Vụ án siêu nghiêm trọng TC2 và T4 hay khác đi cuộc tranh chấp giữa hai phe Lê Ðức Anh và Võ Nguyên Giáp đang diễn ra khốc liệt. Cả hai phe đang tung những đòn chí tử vào đối thủ. Bài viết dưới đây của ông Võ Ðồng Ðội (có lẽ là tên giả), viết về Nguyễn Chí Vịnh, con trai thứ của Nguyễn Chí Thanh, vừa mới được phe Lê Ðức Anh thăng cấp Trung Tướng. Nội dung của bài viết cho thấy Nguyễn Chí Vịnh chỉ là một tên lưu manh không hơn kém, nhưng vì là con của Nguyễn Chí Thanh, và là bộ hạ của Lê Ðức Anh nên đã leo lên được tới hàng tướng của Cộng Sản Việt Nam.Một tên lưu manh, tham nhũng, tội phạm, trong 10 năm, từ một trợ lý kiêm chủ quán cháo lòng tiết canh, nhẩy lên Tổng cục trưởng Tổng cục tình báo quân đội. Từ một thượng úy chủ quán cháo lòng, sống rách nát, sau 5 năm đã trở thành một triệu phú đô-la và bây giờ thực chất là một ông chủ kinh doanh cả kinh tế lẫn chính trị trên lưng Nhà nước với nhiều tham vọng và nhiều thủ đoạn mới để tiến thân hòng làm nguyên thủ quốc gia.
I- Bản chất lưu manh:
Từ lưu manh trộm cắp đến lưu manh kinh tế-chính trị làm đường tiến thân. Từ một học viên đang học tại Học viện kỹ thuật quân sự, nhiều lần trộm cắp trong Học viện, rồi một lần bị bắt quả tang phá mái nhà kho chui vào ăn cắp quân trang của Học viện, mặc dù biết là con của ông Nguyễn Chí Thanh nhưng Học viện vẫn phải đuổi học. Sau đó, nhờ uy tín của gia đình, Vịnh xin được vào học trường sĩ quan Thông tin, học không được, rồi xin vào Bộ tư lệnh Thông tin làm việc một vài tháng rồi về Cục 2 công tác.
Sau 4 năm làm trợ lý, loay hoay mở quán cháo lòng không thu hút được khách, cuối năm 1989 nhờ sự giúp đỡ tích cực của người anh rể là Lê Việt Bắc (thư ký ông Ðào Ðình Luyện) và hội G7(1) cho ra đời Công ty du lịch, dịch vụ và thương mại (TOSECO) do Vịnh làm Giám đốc. Cương lĩnh đầu tiên của Vịnh với cấp dưới thuộc quyền và thân bằng cố hữu là: “Phải bằng mọi cách kiếm được nhiều tiền, bỏ túi được nhiều cán bộ cấp cao để dễ bề thao túng”. Cương lĩnh này đã thực hiện được bằng cách:
1. Kiếm tiền thông qua danh nghĩa tập thể:
Lấy danh nghĩa công ty TOSECO gấp rút xin đất, xin nhà với danh nghĩa làm bình phong cho hoạt động nghiệp vụ, làm nhà ở cho cán bộ. Sau khi xin đất, nhà... Vịnh chia ra các lĩnh vực sau đây:
a) Mở Công ty liên doanh như khu biệt thự quận 10, khu cao ốc Hồ Tây, nhà hàng bia ôm trong khu triển lãm Giảng Võ mang tên “Quê Hương”, đồng thời cho thành lập Công ty xây dựng và thương mại Hồng Bàng ở phía Bắc và Công ty HB ở miền Nam. Hai Công ty xây dựng và thương mại do con trai và con rể của ông Vũ Chính (bố vợ Vịnh, Tổng cục trưởng TC 2) làm giám đốc. Vốn của 2 Công ty này đều huy động trong nội, ngoại vợ chồng Vịnh và nhóm G7 như ông Ngọc, ông Kháng, ông Trung, ông Nhu, ông Bắc, ông Hoàng Dũng, ông Phùng Hưng ở Văn phòng Bộ Quốc phòng và Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu và một số quan chức thân tín khác đứng ra để góp vốn liên doanh hoặc trực tiếp nhận xây dựng các công trình đặc biệt của Bộ quốc phòng không phải đấu thầu thiết kế dự toán, tất cả đều được thông qua phạm vi hẹp thanh toán quyết toán bằng cách dùng mọi sức ép từ những vụ đặc biệt của cơ quan Văn phòng Bộ Quốc phòng và Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu để chấp nhận giá mà Hồng Bàng và HB đề nghị. Riêng việc này và gia đình đã thu được:
- Các khoản tiền đền bù đối tác liên doanh, tiền lời xây dựng công trình.
- Các khoản lời từ liên doanh rút ra làm nghiệp vụ.
Một điểm đáng chú ý là sau khi chiếm đoạt tiền hoa hồng và đền bù từ liên doanh biệt thự quận 10, phó Giám đốc TOSECO là Ðào Quang Thép bị loại vì thắc mắc trong ăn chia.
b) Bằng nhiều lần thủ đoạn chiếm đoạt các khu nhà của các đơn vị và lấy cớ để kinh doanh nghiệp vụ.
Ðầu tiên là lừa ông Hoàng Hữu Thái, Tư lệnh hải quân khu nhà 1A công trường Mê Linh Sài Gòn để liên doanh. Sau khi hải quân đồng ý thì Vịnh và G7 lập luận hải quân không cần kinh doanh và đề nghị Bộ quyết định chuyển cho TC2 (Tổng cục 2) làm nghiệp vụ. Thế là hải quân cay đắng mất đất. Ðến giờ này trung tướng Hoàng Hữu Thái, nguyên tư lệnh hải quân vẫn phàn nàn lỗi lầm của mình là đầu hai thứ tóc mà bị Vịnh lừa. Ðược đất rồi, Vịnh xin ngân sách quốc phòng giao công ty HB xây dựng làm trung tâm thương mại quốc tế rồi cho thuê lấy tiền. Lại một lần nữa gia đình Vịnh thu được khoản tiền khổng lồ từ việc này. Quân khu 7 mất luôn nhà 51 Trương Quốc Dung và một số khu vực khác ở Biên Hòa, Vũng Tàu. Cục đối ngoại mất khu 45 đường Trường Chinh và nhà khách Liễu Giai, Tổng cục chính trị mất nhà khách 14A Lý Nam Ðế, nhà nghỉ Ðồ Sơn, Quân chủng phòng quân mất bãi pháo hồ Trúc Bạch, quân khu 5, quân khu 3 đều mất những khu vực quan trọng. Hà Nội mất hàng ngàn m2 trong triển lãm Giảng Võ, sàn nhẩy Queen Bee Láng Hạ. Ðáng chú ý là điểm ăn chơi đó rất lãi mà nhà nước không thu được bao nhiêu, biến thành những điểm tiêu cực của xã hội. Các vũ nữ đẹp đều được hiến cho Bắc (anh rể Vịnh) và G7. Sau đó còn có cô được lấy về làm giám đốc nhà khách 14A Lý Nam Ðế hiện nay. Không một ngày cống hiến cho cách mạng mà cô ta nghiễm nhiên có xe con mang biển số 80B (biển của Trung ương) phục vụ riêng, có quân hàm thiếu tá, nhà nghỉ của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị tại Ðồ Sơn, nhà khách TOSECO ở Vũng Tàu đều trở thành nhà chứa cho người thân của Vịnh đến lúc không có khách thì kinh doanh vì đó là TC2 thì có sai phạm gì đều lấy lý do nghiệp vụ để giải quyết. Các khu nhà đẹp đó, Vịnh và G7 đều xin được ngân sách quốc phòng cấp để cải tạo, xây mới và đều giao Hồng Bàng và HB xây dựng. như vậy, Vịnh và gia đình lại một lần nữa thu tiền qua xây dựng công trình và kinh doanh nghiệp vụ với các hình thức mở các tụ điểm chơi bời cho các quan chức nhà nước, tiền lãi cổ phần. Các phương tiện, nội thất trang bị rất hiện đại
c) Ðối với đất xin nhà ở cán bộ, Vịnh cấp cho cán bộ khá chu toàn nhưng những khu đẹp như đường Trường Sơn, đường Sư Vạn Hạnh đều chia cho những G7 đã có công như ông Nhu (thư ký ông Khuê) ông Bắc (thư ký ông Luyện, anh rể), ông Kháng ở Văn phòng Bộ Quốc phòng... Ở đây Vịnh không thu tiền nhưng dùng chính sách thưởng cho G7 để làm mối ràng buộc để ép những việc khác đặc biệt là Kháng. Nhu và Hồ Sỹ Hậu đã trình Bộ trưởng ký cấp cho Vịnh tất cả trên 40 xe con xịn các loại để hoạt động đi lại và kinh doanh. Thực tế đội xe con chở khách của Vịnh đóng ở Thụy Khuê hoạt động rất mạnh.
