TT VNCH Nguyễn Văn Thiệu và TT Hoa Kỳ R. Nixon
NGUYỄN TIẾN HƯNG
Đám đông đứng dọc đại lộ ngước lên nhìn những chiếc
phản lực xé mây tung cánh sắt. Trên đài danh dự, quan khách chăm chú theo rõi
cuộc duyệt binh vĩ đại. Các binh chủng trong những bộ quân phục đủ mầu theo
nhau đi diễn hành. Từng lớp rồi lại từng lớp, xe tăng thiết giáp lừ lừ lăn bánh,
trông thật oai hùng. Bất chợt, một chiếc xe dừng lại ngay trước khán đài. Viên
sĩ quan chỉ huy bước xuống, rồi đứng vào thế nghiêm giơ tay chào. Người chủ tọa
ngồi ghế giữa đứng lên để chào lại. Nhưng ông vừa đứng lên thì tiếng súng nổ
đùng đùng, một loạt đạn bắn xả vào hàng ghế danh
dự.
Đó là quang cảnh tại Cairô vào ngày 6 tháng 10, 1981. Hôm ấy
là ngày Ai Cập kỷ niệm chiến thắng Do Thái năm 1973. Tổng thống Anwar el-Sadat
hãnh diện chủ tọa cuộc diễn binh với những khí giới tối tân nhất. Khi ông đứng
lên để chào người sĩ quan, những kẻ sát nhân từ trong xe nhảy bổ ra hô lên thật
to "Death to Pharaoh," (Chết cho Pharaô) rồi bắn ông ngã gục. Cùng
chịu số phận với ông là một số quan khách, gồm cả Đại sứ Cuba, một tướng lãnh,
và một giám mục.
Husni Mubarak (trái), phó tổng thống, lên nhậm chức tổng thống sau khi Anwar el-Sadat (phải) bị ám sát
Ngồi xem tivi chiếu cảnh này buổi sáng hôm ấy, chúng tôi
giật mình nhớ lại câu chuyện Tổng thống Thiệu kể chỉ mới gần một năm trước đó. Ông
kể rằng vào ngày Quân Lực năm 1974 (20 tháng 6), ông rất ưu tư về nguy hiểm bị
hạ sát trong lúc duyệt binh. Mà cũng dễ thôi, vì phải ngồi ngay trên khán đài
để duyệt từng đoàn quân với đầy đủ vũ khí các loại, trên không thì A-37, F5 bay
rợp trời, làm sao mà kiểm soát cho hoàn toàn được là tất cả vũ khí đều không có
nạp đạn như luật lệ về diễn binh quy định? Nếu có âm mưu ám sát thì chỉ cần gài
một vài người ăn mặc quân phục đeo súng có nạp đạn đi lẫn vào đoàn quân diễn
hành là đủ rồi. Trong Chương 21, chúng tôi có trích dẫn về dịp ông Thiệu đi duyệt
binh một lực lượng năm ngàn nhân dân tự vệ đầy đủ võ trang đứng dàn chào. Ông
nói với nhà báo Oreana Fallaci: "Muốn giết tôi thì chỉ cần một viên
đạn đến từ một khẩu súng là xong."
Chúng tôi hỏi Tổng thống Thiệu là tại sao trong ngày 20
tháng 6 những năm trước cũng có duyệt binh mà ông không lo, chỉ có năm 1974?
Ông giải thích rằng sau Hiệp định Paris là tới lúc phải thành lập một 'Hội Đồng
Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc', một hình thức chính phủ liên
hiệp với Mặt Trận Giải phóng. Tiến bộ về việc này thì hầu như không có gì, và
cuộc đàm phán ở La Celle St. Cloud gần Paris thì đã bị ngừng lại từ ngày 16
tháng 4, 1974. Ông Kissinger rất bất mãn và đang làm áp lực cho ông Thiệu phải
làm lẹ việc này. Lúc ấy thì ông Kissinger rất mạnh vì ông Nixon thì hầu như bị
tê liệt vì vụ Watergate, sắp phải từ chức.
Đó là hè 1974. Đến mùa xuân 1975 thì có vụ ném bom Dinh Độc
Lập.
