Bình Đẳng, Tự Do, Dân Chủ, Dân Quyền, Nhân Quyền, Đa Nguyên, Và Tư Hữu
Iris Vinh Hayes - “Thật
lạ đời rằng trong một chế độ dân chủ tự do, nơi người ta không chính
thức đưa đạo đức lên như một giá trị của thể chế, nơi người ta chỉ dành
nhiều thời gian và công sức để đề cao và bảo vệ nền pháp trị thì đạo đức
lại được phát huy. Bởi xét cho cùng những giá trị như công bằng, tự do,
tự thân chúng lại là một vấn đề đạo đức. Không có kẻ vô đạo đức nào yêu
chuộng công bằng, tự do. Bởi vậy, không ngoa chút nào khi ta nói xã
hội dân chủ được đặc trưng bởi đạo đức.” * Những “lời bàn” này của
Huỳnh Thục Vy, theo tôi, giá trị của nó rất nặng cân. Và tôi muốn tiếp
sức cho “lời bàn” của cô với một bài luận (đã được viết từ cuối thập
niên 1980s) về cái mà tôi gọi là “đạo đức cơ chế.”
Con người không phải là dã thú cho nên phải lấy văn minh thiện đức mà
đối đãi nhau. Muốn được văn minh thiện đức, đời sống tinh thần và vật
chất của con người phải phong phú và hài hòa. Tổ chức cho đời sống của
con người phải dựa trên những tư tưởng, nguyên tắc và hành động phù trợ
văn minh thiện đức.
Con người sinh ra vốn bình đẳng và tự do. Đời sống đúng nghĩa cho con
người phải thể hiện trạng thái bình đẳng và tự do. Ngay cả tương quan
thiên địa nhân còn đồng vị hà huống chi là tương quan giữa con người với
con người. Cho nên không ai có thể nhân danh bất cứ một lý do nào
--dầu là vì Trời, vì Đất, hay vì Người-- để hủy bỏ hoặc tước đoạt sự
bình đẳng và tự do của con người.
Không một ai có thể tự đặt mình ở vị thế cao trọng hơn người khác hoặc
ép buộc người khác phải tuân theo tha lực trái với ý muốn. Đành rằng tổ
chức của xã hội loài người phát sinh nhu cầu lãnh đạo và tuân hành
nhưng không vì nhu cầu đó mà sự bình đẳng và tự do của con người có thể
bị ngang nhiên cưỡng đoạt. Để dung hòa giữa nhu cầu tổ chức với nhu cầu
tôn trọng quyền bình đẳng và tự do của con người, quyền lãnh đạo phải
được cho phép trước bởi những người tuân hành.
Sự tự nguyện tuân hành của đại đa số bằng cách ủy nhiệm vai trò lãnh đạo
cho một thiểu số là nguồn gốc cơ bản của quyền lực dân chủ. Từ đó,
trong phạm trù tổ chức của một quốc gia dân chủ, quyền lãnh đạo là do
dân trao cho mà có. Dân phải là chủ. Quyền cho phép lãnh đạo phải nằm
trong tay dân. Đó gọi là dân quyền.
Dân quyền phải là nền móng cho cung cách tổ chức của một quốc gia dân
chủ. Dân thiết lập hiến pháp và thể chế lãnh đạo. Dân chọn lựa thành
phần lãnh đạo và sách lược lãnh đạo. Dân quyết định tương lai và vận số
của đất nước. Tất cả guồng máy lãnh đạo đất nước phải là của dân, do
dân và vì dân.
Dân quyền hoàn toàn không hiện hữu nếu dân không thể tự chủ thiết lập
hiến pháp và thể chế lãnh đạo; nếu dân không thể tự chủ chọn lựa thành
phần lãnh đạo và sách lược lãnh đạo; nếu dân không thể tự chủ quyết định
tương lai và vận số của đất nước. Tất cả mọi hình thức “cho phép”
người dân suy nghĩ, lên tiếng, hay hành động từ phía nhà cầm quyền không
thể gọi là dân quyền, không thể ngụy tạo là dân quyền, không thể ngộ
nhận là dân quyền, không thể chấp nhận là dân quyền. Theo đó, cũng
không thể nói guồng máy điều hành đất nước là của dân, do dân và vì
dân.