Như vậy, xem từ các mục a, b, c nêu trên chỉ có ban kiểm tra đặc biệt của TW mới có thể kiểm kê được trong 10 năm qua Vịnh đã bày trò chiếm nhà đất được bao nhiêu chỗ. Hiệu quả cho nhà nước và nghiệp vụ, cho Ðảng được những gì?
II- Kiếm tiền qua những hợp đồng thương mại:
Với lý do TOSECO có chức năng thương mại nên từ khi có ngân sách đặc biệt, Vịnh đã ký nhiều hợp đồng mua máy bay, tàu thủy, phụ tùng cho phòng không, không quân, thiết giáp, đóng tàu trên 300 triệu đô-la với cơ chế G7 thao túng. Thủ trưởng Bộ buộc cho phép TOSECO được hưởng hai chữ “bí mật” nên không cần đấu thầu. Mỗi chuyến hàng chở từ Nga về đến sân bay, Vịnh đều cho xe bọc kín ra lấy hàng và đi cửa sau, không qua bất kỳ một cửa kiểm soát nào. Với số tiền này, chúng khôn khéo bỏ túi tất cả các cấp lãnh đạo và bịt kín tất cả những chuyện chúng làm hại quốc phòng và gây thiệt hại nhiều trăm triệu đô-la của nhà nước như thế nào.
Không có hợp đồng thẩm định các hợp đồng cho nên mua thì rất đắt (người môi giới ở SNG đều là chân tay của Vịnh), chất lượng kém. Ví dụ như mua SU27 thì báo công với Bộ là rẻ hơn Trung Quốc mua, nhưng thực tế lừa Bộ ở chỗ phía Trung Quốc mua là mua SU27 đánh biển, giá TOSECO mua là SU27 đánh không. Tai hại hơn khi diễn tập ở biển đưa loại SU27 này ra biểu diễn thì mới rơi ngay xuống biển gây mất của, chết người. Một thí dụ khác là mua tàu, thiết bị vật tư đóng tàu, thiết bị sửa chữa máy tàu đều mua đắt, thiết bị cũ mà không phải chịu trách nhiệm trước cảnh sau gần 10 năm mà tàu chiến vẫn chưa ra tàu, nhà máy vẫn chưa ra nhà máy. Trung ương cứ đến nhà máy X50, X51 Ba Son của Hải quân Tổng cục kỹ thuật, Tổng cục công nghiệp quốc phòng và kinh tế, các quân binh chủng để tìm hiểu về vấn đề này thì rõ. Ðặc biệt dây chuyền X50, tư lệnh hải quân Mai Xuân Vinh kiên quyết không cho nghiệm thu, nhưng sau nhiều lần Vịnh dùng Bộ ép nên vẫn phải nghiệm thu.
Như vậy, Vịnh và cộng sự đã kiếm được hàng chục triệu đô là tiền môi giới, hoa hồng lại quả (qua cộng sự), tiền chi phí vênh khi thực hiện hợp đồng theo cơ chế nghiệp vụ mà không ai sờ đến.
Sau khi cơ chế của Bộ chặt hơn thì Vịnh chuyển ngay ra kiếm tiền “Chinh tắc” hơn là việc thành lập hệ thống tình báo công nghệ: Cục tình báo công nghệ, Trung tâm B5, Công ty SECOTEX (với danh nghĩa của Tổng cục công nghiệp quốc phòng và kinh tế), Công ty HITACO (với danh nghĩa là Tổng cục kỹ thuật) và xin được hàng ngàn m2 đất và đang xúc tiến xây dựng dự án xin nhà nước đầu tư khu công nghệ cao thông qua Vụ Khoa giáo Văn phòng chính phủ (theo sự chỉ đạo trực tiếp của Ðoàn Mạnh Giao). Các Công ty trung tâm nói trên đều được nhà nước bao cấp toàn bộ, nhưng hầu như giành tư cách ký kết các hợp đồng nhập ngoại để đầu tư cho khối bảo đảm kỹ thuật và công nghiệp quốc phòng.
Ngoài các Công ty nói trên, Vịnh đã chỉ đạo bố vợ là Vũ Chính cho phép mỗi Cục trong TC 2 thành lập ít nhất một Công ty bình phong làm công việc dân sự để lấy người, phương tiện của quân đội kinh doanh thương mại, tập hợp một số thành phần lao động xuất khẩu ở nước ngoài để làm đại diện cho Vịnh, hoặc thành lập Công ty bình phong ở nước ngoài lấy ngân sách nhà nước trang bị cho quốc phòng nhằm phục vụ tìm kiếm đối tác phục vụ cho những hợp đồng thương mại nói trên. Thử hỏi trong 6 năm qua ngân sách Nhà nước đã chi cho chương trình tình báo công nghệ hàng trăm tỷ đồng nhưng chưa thu lại kết quả gì về công nghệ cho quân đội để áp dụng vào sửa chữa và sản xuất trang bị. Người đứng đầu ngành tình báo công nghệ hiện nay là Hùng, một cộng sự tin cẩn nhất của Vịnh từ lúc còn cùng ở Công ty TOSECO. Ở TC 2 hiện nay có hai người giàu nhất, triệu phú đô-la, là Vịnh và Hùng, nhờ kiếm được nhiều tiền trên những hợp đồng mua sắm của Bộ Quốc phòng.
III- Bỏ túi cán bộ của Ðảng và quân đội như thế nào?
