Lữ Giang
Trước
khi trình bày về tài liệu này, để độc giả có thể nắm được vấn đề một
cách dễ dàng, chúng tôi xin nói qua về tương quan lực lượng giữa Hải
Quân VNCH và quân đội Trung Quốc khi biến cố Hoàng Sa xẩy ra và lý do
tại sao Hoa Kỳ từ chối không yểm trợ cho Hải Quân và Không Quân VNCH
chống lại Trung Quốc.
TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG
Tính
đến năm 1975 Hải Quân VNCH có quân số lên tới 39.000 người, gồm 1611
tàu thuyền đủ loại, được phân thành 5 vùng Duyên Hải, hai vùng Sông Ngòi
và một hạm đội Tuần Duyên có 83 chiến hạm đủ loại. Những chiến hạm có
thể chiến đấu trên biển gồm các loại sau đây: 2 khu trục hạm, 7 tuần
dương hạm, 8 hộ tống hạm, 9 tàu đổ bộ và 4 tàu trợ chiến. Với lực lượng
như thế, Quân Lực VNCH không thể huy động để chống lại được quân Trung
Quốc trên biển hay sao?
Sở dĩ QL/VNCH không thể chống lại Trung Quốc vì các lý do sau đây:
(1)
Quân đội Trung Quốc vượt trội hơn Quân Lực VNCH về cả hải quân lẫn
không quân. Trong trận Hoàng Sa, lực lượng hai bên chênh lệch một cách
rõ rệt: Trung Quốc đã xử dụng một lực lượng Hải Quân hùng hậu gồm hơn 16
chiếc đủ loại, từ tàu đánh cá ngụy trang Nan Yu cho đến hai 2 chiến hạm
loại Hainan 281, 282, 2 chiến hạm loại Jiangnan 271, 274 và 4 Phi Tiển
Đỉnh Komar mang số 133, 137, 139, 145. Trong khi đó, lúc đầu HQ/VNCH chỉ
có Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ 16. Những ngày tiếp theo HQ/VNCH
mới tăng cường thêm các chiến hạm HQ 4, HQ 5 và HQ 10.
(2)
Trung Quốc đã huy động cả hải lục không quân để áp đảo, trong khi
QL/VNCH không thể huy động không quân vì Hoa Kỳ từ chối giúp đỡ (chúng
tôi sẽ nói sau)
(3)
Vì quyết chiếm Hoàng Sa, Hải Quân Trung Quốc đã hoạch định một kế hoạch
hành quân chu đáo: Khi lâm trận, họ đã áp dụng chiến thuật “cài răng
lược” khiến HQ/VNCH không thể xoay trở được. HQ/VNCH đã bị trúng kế
địch.
Tuy
các chiến hạm Trung Quốc chỉ trang bị đại bác 100 ly (3.9 in.) hay đại
bác 85 ly (3.5 in), còn chiến hạm HQ 16 của HQ/VNCH có đại bác 127 và HQ
10 có đại bác 76,2, nhưng Trung Quốc áp dụng chiến thuật bám sát các
chiến hạm của HQ/VNCH trong khoảng cách gần, nên đại bác của HQ/VNCH
không sử dụng được.
Cho
dù cuộc chiến xẩy ra ở tầm xa, HQ/VNCH cũng không thể thắng được vì khi
thực hiện “Việt Nam hoá” chiến tranh theo đúng lịch trình của kế hoạch “Accelerated Turnover to the Vietnamese” (ACTOV), Hoa Kỳ có giao cho HQ/VNCH
một số chiến hạm nhưng họ đã gỡ đi các giàn phóng phi đạn được trang bị
trên đó, trong khi nhiều chiến hạm Trung Quớc có trang bị giàn phóng
phi đạn và được không quân yểm trợ.
TÓM LƯỢC CÁC DIỄN BIẾN
Các bài về trận đánh Hoàng Sa được viết quá nhiều với những cách nhìn khác nhau, chúng tôi chỉ xin ghi lại các nét chính.