Trong suốt thời gian lãnh đạo, ông Thiệu đã gặp nhiều nguy
hiểm, nhưng vụ ném bom sáng ngày 8 tháng 4 là lần đầu tiên hành động sát hại
trở nên rõ ràng và cụ thể. Lúc ấy tin đồn thổi về đảo chính âm ỷ từ ngày này
sang ngày kia. Sau khi mất Đà Nẵng thì đêm đêm, chúng tôi cũng thấy có nhiều
binh sĩ canh gác tại các hành lang Dinh Độc Lập.
Dù sao, độ nguy hiểm của vụ ném bom tương đối cũng không cao
lắm, vì khuôn viên tòa nhà này rất rộng, thả vài quả bom mà trúng đúng mục tiêu
thì cũng khó: khi chiếc máy bay nhào xuống thả bom đợt đầu, hai quả đã rơi
xuống khu sân vườn.
Tuy nhiên, chỉ trên vài tuần sau đó, âm mưu ám sát lần cuối
cùng đã có khả năng thành công rất cao. Xuýt nữa thì ông Thiệu đã ra đi về thế
giới bên kia chứ không phải sang Đài Loan. Và nếu đã xảy ra như vậy thì hằng
năm Lễ Tưởng Niệm ông là ngày 25 tháng 4 chứ không phải 29 tháng 9. Chuyện này
thì cho tới ngày tạ thế, chính Tổng thống Thiệu cũng đã không biết rõ. Bản thân
chúng tôi cũng chỉ mới biết gần đây.
Đảo chính, đảo chính!
Theo như những chuyện Tổng thống Thiệu kể lại và nghiên cứu
thêm thì chúng tôi đếm ra cũng đã có tới ít nhất là sáu lần ông bị đe dọa, hoặc
vì một lý do nào đó làm ông cảnh giác về đảo chính..
Trước hết, để kiểm điểm lại những nguy hiểm trong thời gian
ông lãnh đạo, chúng tôi xin nhắc lại vài trường hợp đã ghi trong cuốn KĐMTC để
cho có mạch lạc:
Năm 1968
Nguy hiểm đầu tiên là vào dịp bầu cử Tổng thống Hoa kỳ năm
1968. Sau vụ ông tháu cáy với Tổng thống Johnson vào giây phút cuối cùng (tuyên
bố ngay trước ngày tuyển cử là không tham gia Hòa đàm Paris ) để giúp ông Nixon
thắng cử, chính phủ Johnson đã phẩn nộ và Bộ trưởng Quốc Phòng Clark Clifford
đã tính lật đổ ông. Từ đảo chính tới sát hại thì cũng không bao xa, như đã xảy
ra cho vị tiền nhiệm của ông. Tác giả Seymour Hersh trong cuốn “The Price of
Power,” sau khi đúc kết các tài liệu về vụ này đã tiết lộ rằng sau cuộc bầu cử
1968, chính ông Kissinger đã báo động cho phía Nixon về mưu đồ của Bộ trưởng
Quốc Phòng Clifford và cảnh cáo: “Nếu ông Thiệu chịu chung một số phận với
ông Diệm thì tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ nghĩ rằng làm kẻ thù của Mỹ có
thể là nguy hiểm, chứ làm bạn với Mỹ chắc chắn là chết” [1]
TT Thiệu kể lại rằng trên đường từ Dinh Độc Lập tới Quốc
Hội, ông hết sức lo ngại, có thể ông sẽ bị CIA ám sát nếu như TT Johnson và Phó
TT Humphrey biết trước được là ông sắp sửa phản phé và bác bỏ kế hoạch hòa bình
của Hoa kỳ, ngầm phá hoại cơ hội thắng cử của Humphrey. “Và nếu họ muốn ám
sát tôi thì cũng dễ thôi. Rồi sau đó cứ việc đổ cho Việt cộng hoặc là do ‘âm
mưu đảo chính.' ”
Khi kể về chuyện này, ông Thiệu cho rằng chính vì ông đã
cưỡng lại áp lực của Mỹ lúc ấy mà kéo dài thêm đời sống của VNCH được gần 6
năm.