Ngay khi thành lập TOSECO, người được Vịnh cử làm Phó Giám đốc thường trực phía Bắc là Tấn (em của Ðặng Kháng - Trưởng phòng tổng hợp của Văn phòng Bộ Quốc phòng, Kháng là một trong những nhân vật trụ cột của G7) thuê có văn phát triển cho Công ty là Bắc (anh vợ Vịnh -thư ký ông Ðào Ðình Luyện) với mức lương 500 USD/tháng dưới danh nghĩa thuê 1 phòng nhà ở của Bắc làm đại diện, cử cháu ông Ðào Ðình Luyện là Ðào Quang Dũng làm Tổng đại diện ở Moscow cặp bồ với Thị Phương (vợ của một cán bộ cao cấp của TC2) tại Sanh Pê-tec-bua để làm hậu thuẫn dung nạp thêm các cộng sự đang là lao động xuất khẩu để kiếm hàng. Sau đó lần lượt đưa con ông cháu cha về Công ty như con của Văn Phác, Hà Thị Quế, Ðỗ Ðức, Cao Tiến Phiêm...
Sau khi có tiền, có phương tiện và tư cách đầy đủ về nghiệp vụ, Vịnh đã bỏ túi bằng gái, bằng tiền, bằng nhậu, bằng những đêm nhất dạ đế vương mà điển hình là các tướng lĩnh ở những vị trí quan trọng có thể giúp Vịnh được nhiều việc như Lê Khả Phiêu, Lê Văn Hân (Cục trưởng Cục cán bộ), Ðoàn Mạnh Giao (Văn phòng Chính phủ), Dương Ðàm (Cục trưởng Cục quân lực), Hoàng Dũng (Chánh văn phòng Bộ Tổng tham mưu), Nguyễn Hữu Cảng (Cục trưởng Cục Tài chính)... cộng với sự chiều chuộng vô biên cho hội G7 như Sáu Ngọc, Hồ Sỹ Hậu, Ðặng Kháng, Quang Trung, Việt Bắc, Nhu, Phùng Hưng và một số chuyên viên quan trọng khác. Chúng ta thử đánh dấu hỏi tại sao chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Khả Phiêu đã dễ dàng nhường cho các khu nhà khách quan trọng cho Vịnh kinh doanh? Tại sao lại đưa một cô ca ve về làm giám đốc nhà khách 14A Lý Nam Ðế, cho đeo lon thiếu tá và lại thân thiết Lê Khả Phiêu và Lê Văn Hân hơn mọi người bình thường khác.
Bằng mê hồn trận, tuyển con cháu họ hàng của những nhân vật quan trọng, dùng tiền, dùng gái, Vịnh đã bỏ túi được nhiều cán bộ cao cấp, đã thành công mỹ mãn về kinh tế và công danh chính trị. Vừa là triệu phú đô-la, vừa được mỗi năm thăng một cấp quân hàm. Mỗi năm lên mỗi chức vụ. Xây dựng được một hệ thống đàn em với các tụ điểm nhảy đầm, bia ôm, gái điếm “bình phong”, được các Công ty trong và ngoài nước cống nạp đều đặn. Tính ra Vịnh đã có 7 cơ ngơi riêng ở khắp đất nước đứng tên khác nhau với đơn giá xây dựng bình quân 4 triệu đồng/m2. Vợ của Vịnh ngày ngày tự lái xe con xịn đi làm, lúc nào cũng ăn mặc đeo kính đen trông như một minh tinh màn bạc cỡ thế giới mà bên Hồng Kông ai cũng biết và phải gờm. Khi Vịnh lên Tổng Cục phó đã mua ngay trên 2000 m2 đất Thụy Phương (phía nam cầu Thăng Long) để làm dinh thự. Trong khi đó có biết bao nhiêu chiến sĩ anh hùng hoạt động cống hiến suốt đời cho ngành tình báo dù có còn sống có công cũng chưa bao giờ được đặc cách đề bạt vượt cấp, vượt chức và có một cuộc sống để vươn như Vịnh.
Sau khi có chức có quyền Vịnh muốn thỏa mãn giấc mộng làm nguyên thủ quốc gia, ngoài việc tổ chức ghi âm quay phim khi chiêu đãi các Xếp, Vịnh nghĩ ra trò nghe trộm điện thoại của tất cả các quan chức quan trọng thuộc các tỉnh thành, quận đội từ trung ương để thực hiện thủ đoạn cao nhất của lưu mạnh chính trị. Khi Phạm Thanh Ngân và Lê Khả Phiêu đã bị Vịnh đút túi dễ dàng nghe theo và quyết định việc này, mọi công tác tổ chức thực hiện đều do Vịnh trực tiếp tiến hành. Nếu không sớm chấm dứt được việc này thì tương lai của các nguyên thủ quốc gia cũng bị bỏ túi, kết cục của Việt Nam là Ðảng, chính quyền đều bị Vịnh thao túng lũng đoạn thông qua hệ thống tình báo quân đội do Vịnh đứng đầu.
IV- Tại sao trong 10 năm Vịnh làm được nhiều chuyện lớn như vậy?
1- Nhờ bản chất lưu manh và nhiều thủ đoạn
2- Nhờ có G7 và khi G7 bị Bộ Quốc phòng phân hóa thì Vịnh đã tụ tập dàn xếp động viên G7 (kể cả anh rể Vịnh là Bắc bị rời khỏi Bộ Quốc phòng) là hãy biết chấp nhận và chơi bời. Nếu Vịnh can thiệp giúp đỡ thì cả thuyền sẽ bị chìm và chết tất cả. Vịnh hứa sẽ đảm đương việc khôi phục lại G7 mạnh hơn, ví dụ: thay cho tướng Hoàng Dũng thì phải biết xây dựng và sử dụng tướng Cao Tiến Phiêm thay Ðặng Kháng thì xây dựng Võ Mai Nhẫn... Kết quả là Phiêm đã vì triển vọng của một đứa con mà ra sức giúp Vịnh được nhiều việc hơn trước mà đặc biệt là thành công trong lĩnh vực ma-phia về chính trị. Khi Vịnh lên Tổng cục trưởng TC 2 thì đã bàn với Cao Tiến Phiêm đưa Trung, Kháng, trở về những vị trí quan trọng ở cơ quan Bộ Quốc phòng để vừa thể hiện ân nghĩa của mình với các đàn anh, vừa có những đệ tử trung thành trong chương trình lưu manh chính trị của Vịnh.
3- Nhờ có bố vợ là Tổng cục trưởng TC2 ở TC2. Hiện nay người ta đều có bình luận chung rằng: Không có Vũ Chính thì không có Chí Vịnh (Vịnh không có thể lên nhanh được như thế mà không có Chí Vịnh thì cũng không có Vũ Chính (vì Vũ Chính lên được Tổng cục trưởng một phần quan trọng nhờ vào sự dàn dựng vận động bằng tiền, bằng gái và lừa lọc của Chí Vịnh và G7)
4- Tất cả sự tham gia của Vịnh vào các chương trình mua sắm trang bị của Bộ Quốc phòng đều được coi là công của Vịnh nên cơ quan TC 2 cũng nghĩ Vịnh là người có công (mặc dù toàn bộ các công trình này đều không đạt chất lượng và giá lại cao gấp nhiều lần nếu mua chính thức). Ðây là một trò lừa đảo mang tính lưu manh chính trị, đồng thời củng cố vững chắc thêm chính sách gia đình của bố con Vũ Chính - Chí Vịnh tại TC 2.
5- Với vai trò vị trí của TC 2, Vịnh có điều kiện tiếp cận và đút túi các cán bộ cao cấp của quân đội và nhà nước.
