bí mật. Đó cũng chẳng phải là cuộc khủng bố để triệt tiêu các lực lượng đối
nghịch, dù có giết vượt quá sổ đen. Huế đã chẳng theo mô hình khủng bố nhằm
khiêu khích phản ứng thái quá của chính phủ Nam Việt vì nó đã chỉ dẫn đến cái
gọi là sự trợ giúp của chính phủ thôi. Có nhiều yếu tố khách quan, chân thực,
nhưng không yếu tố nào giải thích được kiểu cách giết người rộng khắp và đa
dạng mà Cộng sản đã thực hiện.
Điều được đưa ra đây là giả thuyết cho rằng có lôgic và hệ
thống đằng sau những gì xem ra là một cuộc tàn sát ngẫu nhiên và đơn giản.
Trước khi đề cập đến nó, chúng ta hãy xem xét ba sự kiện vốn thường xuyên xuất
hiện với một du khách đến Huế để khám phá chính xác cái đã xảy ra tại đó và
quan trọng hơn nữa, chính xác tại sao nó đã xảy ra. Cả ba sự kiện này lởn vởn
trước ý thức thông thường và ở một mức độ nào đó, mâu thuẫn với những gì đã
được viết ra. Ngay cả khi dò hỏi đủ mọi nguồn -tỉnh trưởng, cảnh sát trưởng, cố
vấn Hoa Kỳ, nhân chứng tận mắt, tù nhân bắt được, cán binh hồi chánh hay một số
ít người thoát chết cách kỳ lạ- ba sự hiện ấy vẫn nổi lên đi nổi lên lại.
Sự kiện thứ nhất, mà có lẽ quan trọng nhất, là bất chấp
những dáng vẻ bên ngoài, không cuộc giết người nào của CS là do thịnh nộ, thất
vọng hay hoảng loạn khi Cộng sản cuối cùng phải rút lui. Những lối giải thích
như thế thường được nghe, nhưng nếu xem xét cẩn thận thì không đứng vững. Ngược
lại thì có, vì truy nguyên bất cứ vụ giết người đơn lẻ nào, sẽ khám phá ra rằng
hầu hết đều là kết quả của một quyết định có suy nghĩ và biện minh được trong
tâm trí Cộng sản. Quả thế, phần lớn những cuộc hành quyết đều từ tính toán,
mệnh lệnh của CS.
Sự kiện thứ hai : trong chừng mực xác định được, gần như như
tất cả các vụ hành quyết đều do cán bộ CS địa phương chứ không phải do quân đội
Bắc Việt hoặc quân lực Cộng hòa hoặc những tay CS bên ngoài nào khác. Khoảng
12,000 binh lính VNCH đã tham gia trận đánh Huế và đã giết một số thường dân
trong tiến trình chiến đấu nhưng đó chỉ là ngẫu nhiên trong nỗ lực quân sự của
họ. Đa phần trong số 150 cán bộ dân sự CS hoạt động nội thành đều là người địa
phương, nghĩa là từ khu vực tỉnh Thừa Thiên cả. Chính họ đã ra những lệnh tử
hình. Mà cho dù họ đã hành động theo các chỉ thị từ bộ chỉ huy cao hơn (theo hệ
thống tổ chức CS, ai nấy phải đảm nhận những gì mình đã làm) thì những chỉ thị
đó như thế nào, cho đến nay chẳng ai biết rõ được.
Sự kiện thứ ba: ngoài các cuộc hành quyết điển hình xử tử
những “cường hào ác bá” nổi bật, phần lớn các vụ sát hại đều đã được thi hành
cách bí mật với nỗ lực lạ thường là giấu các thi thể. Phần lớn những kẻ bên ngoài
đều hình dung Huế như một pháp trường công khai với những mồ chôn tập thể dễ
thấy mới đào. Các cuộc hành quyết tuyên bố công khai chỉ có trong những ngày
đầu và chúng tương đối hiếm hoi. Các địa điểm chôn xác trong thành phố dễ dàng
khám phá vì khó mà tạo nên một nghĩa địa không ai để ý trong vùng đông đảo cư
dân. Mọi nơi phát hiện khác đều đã được giấu kỹ, tất cả đều nằm tại vùng đất dễ
che đậy; có lẽ đây là lý do đầu tiên khiến các địa điểm đã được chọn lựa.