Tất cả những quyền lực lãnh đạo, bất kể phát xuất từ đâu hay dưới bất cứ
danh nghĩa nào, nếu không có sự ủy nhiệm của dân đều được coi là bạo
quyền. Và, nếu đã là một guồng máy lãnh đạo được xây dựng trên nền móng
của bạo quyền thì đất nước đó không thể thực sự là một quốc gia dân chủ
dầu nhà cầm quyền có che đậy dưới bất cứ hình thức nào, có đánh bóng
với bất cứ lý tưởng nào, có trống chiên với bất cứ chiêu bài nào, có
ngụy tạo dưới bất cứ ngôn từ nào, có giải thích với bất cứ lý do nào.
Bạo quyền là nguồn gốc cơ bản của chiến tranh. Từ nghìn xưa cho tới giờ
chế độ quân chủ phong kiến chuyên chế không ổn định lâu dài. Chế độ
phát xít độc tài chuyên chế không ổn định lâu dài. Chế độ cộng sản độc
tài chuyên chế không ổn định lâu dài. Chỉ vì những chế độ này đều dùng
sức mạnh của bạo quyền mà áp chế. Bạo quyền thường hấp dẫn bạo hành.
Đó là định luật đương nhiên. Vì vậy, đấu tranh tàn hủy triền miên là
điều khó tránh. Tội nghiệp dân đen phải chịu cảnh nổi trôi quằn quại!
Bạo quyền là nguồn gốc cơ bản của mọi cưỡng đoạt. Dưới móng vuốt của
bạo quyền, mạng sống của con người bị cưỡng đoạt; sự sống của con người
bị cưỡng đoạt; cho đến cách sống của con người cũng bị cưỡng đoạt. Nói
một cách khác, mọi quyền sống của con người -bao gồm mạng sống, sự sống,
và cách sống-đều bị cưỡng đoạt. Cưỡng đoạt công khai, cưỡng đoạt âm
thầm, cưỡng đoạt thô bỉ, cưỡng đoạt tinh vi, cưỡng đoạt có lý do, cưỡng
đoạt không lý do, cưỡng đoạt dưới mọi hình thức, cưỡng đoạt trong mọi
môi trường, cưỡng đoạt ở mọi cấp độ. Chế độ quân chủ phong kiến độc tài
chuyên chế cưỡng đoạt quyền sống của con người. Chế độ phát xít độc
tài chuyên chế cưỡng đoạt quyền sống của con người. Chế độ cộng sản độc
tài chuyên chế cưỡng đoạt quyền sống của con người. Những chế độ độc
tài chuyên chế này đều dựa vào bạo quyền để cưỡng đoạt. Và một khi
quyền sống của người dân đã bị cưỡng đoạt thì hạnh phúc của người dân
không thể nào thực sự hiện hữu.
Nhìn suốt dòng lịch sử của nhân loại, chỉ có quyền lực dân chủ mới bảo
đảm được sự ổn định lâu dài cho đất nước. Và duy nhất chỉ có quyền lực
dân chủ mới bảo đảm được quyền sống và hạnh phúc cho người dân.
Tuy nhiên, quyền lực dân chủ tự nó chưa đủ để có thể nói là “bảo đảm
chắc chắn” cho sự ổn định lâu dài và cho quyền sống của con người.
Phải có một cơ chế dân chủ để gìn giữ và ngăn chận không cho quyền lực
dân chủ đi đến tình trạng tha hóa.
Con người, không cần biết là chi sơ tính bản thiện hay tính bản ác, luôn
luôn thay đổi để đáp ứng với hoàn cảnh. Sự thay đổi có thể mang con
người từ chỗ không văn minh thiện đức đến chỗ văn minh thiện đức. Ngược
lại, sự thay đổi có thể mang con người từ chỗ văn minh thiện đức đến
chỗ mất đi văn minh thiện đức. Và sự thay đổi của những tập thể cũng
không khác. Đó là một sự thật tất nhiên và bất biến.