6- Trong số con ông cháu cha và bạn bè thân hữu của Vịnh được tuyển vào TC 2 là không một ngày làm lính, không được học tập bản chất truyền thống của quân đội, được tuyển vào 93, 94, 95 và 96 này đều đã được đeo quân hàm thiếu tá, trung tá là phổ biến cá biệt có trường hợp là thượng tá. Làm như vậy, Vịnh vừa có công với gia đình họ đồng thời thiết chặt sự chân thành của những người đó với mình. Nếu không thao túng được Cục cán bộ và Tổng cục chính trị thì vẫn không thể giải quyết được:
Từ các vấn đề nêu trên, đề nghị Bộ Chính trị, Ban chấp hành TW:
1- Loại khỏi trên trùm lưu manh, tham nhũng, tội phạm Nguyễn Chí Vịnh ra khỏi Ðảng Cộng sản và quân đội Việt Nam.
2- Không cho phép tình báo quân đội (TC2) thành lập doanh nghiệp, không được kinh doanh nghiệp thương mại mà chỉ được cắm người vào các tổ chức hoặc các Công ty cần thiết.
3- Ðất nước Việt Nam có dân tộc anh hùng, có Ðảng vững mạnh, có đủ các ban an ninh, bảo vệ trong quốc phòng cũng như Bộ Nội vụ không cần có TC 2 mà trả về vị trí Cục 2 thuộc Bộ Tổng Tham mưu/Bộ Quốc phòng như giai đoạn trước đây chúng ta đã từng thắng Mỹ.
4- Sau đại hội, chấn chỉnh tổ chức quân đội cho vững mạnh, trước hết là chấn chỉnh TC 2 chọn người hiền tài cho đất nước.
Võ Ðồng Ðội
Chú thích:(1) G7 là nhóm các thư ký có quyền thế của Bộ, Thứ trưởng và Trưởng nhóm các đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng.
...................................................................
Nguyễn Chí Vịnh: mầm mống một đại hoạ
Những ai theo dõi sát nội tình chính trị Việt Nam những năm gần đây hẳn không có gì xa lạ với cái tên Nguyễn Chí Vịnh, con trai đại tướng Nguyễn Chí Thanh, con nuôi đại tướng Lê Đức Anh, con rể tướng Đặng Vũ Chính, Tổng cục Trưởng Tổng cục Tình báo quốc phòng (TC2) siêu quyền lực (từ 2002 đến tháng 8/2009) và hiện là Trung tướng Thứ Trưởng quốc phòng (từ tháng 2/2009) quyền lấn át đại tướng Phùng Quang Thanh.
Nói “quyền lấn át đại tướng Phùng Quang Thanh” là kể từ khi ông Vịnh chủ trì cuộc họp báo công bố Sách trắng Quốc phòng Việt Nam lần thứ ba hồi tháng 12/2009, và sau đó, chủ toạ một cuộc họp báo công bố chính sách đối ngoại quốc phòng của Việt Nam đầu tháng 2/2010. Đầu tháng 3/2010, trung tướng Vịnh lại cầm đầu phái đoàn bộ Quốc phòng gặp gỡ trao đổi với Bộ trưởng quốc phòng Lương Quang Liệt nhân dịp kỷ niệm 60 năm quan hệ song phương. Trong khi phía Việt Nam hầu như không đề cập thì Tân Hoa Xã và báo chí Trung Quốc lại làm rùm beng. Theo Tân Hoa Xã, Trung tướng Vịnh nói: Việt Nam hy vọng sẽ thu gặt nhiều lợi ích từ quan hệ hữu nghị và hiệu quả giữa hai quân đội, vì an ninh khu vực. Trong hoàn cảnh của Việt Nam, khi mà mối nguy thật sự chỉ phát xuất từ Trung Quốc và tranh chấp Biển Đông, người ta có thể hiểu rằng chiến lược quốc phòng của Việt Nam đã mất tính chất độc lập tự chủ như vẫn rêu rao, và hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc với tất cả những hệ quả tai hại của nó. Ngoài ra, với tư cách Thứ trưởng đặc trách tình báo quốc phòng bao trùm TC2 (với Trung tướng Tổng cục trưởng Lưu Đức Huy vốn là tay chân), ông Vịnh có thể cho phía Trung Quốc biết rõ nội tình các nhân vật hiện đang tranh chức Tổng bí thư và chờ phía Trung Quốc cho ý kiến. Đó đã từng là công tác của ông cách đây 5 năm (cuối 2005) trong chuyến đi bí mật sang Bắc Kinh trước khi đại hội 10 nhóm họp năm 2006.
Một chỉ dấu về khả năng can thiệp này (qua TC2 và Nguyễn Chí Vịnh) là trường hợp ông Nguyễn Tấn Dũng có thể đã phải chịu sức ép để rút khỏi cuộc đua chứcTổng bí thư. Cách đây không lâu, ông Dũng đã được dự đoán sẽ được bầu làm Tổng bí thư qua một số biện pháp trình diễn trên thông tấn nhà nước. Ông Dũng còn tuyên bố lấy lòng phe tham nhũng đương quyền “Trong 7 năm làm thủ tướng, tôi chưa từng kỷ luật ai !”. Đây là một câu nói “lịch sử” của một thủ tướng “quyết tâm” chống tham nhũng, phù hợp với bản chất tham tiền cố hữu của ông. Chuyện ông Dũng nhận phong bì 5, 10 triệu đồng một cách thoải mái là điều ít ai không biết. Kể cả chuyện nhận 150 triệu đô của Trung Quốc về việc khai thác bô-xít.. Tuy nhiên, việc mất điểm gần đây của ông Dũng (với Trung Quốc) liên quan đến câu trả lời có vẻ mạnh miệng của ông với một giáo sư Harvard đến phỏng vấn về mối quan hệ Hoa-Việt: “Thời đại nước lớn bắt nạt nước bé đã lỗi thời!”. Báo điện tử VietnamNet đã phải cắt đoạn này chỉ it phút sau khi đăng. Chưa kể việc yêu cầu “báo chí cần chủ động thông tin bảo vệ chủ quyền”. Nhân dịp khai mạc Hội nghị Uỷ ban Trung ương đảng lần thứ 12 để bàn về nhân sự và các văn kiện, giới thạo tin trong đó có giáo sư Carlyle Thayer đã đề cập đến 5 uỷ viên Bộ Chính trị trong tầm ngắm chức Tổng bí thư (không có tên ông Dũng) mà nổi bật làTrương Tấn Sang (nhân vật mới lên số 2 Bộ chính trị) và chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, một người có hỗn danh là “Trọng lú”, rất thân cận với Bắc Kinh.
Nguyễn Chí Vịnh là thứ trưởng Quốc phòng duy nhất không có chân trong Uỷ ban Trung ương đảng. Về cấp bậc cũng thua tất cả các thứ trưởng khác (Thượng tướng) và hiện đang được chuẩn bị để được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương khoá 11 cùng nắm giữ những chức vụ quan trọng.
Trong thực tế, Nguyễn Chí Vịnh hiện nay là nhân vật quyền uy nhất trong bóng tối của đảng cộng sản Việt Nam chủ yếu vì đã “bỏ túi” và nắm trong tay toàn bộ hồ sơ với những tì vết của các uỷ viên Bộ chính trị. Nhân vật quyền uy nhất đó lại là tay sai của cộng sản Trung Quốc. Đó là một khẳng định tuyệt đối.