Trong cuốn hồi ký “Can trường trong chiến bại”,
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, người
chỉ huy trận đánh Hoàng Sa, có kể lại rằng ngày 15.1.1974, Trung Tá Lê
Văn Thự, Hạm Trưởng Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ 16 được lệnh đưa
địa phương quân và nhân viên khí tượng ra Hoàng Sa thay toán ngoài đó đã
hết nhiệm kỳ. Có hai sĩ quan công binh đi theo để sửa cầu tàu. Ông
Jerry Scott thuộc văn phòng Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ ở Đà Nẵng cũng xin cho
một viên chức Mỹ là Gerald Kosh đi theo để biết Hoàng Sa. Nhưng khi
người nhái
của VNCH đổ bộ lên các đảo Duncan và Drummond thì đụng ngay một toán
quân Trung Quốc ở trên đó.
Ngày
17 chiến hạm HQ 16 báo cáo hai tàu đánh cá của Trung Quốc không tuân
lệnh ra khỏi lãnh hải Việt Nam theo lệnh của chiến hạm Việt Nam. Sau đó,
lại có thêm hai tàu Trung Quốc chở quân tới gần đảo và đã có nhiều cờ
Trung Quốc trên bờ. Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Sài Gòn đã phái thêm khu trục
hạm Trần Khánh Dư HQ 4 do Trung Tá Vũ Hữu San ra tăng cường. Sau đó hai
chiến hạm Trần Bình Trọng HQ 5 và Nhật Tảo HQ 10 cũng được gởi ra Hoàng
Sa. Chiều 18, các chiến hạm của hai bên chạy kế ngang nhau và chỉa súng
vào nhau.
Phó
Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã liên lạc với Bộ Tư Lệnh Hải Quân tại Sài Gòn
xin cho biết có đơn vị nào của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ ở trong vùng hay
không. Tin tức xác nhận các chiến hạm Hoa Kỳ đang ở rất gần các chiến
hạm VNCH.
Lúc
10 giờ ngày 19, Đại Tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy chiến thuật (OTC) tại mặt
trận, đang ở trên soái hạm Trần Bình Trọng HQ 5, báo cáo các chiến hạm
hai bên đang ở vị trí quá gần nhau trong thế “cài răng lược”. Toán đổ bộ
của chiến hạm HQ 16 được lệnh trở ra chiến hạm. Khi toán đổ bộ đang
dùng thuyền cao su chèo ra khơi thì trận chiến bùng nổ.
Bộ
Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải được Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ cạnh Hải
Quân Vùng I cho biết, theo Tùy Viên Quân Sự ở Sài Gòn, có khoảng 17
chiến hạm Trung Quốc và 4 tàu ngầm đang hướng về Hoàng Sa. Ông ta cũng
cho biết các phản lực cơ chiên đấu của Trung Quốc sắp cất cánh từ đảo
Hải Nam để tấn công các chiến hạm của VNCH tại Hoàng Sa.
Trận
hải chiến chỉ kéo dài trong hơn 30 phút. Các chiến hạm VNCH không đuổi
theo các chiến hạm Trung Quốc và các chiến hạm Trung Quốc cũng không
đuổi theo các chiến hạm VNCH. Không chiến hạm nào của Đệ Thất Hạm Đội
Hoa Kỳ tiến vào nơi có cuộc giao tranh.
Hộ
tống hạm Nhật Tảo HQ 10 bị bắn chìm, Thiếu Tá Ngụy Văn Thà với 24 quân
nhân khác bị tử thương, 26 người mất tích, 23 thủy thủ trôi dạt được tàu
của hãng Shell vớt.
Hai khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Trần Bình Trọng HQ 5 bị hư hại, mỗi chiến hạm có hai chiến sĩ bị tử thương.
Tuần
dương hạm HQ 16 do Trung Tá Lê Văn Thự chỉ huy, bị trúng đạn nghiêng
một bên, được lệnh quay về Đà Nằng, có một chiến sĩ bị thương và 16
chiến sĩ khác trôi dạt trên thuyền cao su về đến Quy Nhơn.