Vì vậy, để ngăn ngừa hậu quả không tốt, quyền lực lãnh đạo không được
tập trung vào một tập thể duy nhất. Đồng thời, sự ủy nhiệm quyền lực
lãnh đạo cho từng cá nhân phải có giới hạn. Nói một cách khác, ba
nguyên tắc phân quyền, tản quyền và bầu cử định kỳ phải được áp dụng
triệt để. Phân quyền, tản quyền và bầu cử định kỳ có thể tạm gọi là ba
nguyên tắc ủy nhiệm quyền lực dân chủ.
Ba nguyên tắc ủy nhiệm quyền lực dân chủ là thành lũy kiên cố để chống
lại sự lạm dụng quyền lực của cá nhân trong một cơ chế lãnh đạo; để
chống lại sự lạm dụng quyền lực của một tập thể lãnh đạo; để bảo vệ dân
quyền và nhân quyền; để gìn giữ cơ chế dân chủ; để khai phóng sinh hoạt
chính trị theo chiều hướng nhân bản cao độ, trong đó toàn dân chung dự
một cách thoải mái vì không sợ bị bạo quyền đe dọa đến đời sống và mạng
sống. Và, theo đó sinh hoạt chính trị của quốc gia được ổn định lâu
dài.
Đối với một cơ chế lãnh đạo dân chủ trong một guồng máy điều hành quốc
gia được xây dựng trên nền móng dân quyền, ba nguyên tắc ủy nhiệm là
phương tiện để có thể cùng nhau mà lãnh đạo. Cùng nhau lãnh đạo có thể
thực hiện được nhờ vào bản chất của dân chủ là dung chứa và hòa hợp.
Trong thể chế dân chủ, đối lực cũng là trợ lực. Trong cái đối kháng có
sự phù trợ. Trong cái phù trợ có sự đối kháng. Phù trợ nhau để cùng
sinh tồn. Đối kháng nhau để cùng tiến hóa. Đối kháng nhau mà không hủy
diệt nhau. Phù trợ nhau mà không toa rập nhau để đưa đến chỗ chuyên
chế lầm lạc. Vì vậy, ba nguyên tắc ủy nhiệm quyền lực lãnh đạo dân chủ
có thể nói là cái thể dụng tuyệt vời của đạo lý âm dương. Phân quyền,
tản quyền và bầu cử định kỳ là cái Đức sáng của Đạo thể hiện trong cơ
chế dân chủ.
Đối với một cơ chế cầm quyền phi dân chủ cai quản một guồng máy khống
trị đất nước được xây dựng trên nền móng bạo quyền, phân quyền là điều
không thể thực sự có được bởi vì nhu cầu của bạo quyền là thống trị độc
tôn. Tất cả mọi đối lực, bên trong và bên ngoài, đều được coi là những
đe dọa trực tiếp tới quyền lực của giới cầm quyền khống trị và tới sự
sinh tồn của bộ máy khống trị hỗ trợ quyền lực đó. Do những động lực
phát sinh từ nhu cầu thống trị độc tôn, hủy diệt đối lực hay bị đối lực
hủy diệt là tiến trình duy nhất. Khát vọng phải hủy diệt đối lực ngay
từ trong trứng nước trở thành một ám ảnh không ngừng nghĩ trong tâm thức
của giới cầm quyền khống trị và bạo hành là công cụ để thực hiện.
Bạo hành nuôi dưỡng bạo hành. Chính vì lẽ đó, có đầy dẫy chuyện cá nhân
tàn hại cá nhân, cá nhân tàn hại tổ chức, tổ chức tàn hại cá nhân, tổ
chức tàn hại tổ chức, những đối tượng tranh đoạt tàn hại lẫn nhau đưa
đến chỗ tài nguyên kiệt tận, con người lầm than khốn khó, lễ nghĩa suy
đồi, đất nước tan nát.
Nếu những đối tượng cùng nằm bên trong cơ chế cầm quyền và bộ máy khống
trị đã không thể tương nhượng nhau thì làm sao có thể dung nạp những đối
tượng từ bên ngoài? Nếu khuynh hướng hủy diệt đối lực được áp dụng
triệt để lên những đối tượng nằm bên trong cơ chế cầm quyền và guồng máy
khống trị thì làm sao những đối tượng đến từ bên ngoài có thể thoát
khỏi nanh vuốt của bạo lực?