Người ta không quên Báo cáo của Bộ Quốc phòng tại Hội nghị Quân uỷ Trung ương mở rộng ngày 24 tháng 8 năm 2004 do Nguyễn Chí Vịnh soạn thảo: “Cơ quan tình báo Hoa hải ngoại nhận định: Việt Nam không nên sốt sắng gia nhập WTO vì, nếu Việt Nam xem việc gia nhập WTO là một mục tiêu ưu tiên, đồng nghĩa với sự “đổi màu” của xu hướng chính trị ngày một gia tăng, do những điều kiện gia nhập WTO đưa ra về mặt cải cách”. Chúng ta đã biết hậu quả của chính sách lệ thuộc này như thế nào. Cũng không nên quên về chiến dịch bắt bớ những nhân vật đấu tranh cho dân chủ gần đây như Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức… có bàn tay của TC2 và Cục Tình báo Hoa Nam.
Nguyễn Chí Vịnh và vương triều Vũ Chính
Nguyễn Chí Vịnh đã được biết đến nhiều kể từ khi thành tích lưu manh (bị đuổi học Đại học kỹ thuật quân sự năm 1977 vì ăn cắp quân trang nhà kho) và bước đường làm ăn lem nhem (chiếm đoạt bất động sản, hợp đồng thương mại quân sự bi-đông và các công ty thương mại bình phong…), thủ đoạn mua chuộc, khống chế (kể cả Lê Khả Phiêu) và chỗ dựa vững chắc (nhóm G7, bố vợ, bố nuôi…), tất cả được phơi bày qua bài viết của Võ Đồng Đội và phổ biến tràn lan trên mạng qua điện thư số 41 (tháng 3/2005) của Câu lạc bộ Dân chủ (1). Điện thư số 43 của CLBDC còn đưa ra nhận xét từ một thầy giáo trực tiếp của Nguyễn Chí Vịnh: “Học sinh Vịnh học lực yếu, ý thức tổ chức xấu, tính tự do vô kỷ luật, lại hay cầm đầu các vi phạm, tư cách riêng khác là rất thích giao du với con gái, và hay thông qua sinh hoạt ca hát, ăn uống để tiếp cận họ là một gánh nặng thêm cho nhiệm vụ đào tạo và rèn luyện của nhà trường, đặc biệt của khoa quân sự”.
Chân dung của Nguyễn Chí Vịnh còn được mô tả đầy đủ hơn trong loạt bài về “Vương triều Vũ Chính” phổ biến tràn lan trên mạng. Vương triều này khởi đầu từ 1995 khi Cục 2 (Cục quân báo) được nâng lên thành Tổng cục tình báo quân đội (TC2) ngang hàng với Bộ Tổng Tham mưu, trực thuộc Bộ Quốc phòng . Vì được sự nâng đỡ của tướng Lê Đức Anh vốn là thượng cấp cũ tại Quân khu 9 và Campuchia, tướng Tổng cục trưởng Đặng Vũ Chính lên thay tướng Như Văn về hưu đã lợi dụng đặc quyền của Tổng cục để đưa hai con (Đặng Vũ Dũng, Đặng Thị Tuyết), vợ Nguyễn Thị Nhẫn và nhất là con rể Nguyễn Chí Vịnh thao túng, lũng đoạn, biến TC2 thành một vương triều phục vụ cho mưu đồ tư lợi và nối dõi của mình . Kể từ khi làm rể ông Chính, Nguyễn Chí Vịnh thăng cấp đều đều trước niên hạn mặc dù không thành tích hay thành tích ảo, về chức vụ cũng vậy. Nguyễn Chí Vịnh cũng lợi dụng đưa thủ túc lưu manh như Phạm Ngọc Hùng (Hùng Tút), cùng bị đuổi học Đại học Kỹ thuật quân sự vì trộm cắp như Nguyễn Chí Vịnh lên địa vị Phó Tổng Cục trưởng (ngoại giao) hiện nay. Quan trọng hơn cả, qua những trò làm ăn bất chính tham ô trong TC2, Nguyễn Chí Vịnh có một tài sản kếch sù cả nổi lẫn chìm được ước lượng nhiều trăm triệu đô, một tài liệu còn đưa ra con số 1,2 tỷ đô.
Ông Vũ Chính từng nói với người quen: “Cháu nó là con cán bộ cao cấp, phải nâng đỡ cháu… Tôi sẽ đưa cháu làm tổng cục trưởng, đại hội IX đưa cháu vào BCH TW, đến giữa nhiệm kỳ vào Bộ Chính trị, phải để cho cháu nên tướng”.
Mưu đồ này của ông Chính bị trục trặc tai đại hội IX do Đại hội đảng TC2 không tín nhiệm, vì lúc đó ông chưa gài được nhiều tay chân bộ hạ. Vả lại, lúc đó (2001) đang xảy ra vụ tai tiếng A10 doTC2 cài để nghe lén các uỷ viên BCT. Lê Khả Phiêu đã bị mất chức giữa nhiệm kỳ do cố vấn thái thượng hoàng Lê Đức Anh tung ra nội vụ. Đến thời kỷ trước Đại hội 10, thì nổi lên “Vụ án TC2” nổ tung trên mạng và trong dư luận khiến Nguyễn Chí Vịnh đành phải tạm thời “nín thở qua sông” tuy vẫn tiếp tục thăng tiến lên Trung tướng.
Vụ án TC2 và chân dung một tội phạm đích thực
Cái được coi là Vụ án Tổng Cục 2 bắt nguồn chủ yếu từ lá thư của tướng Giáp ngày 3/1/2004 tố cáo vai trò siêu quyền lực của cơ quan này đã đẻ ra vụ án siêu nghiêm trọng Sáu Sứ và T4. TC2, như đã nói, được tướng Lê Đức Anh cho phép thành lập năm 1995 từ Cục 2 (Quân báo) nhưng đã được nâng lên thành Tổng cục Tình báo quốc phòng ngang hàng Bộ Tổng tham mưu và trực thuộc Bộ quốc phòng. Tuy nhiên, với Pháp lệnh quốc phòng (tháng 12/96) do chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ban hành và Nghị định 96/CP (tháng 7/97) do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký (ông Kiệt nói là phải mất 6 tháng mới buông bút ký), TC2 đã trở thành một siêu quyền lực vượt qua Bộ quốc phòng. Bởi vì TC2 tuy thuộc Bộ quốc phòng nhưng quyền hạn bao trùm mọi lãnh vực như như chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, kỹ nghệ và môi trường, văn hóa xã hội. Đối tượng tin tức và nhất là quyền hạn của TC2 khiến cơ quan này không những vượt qua Tổng cục an ninh của Bộ Công an mà còn đi xa hơn. TC2 có quyền cài cắm nhân viên ở mọi cơ quan, quyền sử dụng con dấu của mọi cơ quan, quyền chi tiêu vượt mức (ngân sách lớn bằng nửa Bộ quốc phòng), quyền trực tiếp báo cáo Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, Thủ tướng, quyền được thăng cấp đến trung tá…
Thực tế, TC2 đã lợi dụng ngụy tạo tài liệu và trở thành cơ quan phục vụ quyền lợi mưu đồ cá nhân của Lê Đức Anh trong tranh chấp nội bộ đảng thay vì nhắm vào các đối tượng cơ hữu của mình. Những vụ như Lý Tống thả truyền đơn trong khi người của TC2 bán bầu trời, rồi để xảy ra vụ Tây Nguyên nổi loạn, Thái Bình nổi sóng, Năm Cam vùng vẫy, chẳng thấy TC2 báo động. Từ đó, những vụ án Sáu Sứ, T4, báo cáo mật của Quân uỷ mở rộng do Nguyễn Chí Vịnh soạn thảo đã được thực hiện.