Có
43 người đã bị bắt làm tù binh, trong đó có ông Gerald Kosh, được đưa
về Quảng Châu, sau đó được trao trả cho VNCH qua Hội Hồng Thập Tự Quốc
Tế.
Về
phía Trung Quốc, hộ tống hạm Kronkstad 274 bị chìm, hộ tống hạm
Kronkstad 271 và hai trục lôi hạm 389 và 396 bị hư hại nặng, các sĩ quan
chỉ huy là Vương Kỳ Uy, Triệu Quát và Diệp Mạnh Hải đều bị tử trận.
MỸ TỪ CHỐI YỂM TRỢ
Có
một điều quan trọng mà Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại không biết đến, đó là
Hoa Kỳ đã từ chối yểm trợ VNCH trong trận chiến Hoàng Sa.
Ngày
18.1.1974, Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH biết rõ hàng không mẫu hạm USS
Enterprise của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ đang có mặt trong vùng gần Hoàng
Sa. Phó Dề Đốc Diệp Quang Thủy, Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã
hỏi Đại Tá Kussan, Tuỳ Viên Quân Sự Mỹ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân rằng phi
cơ chiến đấu của Việt Nam khi đi tác chiến tại Hoàng Sa có thể hạ cánh
xuống hàng không mẫu hạm USS Enterprise để xin tiếp tế nhiên liệu được
không? Phó Đề Đốc Thủy cho biết Đà Nẵng cách Hoàng Sa trên 150 hải lý.
Do đó, phi cơ chiến đấu sẽ không đủ nhiên liệu để
có thể vừa đi vừa về. Nếu phải mang theo hai bình xăng thì không thể
tác chiến được.
Sau
khi nói chuyện với Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, Đại Tá Kussan đã trả lời
cho Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy như sau: Các chiến hạm Mỹ không thể tiếp
tế cho Quân Lực VNCH vì hai lý do sau đây:
Lý
do thứ nhất, Hiệp Định Paris cấm Hoa Kỳ không được tiếp tục dính líu
quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam (điều
4). Lý do thứ hai, Tu Chính án ngày 5.4.1973 cấm Hoa Kỳ giúp Việt Nam
mà không có sự chấp thuận trước tiên và rõ ràng của Quốc Hội, và Luật
ngày 21.9.1973 cấm Hoa Kỳ xử dụng Lực Lượng Quân Sự ở Đông Dương. Vì
thế, các chiến hạm Hoa Kỳ không thể tiếp tế nhiên liệu cho các chiến đấu
cơ VNCH được. Các chiến hạm Hoa Kỳ chỉ có thể cứu giúp quân đội VNCH
khi bị các tai nạn mà
thôi. Tuy nhiên, đó phải là các tai nạn bình thường, còn các tai nạn do
chiến đấu, các chiến hạm Hoa Kỳ cũng không thể cứu giúp được.
Cần lưu ý, trong thời gian còn chiến tranh Việt Nam, Bộ Chỉ Huy Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (The US Military Assistance Command, Vietnam – MACV)
là cơ quan chỉ huy quân sự thống nhất của Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Tuy
nhiên, sau Hiệp Định Paris, cơ quan này bị hủy bỏ và được thay thế bắng
Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (Defense Attaché Office –DAO) kể từ ngày 28.1.1973. Do đó, không còn các cố vấn Mỹ nữa mà chỉ còn các Tùy Viên Quân Sự.
QUAN ĐIỂM CỦA HOA KỲ QUÁ RÕ
Như
chúng tôi đã trình bày ở trên, theo tài liệu Hoa Kỳ vừa công bố, trong
hai cuộc họp do Ngoại Trưởng Kissinger chủ trì ngày 25.1.1974 và ngày
31.1.1974, tức sau khi Hoàng Sa bị mất, vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa đã
được đưa ra bàn cãi. Nội dung tài liệu này đã được đài BBC trình bày
ngày 3.10.2011, chúng tôi xin ghi lại những điểm quan trọng sau đây:
1.- Về trận đánh Hoàng Sa
Đô đốc Thomas H. Moorer, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu liên quân: "Chúng ta đã tránh xa vấn đề."