Đối với một cơ chế cầm quyền phi dân chủ cai quản một guồng máy khống
trị đất nước được xây dựng trên nền móng bạo quyền, tản quyền là điều
không thể thực sự có được vì nhu cầu của bạo quyền là củng cố thế lực để
hủy diệt đối lực. Tản quyền là tự chiết giảm quyền lực. Tản quyền là
tự để đối tượng thoát ra khỏi ảnh hưởng của móng vuốt khống trị. Tản
quyền là tự tạo cơ hội cho đối tượng xét lại. Tản quyền là tự gieo mầm
mống đe dọa về sau. Cho nên, áp dụng nguyên tắc trung ương tập quyền là
điều đương nhiên và dễ hiểu.
Chính vì trung ương tập quyền, giới lãnh đạo và guồng máy cai trị càng
ngày càng xa cách với dân, điều hành càng ngày càng trì trệ, hiệu quả
càng ngày càng suy thoái, xã hội càng ngày càng thua sút.
Đối với một cơ chế cầm quyền phi dân chủ cai quản một guồng máy khống
trị đất nước được xây dựng trên nền móng bạo quyền, bầu cử định kỳ để
người dân thu hồi quyền lãnh đạo của những người không còn xứng đáng với
sự tín nhiệm của dân và để ủy quyền cho những người khác lên thay là
điều không thể thực sự có được vì nhu cầu của bạo quyền là phục vụ và
duy nhất chỉ phục vụ cho tham vọng vô giới hạn của giới cầm quyền khống
trị đất nước.
Áp đặt một bộ máy khống trị sắt máu là điều tất nhiên đối với một cơ chế
cầm quyền phi dân chủ. Bộ máy đó được tạo tác và củng cố liên tục để
có đủ khả năng nghiền nát những lực lượng đối lập, những phương án đối
lập, những hành động đối lập, những quan điểm đối lập. Bộ máy đó không
tin bất cứ ai và rất muốn khám phá mọi âm mưu từ trong trứng nước cho
nên sẵn sàng sử dụng tất cả mọi thủ đoạn và phương tiện dầu là những thủ
đoạn và phương tiện đó có ghê tởm hèn hạ đến mấy, có phi nhân phi nghĩa
đến mấy, có để lại hậu quả khốc liệt đến mấy. Bộ máy đó luôn luôn đói
khát chiến tranh: chiến tranh giữa những phần tử bên trong nội bộ, chiến
tranh với nhân dân, và chiến tranh với những quốc gia láng giềng.
Là hệ lụy đương nhiên của cơ chế cầm quyền phi dân chủ, bối cảnh của đất
nước và thân phận của con người trong đất nước không hơn được địa ngục
âm u của loài súc sanh và ngạ quỷ.
Mỗi một con người sinh ra vốn khác nhau và độc đáo. Sự khác nhau và độc
đáo đó làm nên những cá thể riêng biệt. Sự khác nhau và độc đáo làm
nên trạng thái đa nguyên. Trạng thái đa nguyên là sự hiện hữu của những
dị biệt trong cùng một không gian và thời gian. Đồng thời con người
sinh ra vốn bình đẳng và tự do. Trong trạng thái bình đẳng và tự do,
không một cá thể nào có thể bị cưỡng đoạt mất đi cái riêng biệt của
chính mình. Đối với một xã hội văn minh thiện đức, trạng thái đa nguyên
với trạng thái bình đẳng và tự do kết hợp nhau chặt chẽ và tự nhiên.
Để bảo đảm có được sự tôn trọng của người khác dành cho chính bản thân
mình, tự nguyện tôn trọng sự khác biệt của những cá thể chung quanh là
điều hợp tình hợp lý và thiết yếu.
Để duy trì sự ổn định tự nhiên và lâu dài mỗi người và mọi người phải
đương nhiên tôn trọng sự khác biệt của mỗi người và mọi người chung
quanh, không cần biết sự khác biệt đó là khác biệt thể dạng hay khác
biệt tư tưởng, không cần biết sự khác biệt đó là do bẩm sinh hay do nhân
tạo, không cần biết sự khác biệt đó gây cảm giác ưa thích hay khó chịu.