Lá thư của tướng Giáp đã được sự đồng tình của rất nhiều tướng lĩnh tên tuổi, mà nổi bật là Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh với 4 lá thư (2), trong đó lá thư ngày 17/06/2004 là đặc biệt quan trọng. Tướng Khánh đã trình bầy rõ vụ Siêm Riệp (1983), Sáu Sứ (1991) của Cục 2 và chủ yếu nhấn mạnh vụ T4 do Đặng Vũ Chính (Tổng cục trưởng TC2) và Nguyễn Chí Vịnh (Tổng cục phó) dàn dựng. Vụ T4 đã được mô tả là do TC2 bịa ra một đặc tình giả tưởng đã cài cắm vào CIA và đưa tin những tin tức ngụy tạo liên quan việc liên lạc, chỉ đạo của CIA trong mưu đồ đảo chính của hàng chục nhân vật quan trọng trong đó có: Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Lê Khả Phiêu, Trương Tấn Sang, Trương Vĩnh Trọng, Phạm Gia Khiêm, Phan Diễn, Nguyễn Khánh Toàn, Lê Văn Dũng, Võ Thị Thắng…
Để có một ý niệm về tính chất nghiêm trọng của nội vụ, chúng ta thử đọc qua một số bản tin nêu trong lá thư ngày 17/6/2004 liên quan đến ông Trương Tấn Sang, nhân vật số 2 Bộ chính trị hiện nay:
“Nhóm Trương Tấn Sang đang có kế hoạch tác động, móc nối lôi kéo để liên kết ông Ngô Xuân Lộc, Nguyễn Khánh Toàn và một số tướng lĩnh Quân đội và Công an, giao chúng nắm giữ các vị trí quan trọng trong Chính phủ Việt Nam từ địa phương đến Trung ương.
(Bản tin số 497 ngày 24/3/99).
“Các chuyên gia CIA nhận định một cuộc đảo chính có thể xảy ra vào tháng 7, tháng 8/1999 ở Việt Nam. Vai trò chủ chốt là Trương Tấn Sang và Trần Văn Tạo.
“Tư Sang, Tư Tạo tập trung thu phục phái tù Côn Đảo ở Thành phố Hồ Chí Minh. Phái này có khả năng trở thành phe phái hợp pháp đối lập trong Đảng Cộng sản, lấy địa bàn Sài Gòn làm căn cứ”.
“Đã có sự liên kết mới giữa Ngô Xuân Lộc, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Khánh Toàn, Đoàn Mạnh Giao, Lê Vân Dũng, Phan Trung Kiên, Nguyễn Văn Rop. Việc đảo chính của phe nhóm này sẽ tập trung vào kỳ họp 2 Quốc hội”.
(Bản tin ngày 2/8/1999)
“Tối 06/1/99 có một cuộc họp do Tư Sang tổ chức, tham dự có Võ Trần Chí, ông Đặng (giám đốc sở công nghiệp). Ba Ngộ và một nhân vật bí hiểm… Nội dung cuộc họp: Bàn mọi cách bảo vệ vị trí Bí thư thành uỷ cho ông Sang, bằng mọi cách lôi kéo vây cánh để cô lập ông Lê Khả Phiêu và tiến tới thay ông Lê Khả Phiêu bằng một hội nghị bất thường vì ông Phiêu không ủng hộ Thành uỷ và ông Tư Sang.
“Có một sự mưu tính từ một số phe phái chính trị. Trong Đảng Việt Nam đang mưu tính một cuộc cải cách chính trị, đảo chính chính trị. Có những kế hoạch tuyệt mật trên cơ sỏ báo cáo của Quốc nội do CIA gửi Văn phòng An ninh, Tổng thống. Phe phái chính trị này dự tính sẽ lôi kéo cả ông Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải đứng về phía họ …Lúc bấy giờ Phan Văn Khải và Lê Khả Phiêu cũng phải theo họ vì không còn con đường nào khác. CIA đã chỉ đạo sẽ thực hiện kế hoạch. (Bản tin số 223 ngày 19/1/98)”
Dàn dựng kịch bản của TC2 như trên thì thật vô tiền khoáng hậu trong lịch sử tình báo. Dàn dựng như thế phục vụ mưu đồ của ai? Không ai khác hơn là mưu đồ “lật án”, đảo chính của Lê Đức Anh với sự đồng tình của Trung Quốc.
Đây là một vụ án chính trị cự kỳ nghiêm trọng có liên quan đến toàn bộ cấp lãnh đạo cộng sản. Tướng Khánh đề nghị Bộ chính trị và Ban chấp hành TW nếu không muốn bao che thì phải đưa vấn đề ra giải quyết trước pháp luật về tội phá hoại đảng, chế độ và tổ quốc những người lãnh đạo TC2: Đặng Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh. Chưa kể cần làm rõ những kẻ đứng sau. Nguyễn Chí Vịnh chính là một tội phạm. Tướng Khánh cũng đề nghị Bộ chính trị, Quốc hội phải sửa đổi hoàn toàn hay huỷ bỏ Pháp lệnh tình báo và Nghị định 96/CP.
Trong buổi họp ngày 15/7/2004 giữa tướng Khánh và ông Phan Diễn, bí thư thường vụ, ông Diễn đã đồng ý về đề nghị sửa đổi Pháp lệnh và Nghị định 96/CP nhưng chỉ muốn xử lý nội bộ Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh. Sau phiên họp này, tướng Giáp quyết tâm đưa vấn đề ra trước Ban chấp hành TW. Hội nghị Trung ương 12 đành phải cho thành lập Ban điều tra liên ngành về vụ T4 và hàng chục vụ khác liên quan đến vu khống nội bộ. Nhưng sau đó Nông Đức Mạnh và Bộ chính trị đã giấu không cho đem ra thảo luận báo cáo 70 trang này trước khi đại hội đảng lần thứ 10 nhóm họp. Vụ án TC2 được coi như chìm xuồng vì sự ổn định của chế độ. Nhưng những tồn tại và hệ quả của nó liên quan đến Nguyễn Chí Vịnh và TC2 vẫn tiếp tục.
Từ bài viết “TC2: Vì ai nên nỗi?” đến quyết định kỷ luật Trung tá Vũ Minh Trí
Sau Đại hội 10, trước sự tiếp tục thao túng TC2 của Nguyễn Chí Vịnh và sự đồng loã- hay nói đúng ra là lo sợ- của Bộ chính trị, một làn sóng công phẫn lại nổi lên trong quân đội. Được nói nhiều và lan truyền trên mạng là hai lá thư “Thất trảm sớ” của Trung tá Vũ Minh Ngọc và nhất là lá thư ngày 16/12/2008 “TC2:Vì ai nên nỗi?” của Trung tá Vũ Minh Trí (3), một người đang làm việc tại Cục kỹ thuật TC2.