Năm 1972
Vào mùa thu 1972, sau khi ông Thiệu cứ nhất định không chịu
chấp nhận ký Hiệp Định Paris, TT Nixon đã áp đảo tinh thần ông bằng cách nhắn
khéo về đảo chánh. Trong bức thư đề ngày 6 tháng 10, 1972, Nixon viết: “Tôi
yêu cầu Ngài cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống
có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm
1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968.” Richard
Nixon.
Biến cố năm 1963 là đảo chánh và ám sát Tổng Thống Diệm mà
chính ông Thiệu đã tham dự. Còn biến cố 1968 thì đã đề cập trên đây: chính
Nixon và Kissinger đã cực lực phản đối và cứu được ông Thiệu. Nhưng tới 1972
thì lại đến lần hai ông này đi theo con đường cũ.[2] Về đe dọa của các
ông Nixon – Kissinger thì hai chuyên viên trong Hội Đồng An Ninh Quốc gia là
Roger Morris và Tony Lake đã viết cho Kissinger một phúc trình (ngày 21 tháng
10, 1972) trong đó có nói tới các phương cách lật đổ ông Thiệu.. Sau này Morris
xác nhận: “Tôi bảo Tony rằng hai đứa mình phải cho Henry hiểu rõ là ta sẵn sàng
thanh toán Thiệu” [3]. Chắc là có mặc cảm về
những đe dọa ấy nên sau này ông Kissinger cũng đã viết cho ông Thiệu vào đầu
năm 1980: “Giá như ý định của Tổng Thống Nixon và của tôi là phản bội Ngài, thì
chúng tôi đã có thể làm như thế hồi đầu năm 1969 rồi.”
Năm 1973
Mặc dù những lời đe dọa ghê gớm ấy, ông Thiệu vẫn chống đối
không chịu chấp nhận bản hiệp định. Nhưng khi ngày đăng quang nhiệm kỳ hai đã
gần kề, Tổng thống Nixon muốn cho hình ảnh hòa bình chiếu sáng, ông đã không
ngần ngại nói rõ hơn về việc đảo chánh. Ông viết cho ông Thiệu: “Tôi nhất quyết
cho phê chuẩn bản Hiệp Định vào ngày 23 tháng 1, và sẽ ký vào ngày 27 tháng 1,
1973 tại Paris. Tôi sẽ làm việc này dù phải làm một mình…Kết quả không tránh
khỏi sẽ là việc cắt viện trợ quân sự và kinh tế ngay lập tức, mà dù có sự thay
đổi về nhân sự trong chính phủ của Ngài cũng không thể cứu vãn được…” (Thư
ngày 14 tháng 5, 1973).
Trong ngôn ngữ chuyên môn về mối bang giao Hoa Kỳ-VNCH, “thay
đổi nhân sự” là câu nói nhẹ, đồng nghĩa với việc đảo chính. Năm 1963, khi
việc chuẩn bị lật đổ TT Ngô Đình Diệm đang tiến hành ráo riết, TT Kennedy,
trong một buổi phỏng vấn với Walter Cronkite trên đài CBS, đã nhắc tới nhu cầu
“thay đổi nhân sự.” Thông điệp ấy đã là tín hiệu ‘bật đèn xanh’ từ cấp cao
nhất để cho tướng lãnh đảo chính.
Ngày Quân lực 1974
Về nguy hiểm vào ngày này như đã đề cập trên đây, ông Thiệu
thêm rằng ông biết vào lúc ấy ông không phải là người lãnh đạo thích
hợp với kế hoạch ‘hòa bình trong danh dự’ của hai ông Kissinger và Nixon, nên
đã luôn đề cao cảnh giác về khả năng loại trừ ông.
Sự việc này có thể cắt nghĩa được là tại sao sau Hiệp định
Paris ông cho thiết kế một trung tâm chỉ huy dưới lầu hầm Dinh Độc Lập. Đây là
nơi được trang bị đầy đủ với máy phát điện, đường điện thoại riêng biệt, đài
phát thanh, rađiô liên lạc với tướng lãnh, một cái giường nhỏ và một cái gối
mây. Tổng thống Thiệu rất cẩn thận, luôn luôn sẵn sàng để đề phòng những trường
hợp biến loạn có thể xẩy ra.