Và sự khác biệt của mỗi cá thể trong xã hội được tôn trọng theo tinh
thần bình đẳng và tự do.
Nói một cách khác, con người phải được quyền tự do tín ngưỡng, tự do
ngôn luận, tự do hội họp, tự do biểu hiện tư duy của chính mình, tự do
tìm kiếm hạnh phúc... và xã hội phải tôn trọng những quyền sống căn bản
này.
Nếu những khác biệt không được tôn trọng xã hội đi đến chỗ con người sẽ
nhân danh cá nhân, nhân danh gia đình, nhân danh tập thể, nhân danh chế
độ, nhân danh chủng tộc, nhân danh tôn giáo, nhân danh đạo đức, nhân
danh thần linh, nhân danh Thượng Đế, nhân danh Đảng... để áp chế con
người một cách trắng trợn.
Một khi sự dị biệt của một cá nhân không được tôn trọng, cá nhân đó đã
vô hình trung bị “bức tử” một cách tàn nhẫn vì quyền sống của cá nhân đó
đã bị cưỡng đoạt. Đó gọi là trạng thái vong thân. Nếu xã hội để cho
một người bị vong thân, tất cả mọi người trong xã hội đó trước sau gì
cũng sẽ bị vong thân. Vấn đề chỉ là xảy ra sớm hay muộn.
Những thể hiện dân chủ thực sự tuyệt nhiên không thể tách rời khỏi sự
chấp nhận, tôn trọng và gìn giữ trạng thái đa nguyên. Bản chất của dân
chủ thực sự tuyệt nhiên không thể tách rời khỏi trạng thái đa nguyên.
Cơ chế dân chủ thực sự tuyệt nhiên không thể tách rời khỏi trạng thái đa
nguyên. Xã hội dân chủ thực sự tuyệt nhiên không thể tách rời khỏi
trạng thái đa nguyên. Yếu tính tự do không thể tách rời khỏi trạng thái
đa nguyên. Yếu tính bình đẳng không thể tách rời khỏi trạng thái đa
nguyên. Yếu tính nhân bản cũng không thể tách rời khỏi trạng thái đa
nguyên.
Đa nguyên là trạng thái tự nhiên của trời đất. Vạn vật có muôn hình vạn
trạng. Tuy có khác nhau nhưng bình đẳng và tự do. Tuy có khác nhau
nhưng hòa hợp trong đại thể của trời đất. Xã hội của loài người cũng
không khác. Tổ chức của loài người phải tôn trọng trạng thái đa nguyên,
nếu thực sự yêu chuộng văn minh thiện đức.
Không may, lịch sử đã từng chứng minh là có những cá thể chỉ vì muốn thế
giới còn lại một chủng tộc duy nhất mà đã nhẫn tâm dùng bạo lực tàn hại
sinh linh. Lịch sử đã từng chứng minh là có những cá thể chỉ vì muốn
tất cả mọi người đi theo một tôn giáo duy nhất mà đã nhẫn tâm dùng bạo
lực tàn hại sinh linh. Lịch sử đã từng chứng minh là có những cá thể
chỉ vì muốn mọi người nghe theo một tiếng nói duy nhất mà đã nhẫn tâm
dùng bạo lực để tàn hại sinh linh. Sự đối chiếu lịch sử cho thấy một
điều rất rõ rệt là tất cả những nỗ lực của con người nhằm hủy bỏ trạng
thái đa nguyên đều là những nỗ lực vô đạo. Tất cả những nỗ lực của con
người nhằm đi ngược lại với tinh thần bình đẳng và tự do trong môi
trường đa nguyên đều là những nỗ lực vô đạo. Tất cả những nỗ lực của
con người nhằm đi ngược lại với văn minh thiện đức đều là những nỗ lực
vô đạo.
Từ đó, trong phạm trù tổ chức của một quốc gia, xây dựng một xã hội văn
minh thiện đức cần phải đặt trên nền tảng đa nguyên. Tự do tín ngưỡng
phải được tôn trọng. Tự do ngôn luận phải được tôn trọng. Tự do hội
họp phải được tôn trọng. Tự do biểu hiện tư duy phải được tôn trọng.