Lá thư tâm huyết 13.000 chữ của Trung tá Vũ Minh Trí là nỗi lòng của một người có tư cách, ở trong TC2 hơn 10 năm không thể làm ngơ trước những thao túng, tham ô, phe đảng, lừa gạt và bỏ túi cấp trên của Nguyễn Chí Vịnh và đồng bọn. Từ “mầm kết tinh” Nguyễn Chí Vịnh, những mạng lưới của cái xấu đã hình thành và lan rộng, những cán bộ tốt bị vô hiệu hoá, nhuộm đen, những thành phần lưu manh, vô học đã được thăng cấp vượt mức. Trong sinh hoạt, đã hình thành việc ngu hoá cán bộ một cách có hệ thống. Và với cuồng vọng nguy hiểm của Nguyễn Chí Vịnh đã đưa tới những hệ quả nghiêm trọng, đặc biệt là việc thiết lập một mạng lưới lấy “tin tức nội bộ” liên quan đến các nhân vật cao cấp, hoàn toàn ngoài chức năng của TC2.
Lá thư đã nêu những chi tiết xác minh và kết luận về TC2: “Nay đang ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn diện, đang bị chuyển hóa thành khối u ác trong lòng quân đội, trong lòng Đảng, ít nhiều phát tác tới bộ óc của quân đội, của Đảng thì rõ ràng tình báo chiến lược về quân sự cần được mau chóng quét sạch, cắt bỏ, diệt trừ tận gốc những mạng lưới xấu xa, cần được mau chóng thay máu triệt để để trước hết là trong sạch về chính trị, sau đó là khỏe mạnh về nghiệp vụ chứ không phải thay màu da trên xác chết, duy trì một Tổng cục II của Nguyễn Chí Vịnh mà không có Nguyễn Chí Vịnh”. Đó là điều đã xảy ra.
Lá thư của trung tá Vũ Minh Trí đã được sự đồng tình ủng hộ của tướng Võ Nguyên Giáp. Trong lá thư ngày 10/6/2009 gửi Bộ Chính trị và Ban Bí thư, tướng Giáp đã ca ngợi tinh thần dũng cảm của Trung tá Trí khi tố cáo Nguyễn Chí Vịnh đã “phá hoại TC2 toàn diện”. Ông cho rằng sự tố cáo minh danh nói trên là phù hợp với điều lệ đảng và pháp luật Nhà nước nên cần được Uỷ ban Kiểm tra trung ương xem xét kiểm tra. Lá thư của tướng Giáp có nêu chi tiết: “Nguyễn Chí Vịnh trước có những khuyết điểm, đồng chí Nông Đức Mạnh nói với tôi là không thể lên trung tướng và không biết đưa đi đâu để rèn luyện, nhưng thực tế lại không làm như vậy mà tiếp tục thăng quân hàm và giao trọng trách Tổng cục trưởng và hiện nay vừa đề bạt là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm cho ai cũng ngạc nhiên, lo lắng, và nếu không làm rõ thì sẽ còn lên nữa”. Ở đây, chính thắc mắc của tướng Giáp về Nông Đức Mạnh cho thấy ông ta đã nằm trong vòng kim cô của Nguyễn Chí Vịnh từ lâu.
Những tố cáo của Trung tá Vũ Minh Trí với sự ủng hộ của tướng Giáp đã không làm cho tập đoàn Nguyễn Chí Vịnh nao núng. Và chuyện phải đến đã đến như chính Trung tá Trí dự phòng. Ngày 10/02/2010, Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định tước quân hàm sĩ quan đối với Trung tá Vũ Minh Trí, Đảng uỷ TC2 cũng quyết định khai trừ ra khỏi đảng cộng sản đối với ông (4). Lý do nêu lên hoàn toàn chỉ có tính cách hình thức, che đậy: tố cáo sai (không xác định), gửi đơn đến các nơi không có chức năng giải quyết (không đúng, vì ông đã gửi 5 lá đơn tới Đảng uỷ quân sự trung ương,thủ trưởng bộ Quốc Phòng thậm chí với cả Uỷ ban kiểm tra trung ương) và tiết lộ bí mật Đảng (ngoài ý muốn).
Trong phát biểu sau khi nhận kỷ luật, Trung tá Trí xác định: Vì lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước chưa có kết luận và trả lời về các kiến nghị và bài viết “Tổng cục 2: Vì ai nên nỗi ?”, ông coi các quyết định kỷ luật nêu trên là vô giá trị, bất hợp pháp. Ông xác định sẽ tiếp tục đấu tranh. Ông cũng tin rằng “những kẻ đã nhen nhóm ngọn lửa độc hại với nhân dân, đối với đất nước, đã đổ thêm dầu hôi vào ngọn lửa ấy sẽ sớm bị chính ngọn lửa ấy thiêu huỷ, sẽ sớm bị nhân dân và đất nước đào thải”.
Vụ án Nguyễn Chí Vịnh và TC2 chưa kết thúc.
Đến đây, chúng ta có thể đưa ra một nhận định chung cục.
Chính vì vai trò siêu quyền lực nhưng lệ thuộc vào Trung Quốc của một tên lưu manh, gian ác như Nguyễn Chí Vịnh và TC2, đảng cộng sản Việt Nam đang mau chóng đi vào con đường tự huỷ diệt. Một mặt, nó cho thấy toàn bộ giới lãnh đạo hiện nay cũng như bất cứ nhân vật nào nắm giữ chức Tổng bí thư sau đai hội XI cũng chỉ là những con rối mờ nhạt, không bản lãnh, không có ao ước khác hơn là chia chác để sống còn. Những con rối đó không thể đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến quyền lợi và sự sống còn của đất nước trong hoàn cảnh khó khăn về mọi mặt hiện nay, đặc biệt là mức lạm phát tăng rất cao. Ông Đỗ Mười, một nhân vật vẫn còn ảnh hưởng trong giới lãnh đạo cộng sản, đã tỏ ra ngao ngán về tương lai của đảng trongmột phát biểu tâm sự với người thân: “Chỉ có một nhân vật kiệt xuất mới cứu được đảng mà thôi. Nếu không nó sẽ sụp đổ không lâu nữa”.
Về một mặt khác, trong trường hợp có biến động với Trung Quốc ở Biển Đông, Nguyễn Chí Vịnh và TC2 sẽ là «con ngựa Thành Troie”. Và đó chính là đại hoạ của đất nước.
Rennes 02/04/2010
Tiến Hồng
(1) Võ Đồng Đội, “Chân dung một tội phạm: Nguyễn Chí Vịnh”. Thông Luận, 30/08/2007.
(2) Nguyễn Nam Khánh, “Bốn lá thư về vấn đề Tổng cục 2 và Lê Đức Anh”. Thông Luận, 08/02/2005.
(3) Vũ Minh Trí, “Tổng Cục 2: Vì ai nên nỗi?”. Thông Luận, 02/08/2009.
(4) Hồ sơ CSVN: Kỷ luật Trung tá Vũ Minh Trí:
Phụ đính: Trích lục một số thông tin từ Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ:
Điều 11, chương 2 của sắc luật này ghi rõ: “Mục tiêu của những lực lượng tình báo quốc phòng là thu thập tin tức và tài liệu liên quan đến Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Phải đặc biệt chú trọng đến những quốc gia, những tổ chức hay cá nhân trong nước cũng như ngoài nước đang âm mưu hay tham gia vào những hoạt động nhằm chống lại đảng cộng sản hay nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”.