Ngày 8 tháng 4, 1975
Một quả bom thật to chọc thủng bãi trực thăng trên nóc Dinh
Độc lập, lọt xuống rồi nổ tung. Ông Thiệu vừa ngồi xuống bắt đầu ăn tô phở ở
một bàn nhỏ ngoài hành lang trên lầu bốn, cận vệ vội tới đưa ông vào ngay thang
máy để xuống lầu hầm. Đầu tháng 4 là thời gian có nhiều chống đối từ mọi phía
đòi ông Thiệu phải từ chức. Chúng tôi nghe vậy cũng thật ái ngại, nhưng thấy
ông vẫn bình tĩnh, chỉ hơi cáu kỉnh khi nghe báo cáo về một số quý vị thuộc
đảng Dân Chủ tại Quốc Hội đã quay lại chống ông.
Về biến cố ngày hôm ấy, bà Thiệu kể là trái bom lại rơi
trúng ngay chỗ mỏng nhất của bãi trực thăng. Mùi khét tỏa ra khắp nơi khi
những tấm thảm giầy bốc cháy dữ dội. Lúc ấy bà bị kẹt cứng trong phòng vì
cháu bé người làm đang lo sắp xếp quần áo đã sợ quýnh lên, tay run lẩy bẩy,
không tìm và mở được cái khóa vào cầu thang. Một lúc sau mới có sĩ quan đến
giúp bà xuống hầm trú ẩn. Khói bay lên nghi ngút làm bà như ngạt thở.
Ngày 21 tháng 4,
1975
“Tôi sẽ nói cho ông Thiệu rõ tôi đã đi đến một kết luận vô
tư là nếu ông ta không chịu từ chức thì các tướng lãnh dưới quyền ông sẽ bắt
buộc ông làm điều này,” đại sứ Martin báo cáo (ngày 21 tháng 4) cho Ngoại
trưởng Kissinger về việc ông sẽ cố thuyết phục TT Thiệu từ chức.. Ý ông đại sứ
muốn nói là sẽ có đảo chính.
Thoát chết lúc ra đi
Sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, tân Tổng thống Hương vẫn
để cho ông lưu lại trong Dinh Độc Lập. Nhưng rồi có nhiều áp lực đòi ông Thiệu
phải rời khỏi Việt Nam, vì nếu không thì phía Cộng sản không chịu điều đình với
“một chính phủ Thiệu không Thiệu.” Nhân dịp có tang lễ Tổng thống Tưởng Giới
Thạch ở Đài Loan, Đại sứ Martin báo cáo về Washington: "Ông Hương nói ông
ta sẽ đề cử cả hai ông Thiệu và Khiêm làm Đại sứ Lưu động và gửi hai người sang
Đài Loan mệnh danh là một phái đoàn đại diện ông để phúng điếu tang lễ ông
Tưởng Giới Thạch. Tôi nghĩ rằng mọi chuyện đã đuợc sắp xếp với phía Đài Loan."
Thực ra thì ngoài việc ông Thiệu phải ra đi để dễ hơn cho
việc đàm phán về một giải pháp chính trị, Tổng thống Hương còn lo ngại cho sự
an toàn của ông. Ông Đại sứ thêm:
"Tổng thống Hương nói với tôi là ông ta lo ngại cho sự
an toàn của cựu Tổng Thống Thiệu…Bởi vậy ông Hương yêu cầu chúng ta giúp cho
ông Thiệu ra đi thật kín đáo và sớm nhất có thể."
Ngoài những mưu toan nguy hiểm cho ông Thiệu từ các phe
phái, Tổng thống Hương còn để ý tới một khía cạnh cá nhân nữa: đó là sự bất hòa
giữa hai người tướng lãnh: Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh. Sự bất hòa này
thì đã có mầm mống từ lâu và mọi người đều biết. Như chúng tôi đã đề cập tới
trong Chương 11, chính ông Thiệu đã cố vấn Tổng thống Hương là chớ có đề cử
Tướng Minh làm Thủ tướng vì sẽ rất nguy hiểm. Việc ông Minh không ưa gì ông
Thiệu thì cũng đã công khai. Bởi vậy vào giờ chót, Tổng thống Hương muốn đưa
ông Thiệu ra khỏi Việt Nam trước khi ông Minh lên nắm chính quyền. Ông
Martin viết:"Tổng Thống Hương nhất quyết là ông Thiệu phải ra khỏi nước đã
rồi lúc đó ông ấy mới đi tới quyết định cuối cùng là trao quyền cho ông Big
Minh."