Tự do tìm kiếm hạnh phúc phải được tôn trọng. Tất cả những thứ tự do
khác phù trợ quyền sống của con người phải được tôn trọng. Cá nhân và
nhà cầm quyền phải chấp nhận sự có mặt của nhiều tôn giáo khác nhau,
phải chấp nhận sự có mặt của nhiều đảng phái và tổ chức khác nhau, phải
chấp nhận nhiều hệ tư tưởng khác nhau . . . và phải chấp nhận ngay cả
những điều chính cá nhân mình không ưa thích hoặc không đồng ý. Tất cả
phải cư xử với nhau trên tinh thần dung thứ, tương nhượng và xây dựng.
Con người sinh ra vốn bình đẳng và tự do, trong đó có cả bình đẳng và tự
do để mưu sinh và tư hữu. Đành rằng trước khi con người được sinh ra
trời đất sinh vật đã hiện hữu, và do đó, vạn vật trong trời đất là của
công hữu. Nhưng mỗi cá nhân đã bỏ tâm sức để phát triển tư năng và vận
dụng tư năng của mình để mưu sinh cho nên vật chất cá nhân tạo được đã
trở thành tư hữu. Nói một cách khác, chính vì sự lao tâm và lao lực của
mỗi cá nhân để trộn thành quả lao động của mình vào vật chất sản xuất
cho nên từ chỗ cộng sản dẫn tới chỗ tư sản là một tiến trình tất nhiên.
Mọi nỗ lực cưỡng bách con người đi ngược lại tiến trình này đều là
những nỗ lực nghịch lý và nghịch hành.
Sự sáng tạo, cần mẫn và tiết kiệm là những đức tính đáng quý của con
người. Nhờ vào sáng tạo và cần kiệm con người mới tạo ra sự phong phú
vật chất. Tự do mưu sinh và tư hữu cho con người cái cơ hội vận dụng sự
sáng tạo và cần kiệm để làm cho đời sống trở nên phong phú hơn. Nói
một cách khác, sự phong phú vật chất là thể hiện thực tế của những đức
tính tốt. Vì vậy, quyền tư hữu không những là điều đương nhiên và hợp
lý mà còn là phương tiện để thúc đẩy và biểu dương đức tính tốt của con
người.
Chưa hết. Sự thật trong đời sống đã từng chứng minh là nghèo đói có thể
đưa con người tới chỗ cùng đường, đến chỗ vong thân, đến chỗ mất đi lễ
nghĩa. Sự thật trong đời sống đã từng chứng minh là nghèo đói cưỡng
đoạt đi quyền sống căn bản của con người: quyền được sống trong no ấm và
hạnh phúc. Nếu nghèo đói đưa con người đến chỗ cùng đường, đến chỗ
vong thân, đến chỗ mất đi lễ nghĩa, đến chỗ mất đi quyền sống căn bản
thì không ai có thể phủ nhận được sự phong phú vật chất là một phương
tiện tốt để cho con người có được cái cơ hội sống đúng với tinh thần văn
minh thiện đức. Vì vậy, quyền tư hữu không những là điều đương nhiên
và hợp lý; không những là phương tiện để thúc đẩy và biểu dương đức tính
tốt của con người; mà còn là phương tiện gìn giữ quyền sống căn bản của
con người chống lại sự vong thân và mất đi lễ nghĩa.