Một thân xác chôn vùi trong độn cát cũng khó tìm như một vỏ
sò ấn sâu xuống bãi biển mà bị sóng xoá dấu vết liền. Khe Đá Mài nằm tại phần
xa xôi hẻo lánh nhất của tỉnh Thừa Thiên và hẳn đã làm cho Cộng sản rất tốn
công khi đưa các nạn nhân đến đó. Nếu ba cán binh hồi chánh đã chẳng dẫn những
người tìm kiếm đến điểm hoang vu vắng vẻ này, thì hẳn các xác chết vẫn mãi
không được khám phá cho tới ngày nay. Viếng thăm mọi địa điểm sẽ cảm nhận ấn
tượng là CS đã hết sức cố gắng che giấu các hành động của họ. Giả thuyết nêu
lên ở đây nối kết và xác định đúng lúc việc CS đánh giá về triển vọng ở lại Huế
của họ với loại mệnh lệnh giết người đã ban ra. Từ việc xem xét kỹ các bằng
chứng, ta thấy rõ là họ đã không có sự đánh giá bất biến về chính họ và về
tương lai của họ tại Huế; đúng hơn, tình hình thay đổi suốt diễn trình trận
đánh đã làm đổi thay các triển vọng và ý định của họ.
Cũng rõ ràng không kém từ các bằng chứng là CS đã chẳng có
chủ trương nào về các mệnh lệnh hành quyết; thay vào đó, loại mệnh lệnh giết
người ban ra đã thay đổi suốt diễn trình trận đánh. Mối liên hệ giữa cả hai rất
rõ và chia ra ba giai đoạn. Thành thử có giả thuyết cho rằng kế hoạch của CS
thay đổi suốt trận đánh Huế ra sao thì bản chất các mệnh lệnh giết người ban ra
cũng thay đổi thể ấy. Kết luận này dựa trên những lời tuyên bố không úp mở của
CS, trên chứng từ của tù nhân và hồi chánh viên, trên tường thuật của các nhân
chứng tận mắt, trên những tài liệu bắt được và trên lô-gích nội tại của tình
hình CS.
Suy nghĩ trong Giai đoạn I đã được phát biểu rõ ràng trong
một nghị quyết của Cộng đảng ở Nam Việt (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) ra cho
các cán bộ ngày áp cuộc tấn công: “Phải bảo đảm sao cho các thành thị giải
phóng được củng cố thành công. Mau chóng kích hoạt các đơn vị vũ trang và chính
trị, thiết lập các cơ quan hành chánh ở mọi cấp, xúc tiến các hoạt động dân sự
tự vệ và yểm trợ chiến đấu, thúc đẩy nhân dân thành lập hệ thống phòng không và
rộng rãi động viên họ sẵn sàng chống lại địch khi chúng phản công...”
Đây là quan điểm giới hạn ban đầu và đã được tuân theo trong
thời gian ngắn. Những diễn biến sau đó tại Huế đã được tường thuật với những
lời lẽ khác. Đài phát thanh Hà Nội ngày 04-02-1968 nói rằng: “Sau một giờ chiến
đấu, Lực lượng Vũ trang Cách mạng đã chiếm được dinh thự của tên tỉnh trưởng
ngụy (tại Huế), nhà tù và các văn phòng hành chánh ngụy… Lực lượng Vũ trang
Cách mạng đã trừng trị những tên viên chức ác ôn nhất của địch và nắm quyền
kiểm soát các đường phố… tập trung và trừng trị cả tá bọn ác ôn, đánh sập các
cơ quan kiểm soát và áp bức của địch…”
Suốt thời gian ngắn ở lại Huế, các cán bộ dân sự, được các
toán hành quyết tháp tùng, đã tập hợp và giết chết nhiều yếu nhân, việc khử trừ
này sẽ làm suy yếu nặng nề bộ máy hành chánh của chính phủ sau khi VC rút lui.
Đây là giai đoạn sổ đen, thời gian của tòa án quân sự dã chiến. Các cán bộ với
danh sách và địa chỉ trong hồ sơ xuất hiện rồi gọi ra trước tòa án bất hợp pháp
“các kẻ thù khác nhau của Cách mạng”.
Những phiên tòa của họ công khai, thường là trong sân một bộ
chỉ huy dã chiến của CS. Mỗi phiên xử kéo dài khoảng 10 phút và chẳng có phán
quyết vô tội nào được biết đến cả. Hình phạt, luôn luôn là “tử hình”, được thi
hành ngay lập tức. Các xác chết hoặc được chôn gấp rút hoặc trả lại cho gia
đình. Bị chọn lãnh kiểu đối xử này là các viên chức dân sự, đặc biệt những người
liên quan tới an ninh hay công việc cảnh sát, các sĩ quan quân đội và vài hạ sĩ
quan, cộng thêm những lãnh đạo không chính thức nhưng là tự nhiên của cộng
đồng, đặc biệt là các nhà giáo và nhà tu.