Ngoại trưởng Kissinger: "Chúng ta chưa bao giờ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của họ [Nam Việt Nam]?"
Đô
đốc Moorer: "Toàn vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa và các đảo khác cũng
có cùng vấn đề - đó là lãnh thổ đang tranh chấp. Chúng tôi đã ra lệnh
tránh khỏi vùng đó."
Ngoại Trưởng Kissinger: "Ai khởi đầu trận chiến ở Hoàng Sa?"
Đô
đốc Moorer: "Một đội tuần tra của Nam Việt Nam trong khu vực phát hiện
một số tàu Trung Quốc tiến về các đảo; họ tiến đến và đưa khoảng 75
người lên đảo Duncan (Quang Hòa). Đó là một trong các đảo phía nam của
nhóm Nguyệt Thiềm.
"Họ phải đối đầu với hai đại đội Trung Quốc. Phía Nam Việt Nam phải rút sang các đảo gần đó.
"Bốn tàu Nam Việt Nam và khoảng 11 tàu Trung Quốc sau đó có trận hải chiến trong khi quân Nam Việt Nam rút lui."
2.- Quan điểm của Hà Nội
Ngoại trưởng Kissinger: "Phản ứng của Bắc Việt trước toàn bộ vụ việc là thế nào?"
William
Colby, Giám đốc CIA: "Họ bỏ qua, nói rằng nó nằm dưới Vĩ tuyến 17 và vì
thế không có ảnh hưởng đến họ. Nói chung, họ không đưa ra lập trường,
không theo bên nào."
William
Smyser, thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia: "Nó đặt họ vào tình thế tế
nhị. Họ không nói gì cho đến khi đã xong chuyện, và rồi chỉ nói họ lên
án việc dùng vũ lực."
Ngoại trưởng Kissinger: “Tôi biết họ nói gì rồi, nhưng họ thực sự cảm thấy thế nào?”
Đô đốc Moorer: Tôi nghĩ họ lo lắng.
William Colby: “Bắc Việt có thể muốn có mỏ dầu tại đó.”
Ông Clements, Thứ Trưởng Quốc Phòng: “Đừng
quá mơ mộng về khả năng có dầu tại các đảo đó. Đó vẫn là chuyện trên
trời. Hiện chẳng có gì ở đấy cả, chỉ là tương lai thôi. Hiện nay dầu hỏa
ở đó không khả thi. Chỉ là tiềm năng.”
Đô
đốc Moorer: “Người Pháp nắm giữ các đảo trong thập niên 1930 cho đến
khi Nhật chiếm trong Thế chiến. Năm 1955, người Pháp từ bỏ chủ quyền các
đảo và Nhật đã làm như thế năm 1951. Nam Việt Nam và Trung Cộng kể từ
đó cùng nhận chủ quyền. Philippines có tuyên bố yếu ớt, nhưng chỉ là
trên giấy."
Sau đó, Đô đốc Moorer xác nhận lại với Henry Kissinger: "Chỉ thị của tôi là tránh xa khỏi toàn bộ khu vực."
3.- Chuyện bảo vệ Phillippines
Trong
một cuộc họp ngày 31.1.1974 tại Bộ Ngoại giao, Ngoại trưởng Kissinger
được thông báo: "Không có dấu hiệu Trung Quốc định tiến về Trường Sa.
Dẫu vậy, có sự lo ngại đáng kể từ phía Nhật, Philippines và đặc biệt là
Nam Việt Nam, mà theo tin báo chí thì hôm nay đã gửi đoàn 200 người ra
chiếm một số hòn đảo lâu nay không ai ở trong khu vực Trường Sa.
"Đài Loan đã chiếm ít nhất một đảo và Trung Quốc cũng vậy.
“Trong
bối cảnh này, Philippines đã hỏi Mỹ liệu Hiệp Ước An ninh Mỹ -
Philippines có được dùng nếu quân Philippines kéo ra Trường Sa và bị
Trung Quốc tấn công.”