Tổng cục C2 chỉ chịu trách nhiệm với bộ trưởng quốc phòng, bộ Chính Trị và chủ tịch nước. Vì quyền hạn quá rộng lớn, bao gồm đủ mọi phạm vi, lại được quyền cho người đến nằm vùng tại các cơ quan, tổng cục này sau đó đã gây ra rất nhiều lạm dụng. Chủ nhiệm tổng cục 2 lúc đó là Đặng Vũ Chính, một người thân cận của Lê Đức Anh khi còn ở quân khu IX và Campuchia. Vũ Chính lên thay Như Văn từ năm 1995.
Sau khi nhậm chức, Đặng Vũ Chính thay hết cán bộ cũ bằng người thân tín. Con trai là Đặng Vũ Dũng đi lao động từ Đông Đức về được cho làm giám đốc công ty xây dựng Hồng Bàng của tổng cục, hai con gái là Đặng Thị Mai, Đặng Thị Ngọc được mang quân hàm đại úy với công tác “cán bộ mật”, vợ là Đặng Thị Nhẫn bắt ép vợ của Như Văn nhường lại chức giám đốc khách sạn Hoàng Đế, và vợ của Trần Tiến Cung (tổng cục phó) cũng phải nhường lại chức giám đốc chi nhánh miền Trung của công ty du lịch Deti Tour.
Năm 2000, Vũ Chính về hưu, nhường chức cho con rể là Nguyễn Chí Vịnh, con trai của Nguyễn Chí Thanh, đồng thời, con trai của Vũ Chính là Đặng Vũ Dũng cũng trở về tổng cục 2 và được cử làm cục phó cục 12, hoạt động tình báo trong khu vực miền Nam.
Ba tháng sau ngày Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh từ chức, đến lượt Đỗ Mười phải nhường chức tổng bí thư cho Lê Khả Phiêu, người đang nắm chức chủ nhiệm tổng cục chính trị của quân đội.
Có tin là dịp hội nghị trung ương đảng họp cuối tháng 12-1997, Lê Đức Anh vẫn mưu toan đưa Lê Khả Phiêu lên chủ tịch Nhà Nước để tự mình nắm chức tổng bí thư nhưng thất bại vì chính Đỗ Mười không muốn từ chức. Nhờ được Đỗ Mười đỡ đầu, Lê Khả Phiêu thắng được một đối thủ mạnh mẽ là Nguyễn Văn An, đang giữ chức trưởng ban tổ chức đảng.
Tin về đồng chí Trương Tấn Sang:
“CIA có nguồn tin từ quốc nội cho hay Bộ Chính trị sẽ loại trừ Trương Tấn Sang sau khi ông ta tổ chức thành công lễ kỷ niệm Sài Gòn 300 năm theo chủ nghĩa dân tộc. Hồ sơ của Tư Sang đã được CIA chuẩn bị cho một vị trí lãnh đạo của phe đối lập trong trường hợp ông ta ra khỏi Bộ Chính trị … CIA hy vọng về sự thành công của Tư Sang trong vai trò lãnh đạo phe đối lập… (Bản tin ngày 25/12/98)
“Nhóm Trương Tấn Sang đang có kế hoạch tác động, móc nối lôi kéo để liên kết ông Ngô Xuân Lộc, Nguyễn Khánh Toàn và một số tướng lĩnh Quân đội và Công an, giao chúng nắm giữ các vị trí quan trọng trong Chính phủ Việt Nam từ địa phương đến Trung ương. (Bản tin số 497 ngày 24/3/99)
“Các chuyên gia CIA nhận định một cuộc đảo chính có thể xảy ra vào tháng 7, tháng 8/1999 ở Việt Nam. Vai trò chủ chốt là Trương Tấn Sang và Trần Văn Tạo.
“Tư Sang, Tư Tạo tập trung thu phục phái tù Côn Đảo ở Thành phố Hồ Chí Minh. Phái này có khả năng trở thành phe phái hợp pháp đối lập trong Đảng Cộng sản, lấy địa bàn Sài Gòn làm căn cứ”.
“Đã có sự liên kết mới giữa Ngô Xuân Lộc, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Khánh Toàn, Đoàn Mạnh Giao, Lê Vân Dũng, Phan Trung Kiên, Nguyễn Văn Rop. Việc đảo chính của phe nhóm này sẽ tập trung vào kỳ họp 2 Quốc hội”. (Bản tin ngày 2/8/1999)
“Tối 06/1/99 có một cuộc họp do Tư Sang tổ chức, tham dự có Võ Trần Chí, ông Đặng (giám đốc sở công nghiệp). Ba Ngộ và một nhân vật bí hiểm … Nội dung cuộc họp: Bàn mọi cách bảo vệ vị trí Bí thư thành uỷ cho ông Sang, bằng mọi cách lôi kéo vây cánh để cô lập ông Lê Khả Phiêu và tiến tới thay ông Lê Khả Phiêu bằng một hội nghị bất thường vì ông Phiêu không ủng hộ Thành uỷ và ông Tư Sang.
“Có một sự mưu tính từ một số phe phái chính trị. Trong Đảng Việt Nam đang mưu tính một cuộc cải cách chính trị, đảo chính chính trị. Có những kế hoạch tuyệt mật trên cơ sỏ báo cáo của Quốc nội do CIA gửi Văn phòng An ninh, Tổng thống. Phe phái chính trị này dự tính sẽ lôi kéo cả ông Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải đứng về phía họ …Lúc bấy giờ Phan Văn Khải và Lê Khả Phiêu cũng phải theo họ vì không còn con đường nào khác. CIA đã chỉ đạo sẽ thực hiện kế hoạch.(Bản tin số 223 ngày 19/1/98)
Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam , Điện Thư - Số 53 (Tháng 12 năm 2005)
Điện Thư Câu Lạc Bộ Dân Chủ xin trân trọng kính chuyển đến các Diễn Đàn Điện Tử, Cơ Quan Ngôn Luận, Độc Giả trong và ngoài nước các tin tức, sự kiện và bài vở liên quan đến tình hình dân chủ Việt Nam. Điện thư gửi thẳng đến bạn đọc. Nếu bạn cần nhận điện thư hoặc góy ý, yễm trợ xin liên lạc: caulacbodanchuvietnam@yahoo.com.
Tin Ghi Nhận:
- Nguyễn Chí Vịnh, người đứng đầu Tổng cục II, đã bí mật đi Trung Quốc. Mục đích chuyến đi của Vịnh là nhằm báo cáo các tin tức tối mật về nội tình đảng CSVN để phiá Trung quốc nắm vững trước khi Hồ Cẩm Đào, Tổng bí thư đảng CS Trung Quốc đến Việt Nam. Bên cạnh đó, Vịnh cần được chỉ đạo cụ thể và trực tiếp từ quan thầy để chuẩn bị đối phó với tình huống trước và sau Đại hội X. Được biết, qua chuyến đi này, Nguyễn Chí Vịnh cũng đã được phiá Trung Quốc hứa hẹn cho một cơ ngơi để phòng thân nếu có bất trắc xảy ra.