Với ngoại lệ là tấn công tàn độc giới trí thức ở Huế, kiểu
thức của Giai đoạn I đúng là thủ tục hành động tiêu chuẩn của Cộng sản tại Việt
Nam. Đó là những gì đã được tiến hành cách có hệ thống trong các làng mạc suốt
10 năm. Sổ đen thường trực, được bộ chỉ huy đảng trong vùng hay liên vùng chuẩn
bị, đã tồn tại lâu dài để đem sử dụng khắp cả miền Nam, mỗi khi có cơ hội thuận
tiện.
Tuy nhiên, không phải mọi kẻ có tên trong những danh sách
được dùng tại Huế đã bị thủ tiêu. Có rất nhiều người hiển nhiên bị ghi danh, ở
lại trong thành phố suốt trận đánh, nhưng đã thoát nạn. Suốt thời gian 24 ngày,
các cán bộ Cộng sản bận rộn săn lùng những con người có trong sổ đen của họ,
nhưng sau một ít ngày, nỗ lực của họ đã chuyển qua một hướng mới.
Huế: Giai đoạn II
Trong những ngày đầu, cuộc tấn công Tết đã tiến triển rất
thuận lợi cho CS tại Huế (mặc dù không như vậy ở miền Nam, nơi mà các lãnh đạo
đảng đã nhận nhiều đánh giá khá ảm đạm từ những cán bộ ở giữa cuộc tấn công
vùng đồng bằng sông Cửu Long), đến nỗi trong một lúc phấn khởi, họ đã tưởng
mình có thể giữ được thành phố. Có lẽ ý kiến cho rằng CS vào Huế để ở lại đã
không được các cấp cao hơn chia sẻ, nhưng nó đã lan rộng tại Huế và ở cấp độ
tỉnh Thừa Thiên. Một bức điện bắt được của Cộng sản, xem ra viết ngày 02-02, cổ
vũ các cán bộ tại Huế hãy chiếm giữ cho nhanh mà rằng: “Một thời kỳ mới, một
giai đoạn cách mạng thực sự đã bắt đầu (nhờ các chiến thắng của chúng ta ở Huế)
và chúng ta chỉ cần tấn công nhanh (ở Huế) là đạt được mục tiêu và chiến thắng
hoàn toàn”.
Tờ báo đảng chính thức ở Hà Nội, Nhân Dân, cũng nhắc lại
cùng chủ đề: “Như một tia sét, cuộc tổng tấn công đã giáng xuống đầu bọn Mỹ
ngụy… Bộ máy Mỹ ngụy đã bị trừng phạt đích đáng… Các cơ quan hành chánh ngụy…
đã thình lình sụp đổ. Chính phủ Thiệu-Kỳ không thể thoát cảnh sụp đổ toàn diện.
Quân đội ngụy đã trở nên hết sức yếu hèn và sẽ không thể tránh khỏi bị hoàn
toàn tiêu diệt”.
Đương nhiên, một số lời lẽ dông dài này chỉ nhằm cổ vũ những
ai tin theo, và vì đó luôn là trường hợp khi đọc những gì CS đưa ra, nên rất
khó phân biệt đâu là niềm tin, đâu là ước muốn. Nhưng lời chứng từ các tù binh
và hồi chánh viên, cũng như những bức điện bắt được, cho thấy rằng cán binh
cũng như cán bộ đều tin trong ít ngày rằng họ ở lâu dài tại Huế, và họ đã hành
động phù hợp với niềm tin ấy.
Trong số các hành vi của họ có việc mở rộng lệnh giết người
và phát động cái trên thực tế là một thời kỳ tái xây dựng xã hội kiểu CS. Các
mệnh lệnh, xem ra từ đảng ủy cấp tỉnh ban bố, là tập trung cái mà một tù nhân
gọi là “những tiêu cực xã hội”, nghĩa là những cá nhân hay thành viên các nhóm
có thể gây nguy cơ hay bất lợi cho trật tự xã hội mới. Đây là điều không liên
quan đến riêng ai, chẳng phải là sổ đen các tên tuổi nhưng là sổ đen các tước
vị trong xã hội cũ, không nhắm đến những con người nhưng nhắm đến các “đơn vị
xã hội”.