Các
quan chức Mỹ có mặt trong cuộc họp đồng ý rằng không có câu trả lời rõ
rệt và họ muốn để ngỏ sự mơ hồ trong câu trả lời cho Philippines.
Một
người trong cuộc họp, ông Hummel, nói: "Tạp âm xung quanh các tuyên bố
của chúng ta về những hòn đảo này hẳn đã đủ cho người Philippines hiểu
rằng chúng ta không có ý định hay chúng ta không muốn."
Ngoại trưởng Kissinger kết luận: "Câu trả lời của chúng ta là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ."
MỘT VÀI NHẬN XÉT
Qua các sự kiện vừa được trình bày nói trên, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
(1)
Hoa Kỳ không muốn can dự vào các tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông
vì sợ đụng chạm với Trung Quốc, nơi Hoa Kỳ có rất nhiều quyền lợi.
Mặc
dầu trong chuyến viếng thăm Á Châu vừa qua, Tổng Tống Obama đã cho các
quốc gia trong vùng hiểu rằng Mỹ sẽ “bao vây” Trung Quốc cả về kinh tế
lẫn quân sự, nhưng trong cuộc họp báo hôm 8.12.2011 tại Bắc Kinh, kết
thúc cuộc đối thoại quốc phòng thường niên Mỹ-Trung, bà
Michele Flournoy, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, khẳng định việc
Washington tăng cường các liên minh quân sự tại Á Châu không nhằm mục
đích «ngăn chặn» Trung Quốc.
(2)
Giữa Philippines và Mỹ có hiệp ước ngày 30.8.1951 bảo vệ các hòn đảo,
tàu thuyền và máy bay của Philippines trên Thái Bình Dương khi bị tấn
công, nhưng khi có đụng độ, Philippines có thực sự được bảo vệ hay không
thì có thể là vấn đề khác. Ngoại trưởng Kissinger đã nói rất rõ: "Câu trả lời của chúng ta là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ."
Bản
tin của đài VOA ngày 24.6.2011 cho biết trong cuộc họp ngày 23.6.2011,
Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton nói với Ngoại trưởng Philippines
Albert del Rosario rằng Hoa Kỳ cam kết bảo vệ Philippines giữa lúc xảy
ra vụ tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa. Nhưng
tờ Philippine Daily Inquirer dẫn lời Giáo
sư Pacifico Agabin, cựu Khoa Trưởng Luật Khoa của Đại học Philippines,
cho biết nội dung của bản hiệp ước ký năm 1951 ghi rõ Mỹ không tự động
bảo vệ Philippines một khi có xung đột trên biển Đông. Điều 4 của hiệp
ước quy
định trong trường hợp xảy ra tấn công trên Thái Bình Dương, Tổng thống
Mỹ phải được sự chấp thuận của Quốc hội mới tiến hành điều quân (Căn cứ
vào War Powers Resolution ngày 7.11.1973 của lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ).
(3)
Hoa Kỳ từ chối tiếp tế xăng cho các phi công VNCH để tác chiến ở Hoàng
Sa và nói rất rõ lý do tại sao Hoa Kỳ không thể làm như vậy. Điều này
chứng tỏ Hoa Kỳ không còn muốn dính líu gì đến miền Nam Việt Nam
nữa. Nhưng Tổng Thống Thiệu, người được Mỹ đưa lên cầm quyền ở miền Nam,
quá yếu kém về chính trị, không thể hiểu được như vậy. Ông cứ nằng nặc
đòi thêm viện trợ và cuối cùng chơi trò “tháu cáy”, rút khỏi Cao Nguyên
và miền bắc Trung phần, để Mỹ hoảng sợ miền Nam mất, phải nhảy vào.
Nhưng Mỹ đã không can thiệp khiến miền Nam bị sụp đổ một cách nhanh chóng, gây tang thương cho không biết bao người. Tôi ấy trời khó dung và đất khó tha.
(4)
Tất cả các sự kiện được trình bày nói trên cho thấy cả Việt Nam lẫn
Philippines phải tự lo lấy thân phận mình, đứng trông chờ ở Mỹ.
Ngày 13.12.2011
Lữ Giang