Thêm vào đó, con người cần phải biết chia xẻ đùm bọc lẫn nhau. Tiền
nhân nước Việt đã từng dạy “lá lành đùm lá rách.” Nhưng nếu một cá nhân
không có được sự phong phú vật chất thì thử hỏi làm sao có thể đưa
người khác ra khỏi cảnh nghèo đói, khỏi chỗ cùng đường, khỏi chỗ vong
thân, khỏi chỗ mất đi lễ nghĩa dầu có đầy lòng nhân ái? Nhưng nếu cơ
chế kinh tế của quốc gia không tạo ra được sự phong phú vật chất thì thử
hỏi làm sao có thể đưa đại đa số dân chúng ra khỏi cảnh nghèo đói, khỏi
chỗ cùng đường, khỏi chỗ vong thân, khỏi chỗ mất đi lễ nghĩa dầu công
quyền có đầy lòng nhân ái? Vì vậy, quyền tư hữu không những là điều
đương nhiên và hợp lý; không những là phương tiện để thúc đẩy và biểu
dương đức tính tốt của con người; không những là phương tiện gìn giữ
quyền sống căn bản của con người chống lại sự vong thân và mất đi lễ
nghĩa; mà còn là phương tiện để con người trợ giúp cho sự sống và mạng
sống của tha nhân, đồng bào, đồng loại.
Vì tất cả những lý do đó mà quyền tư hữu được tuyệt đối tôn trọng trong xã hội văn minh thiện đức.
Muốn có được một xã hội văn minh thiện đức, đời sống vật chất và tinh
thần của con người phải hài hòa. Muốn có được một xã hội hài hòa vật
chất và tinh thần con người không thể bị cưỡng đoạt đi quyền bình đẳng
và tự do trong đó có quyền bình đẳng và tự do tư hữu, quyền bình đẳng và
tự do mưu sinh, quyền bình đẳng và tự do tìm kiếm hạnh phúc theo nhu
cầu cá nhân.
Từ đó, trong phạm trù tổ chức của một quốc gia, một cơ chế phù trợ văn
minh thiện đức phải là một cơ chế tuyệt đối tôn trọng quyền tư hữu; phải
là một cơ chế cho con người những cơ hội tìm kiếm hạnh phúc theo nhu
cầu cá nhân; phải là một cơ chế khích lệ sự sáng tạo và cần kiệm; phải
là một cơ chế có thể đưa đại đa số dân chúng ra khỏi cảnh nghèo đói,
khỏi chỗ cùng đường, khỏi chỗ vong thân, khỏi chỗ mất đi lễ nghĩa; phải
là một cơ chế có khả năng phong phú hóa đời sống con người; phải là một
cơ chế bảo đảm tài sản tư hữu của cá nhân không bị tước đoạt bởi bạo
quyền.
Và vì không sợ bị cưỡng đoạt bởi bạo quyền, tài sản tư hữu của cá nhân
được tự do vận dụng theo nguyên tắc thị trường để đầu tư vào công cụ sản
xuất. Công cụ sản xuất là phương tiện căn bản có thể phong phú hóa vật
chất để cải thiện đời sống của người dân. Đem đầu tư tài sản cá nhân
tạo ra phong phú vật chất để cho mọi người cộng hưởng, dầu nhiều ít có
thể khác nhau, là noi theo huyền tích Ky Tô [dùng một miếng bánh mì tạo
ra thêm nhiều miếng bánh mì chia xẻ cho giáo dân] theo tinh thần nhân ái
của Thiên Chúa. Đem đầu tư tài sản cá nhân tạo ra phong phú vật chất
để cho mọi người cộng hưởng, dầu nhiều ít có thể khác nhau, là hành động
chia xẻ mà không biết mình đã chia xẻ, không biết đến người nhận sự
chia xẻ, không biết đã chia xẻ bao nhiêu. Đó là noi theo tinh thần bố
thí ba la mật của chư Bồ Tát. Một cơ chế điều hành đất nước biết tận
dụng yếu tính tư hữu để có thể tạo ra công ích rộng lớn là một cơ chế
điều hành đất nước phù hợp với văn minh thiện đức.
*
Tóm lại, trong một xã hội văn minh thiện đức bình đẳng và tự do của con
người được tuyệt đối tôn trọng, trạng thái đa nguyên được tuyệt đối tôn
trọng, và quyền tư hữu được tuyệt đối tôn trọng. Bình đẳng, tự do, dân
chủ, dân quyền, nhân quyền, đa nguyên và tư hữu là những yếu tính “đạo
đức” không thể thiếu vắng để có được cái gọi là “một xã hội văn minh
thiện đức.”
___________________
Chú thích:
* Bàn về đạo đức thay lời chúc mừng Giáng Sinh của Huỳnh Thục Vy