Như đã thấy trước đây tại Bắc Việt và tại Trung Cộng, người
Cộng sản đã cố phá vỡ trật tự xã hội địa phương bằng cách thủ tiêu những thủ
lãnh và những khuôn mặt then chốt trong các tổ chức tôn giáo (sư sãi Phật Giáo,
linh mục Công Giáo), các chính đảng (bốn thành viên của Ủy ban Trung tâm Việt
Nam), các phong trào xã hội như các tổ chức phụ nữ và các nhóm trẻ, kể cả việc
hoàn toàn không thể giải thích nổi, là hành quyết những thủ lãnh sinh viên thân
cộng thuộc các gia đình thượng lưu hay trung lưu.
Phù hợp với điều này, trong vài trường hợp là giết cả gia
đình. Trong một trường hợp có đầy đủ tài liệu suốt thời kỳ này, một toán có
lệnh ám sát đã xông vào nhà một lãnh đạo cộng đồng lỗi lạc và bắn ông, vợ ông,
con trai và con dâu, con gái còn nhỏ của ông, cặp gia nhân nam nữ và đứa con
của họ! Con mèo của gia đình bị bóp cổ, con chó bị đánh đến chết, những con cá
vàng cũng bị hất ra khỏi chậu, quẳng xuống nền nhà. Khi những tên CS bỏ đi,
trong nhà chẳng còn gì sống sót. Một “đơn vị xã hội” đã bị tiêu diệt!!!
Giai đoạn II cũng chứng kiến một nỗ lực tập trung nhằm thủ
tiêu giới trí thức, mà có lẽ ở Huế nhiều hơn bất cứ nơi nào khác tại Việt Nam.
Những trí thức Huế sống sót đã giải thích điều này là do một mối căm thù lâu đời
của Cộng sản đối với giới trí thức của Huế, vốn chống Cộng theo kiểu cách xúc
phạm nhất: từ chối coi trọng chủ nghĩa Cộng sản. Giới trí thức Huế đã luôn
khinh bỉ ý thức hệ CS, gạt nó sang một bên như kẻ đến muộn trong lịch sử các tư
tưởng và chẳng phải là cái gì có ý nghĩa. Vốn là một pháo đài của chủ nghĩa
truyền thống, với những nhà trí thức đắm mình trong kiến thức Khổng giáo đan
xen với Phật giáo, Huế đã không thèm để ý đến những công lao của chủ nghĩa Cộng
sản, dẫu trong các thập niên biến động 1920-1930. Huế bất biết nó. Chẳng hạn
các nhà trí thức tại viện Đại học, trong một giáo trình trọn năm về các tư
tưởng chính trị, đã chỉ thí cho chủ thuyết Mác-Lênin nửa giờ, phác thảo nó như
một loạt những khẩu hiệu chính trị man rợ và nông cạn, chẳng có chiều sâu và
thực tế được thời gian trắc nghiệm như tri thức Khổng giáo, cũng chẳng có sự
huy hoàng và tính nhân bản cao vời như tư tưởng Phật giáo.
Vì lẽ người Cộng sản, đặc biệt người Cộng sản gốc Huế, xem
trọng giáo điều của mình, y có thể trở thành quỷ quái khi bị một nhà nho coi
như một kẻ ngu dốt về triết học, hay bị một Phật tử coi như một tên duy vật tầm
thường. Hoặc tệ hơn bị coi thường là bị bất biết qua năm tháng. Thành ra với sự
chính trực của một tín đồ chân thành, y đã tìm cách đánh trả để loại bỏ thái độ
dửng dưng đầy thách thức này. Những người trí thức nay nói rằng cuộc săn lùng
hàng ngũ của họ đã dạy cho họ một bài học khắc nghiệt, đó là phải coi trọng chủ
nghĩa Cộng sản, không phải như một tư tưởng, nhưng ít nhất như một sức mạnh
được sổ lồng trong thế giới của họ.
Những cuộc tàn sát trong Giai đoạn II có lẽ đã giải thích
việc 2,000 người bị mất tích. Nhưng điều tồi tệ nhất vẫn chưa chấm dứt.
Huế: Giai đoạn III
Một điều không thể tránh được, và như giới lãnh đạo tại Hà
Nội hẳn đã phải thừa nhận khi xét đến những lực lượng điều động chống lại nó,
là trận đánh tại Huế đã xoay chiều bất lợi cho CS. Một bản tin radio bắt được
của Quân đội Nhân dân truyền đi từ Thành Nội ngày 22 tháng 2, đã xin phép rút
quân. Bản trả lời: từ chối cho phép, phải tấn công ngày 23. Trận tấn công này
là trận cuối cùng nhưng vô hiệu quả. Ngày 24, Thành Nội được lấy lại.
Ít nhất một tuần trước đó, CS đã thấy việc trục xuất này là
không thể tránh khỏi. Đây là lúc Giai đoạn III bắt đầu: giai đoạn xóa dấu vết.
Có lẽ toàn thể cán bộ dân sự nằm vùng tại Huế đã lộ mặt suốt Giai đoạn II.
Những ai dù đã không bị nghi ngờ cũng đứng lên công bố căn tính của họ. Điển
hình là trường hợp một cư dân Huế đã mô tả sự ngạc nhiên của anh khi biết rằng
người hàng xóm của mình là lãnh đạo một phường (đứng từ hàng thứ 10 đến 15 giới
dân sự CS trong thành phố). Anh nói trong nỗi kinh ngạc: “Tôi biết ông ta đã 18
năm nay mà không bao giờ nghĩ rằng ông ta lại quan tâm đến chính trị như vậy.”
Một cán bộ như thế có thể không hoạt động ngầm lại được trừ phi chẳng có ai
xung quanh nhớ đến ông.
Vì thế, Giai đoạn III là thủ tiêu các nhân chứng. Có lẽ số
cuộc giết chóc lên cao nhất là ở giai đoạn này và cũng vì lý do đó. Những người
từng bị bắt đi nhồi sọ chính trị có lẽ đã được dự tính sẽ thả về. Nhưng họ là
dân địa phương như những kẻ đã bắt họ, quen biết tên tuổi và mặt mũi nhau. Nên
khi kết cục đến gần, họ đã trở thành không phải một gánh nặng cho bằng một mối
nguy đích thực. Chắc hẳn đó là trường hợp của nhóm người bị bắt đi từ nhà thờ
Phủ Cam. Hay trường hợp của 15 học sinh trung học mà thi thể đã được tìm thấy ở
ruộng muối Phú Thứ.
Việc phạm trù hóa trong một giả thuyết như thế, dĩ nhiên,
chỉ có tính cách tổng quát và may lắm thì có tính cách minh họa. Các sự việc
không gọn gàng rõ rệt trong đời thực. Ví dụ suốt toàn bộ thời gian, cuộc săn
lùng theo sổ đen” đã được tiến hành. Do đó, đã có những cuộc tàn sát trả thù
của người Cộng sản nhân danh đảng, nhân danh cái gọi là “công lý của cách
mạng”. Nhưng chắc hẳn cũng đã có những vụ tư thù, tư oán do các cá nhân đảng
viên thực hiện.
Quan điểm chính thức của Cộng Sản về việc tàn sát ở Huế được
chứa đựng trong một cuốn sách được viết và phổ biến tại Hà Nội: “Tích cực phối
hợp nỗ lực với Lực lượng Vũ trang Giải phóng và với nhân dân, những đơn vị tự
vệ và vũ trang của thành phố (Huế) đã bắt giữ và kêu gọi đầu hàng những viên
chức còn lại của Ngụy quyền và những sĩ quan binh sĩ của Ngụy quân còn lẩn lút.
Các tên ngoan cố ác ôn đều đã bị trừng trị.”
Tại Hòa đàm Paris sau này, Cộng Sản đã cho rằng những cuộc
thảm sát ở Huế không do bàn tay của Cộng Sản nhưng do “những đảng phái chính
trị đối kháng địa phương”. Dù vậy, tưởng cũng nên lưu ý: ngày 26-04-1968, khi
chỉ trích nỗ lực tìm xác tại Huế, đài Phát thanh Giải phóng Hà Nội đã nói rằng
các nạn nhân chỉ là “những tên tay sai côn đồ đã có nợ máu với nhân dân yêu
nước ở Huế và họ đã bị các lực lượng vũ trang miền Nam cùng nhân dân tiêu diệt
trong mùa Xuân”. Giọng điệu tuyên truyền này đã sớm bị bỏ qua để thay thế bởi
một luận điệu khác: đó thực là những vụ thanh toán tranh chấp giữa các nhóm
chính trị địa phương.
Trích từ "Viet Cong Strategy of Terror"