Đó là về sự cần thiết và thời điểm ra đi, nhưng còn cách ra
đi thì làm sao cho được an toàn?
Chi tiết chuyến đi của hai ông Thiệu và Khiêm từ Bộ
Tổng Tham Mưu ra phi trường Tân Sơn Nhất thì nhân viên CIA là Frank Snepp đã kể
lại và chúng tôi cũng có đề cập tới trong cuốn KĐMTC. Ông Snepp và một nhân
viên khác là Joe đã giấu vũ khí dưới chỗ ngồi trong xe vì lo sợ tái diễn vụ sát
hại như trường hợp hai anh em Tổng thống Diệm. [4]
Mới đây, câu chuyện từ lúc Tổng thống Thiệu rời bỏ Dinh Độc
Lập tới Bộ TTM và ra phi trường được Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận kể lại rất chi
tiết. [5] Ông Phận là một
trong đoàn tùy tùng 8 người (cuối cùng chỉ có 7 người) của Tổng thống Thiệu và
4 người của Thủ tướng Khiêm được phép Tổng thống Hương cho đi tháp tùng theo
như yêu cầu của ông Thiệu. Diễn biến có thể tóm tắt như sau: "Vào khoảng 7
giờ 30 tối, Tổng Thống Thiệu thay bộ đồ bốn túi trong phòng ngủ rồi qua phòng
nhỏ bên cạnh nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn xuống. Dưới sân, bên cạnh thềm tam cấp
một chiếc xe Mercedes mầu xanh đậm đã đậu sẵn. Người lái xe là Đại Tá Nhan Văn
Thiệt. Thấy mọi việc đã sẵn sàng, Tổng thống Thiệu vội vã rút trong hộc tủ cây
Browning đã lắp đầy đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo. Ông xuống
tầng trệt bằng thang máy. Khi cánh cửa mở ra thì Đại Tá Trần Thanh Điền đã túc
trực tại đó. Ông vừa bước xuống bậc tam cấp thì lại cũng vào lúc có hai binh sĩ
(tên là Sanh và Khình) xuất hiện làm ông giật mình. Thực ra là họ chỉ đến để
đổi gác. Ông và ông Điền lanh lẹ bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải của
Tổng thống Thiệu ở băng sau. Như vậy là ông Điền đã ngồi vào chỗ chánh thức của
Tổng thống – Trần Thanh Điền muốn làm Lê Lai cứu Chúa! Vừa ngồi vào xe, ông
Thiệu hỏi ‘có mấy cây súng?’ Đại tá Điền đáp: ‘có hai cây, một cây dài, một cây
ngắn.’"
Theo như vậy thì vào lúc đó tổng thống Thiệu đã nhận thấy
ông bị nguy hiểm trên đường tới Bộ Tổng Tham Mưu (ta nhớ lại là Tổng thống Diệm
đã bị sát hại trên đường tới Bộ TTM). Việc ông Điền ngồi vào chỗ chính thức của
Tổng thống thì cũng trùng hợp với câu chuyện ông Thiệu kể cho chúng tôi là khi
đi xe tới dự nghi lễ bên Quốc Hội hay nơi khác, ông thường ngồi ngay bên cạnh
tài xế lái xe chứ không ngồi chỗ dành cho tổng thống ở băng sau.
Khi đoàn xe tới phi trường Tân Sơn Nhất, Thiếu tá Phận kể
lại là đã "giật mình khi nhận ra cả khu vực phi trường tối om. Dường như
hệ thống điện hoàn toàn bị cắt…Đoàn xe chạy vòng qua khu dành riêng cho hãng
Air America của cơ quan tình báo Mỹ. Khi sắp tới đường băng, tất cả xe đều tắt
đèn, di chuyển trong bóng đêm. Sau đó một chiếc máy bay lù lù hiện ra dưới chân
trời nhờ đèn trong buồng máy cháy sáng, một loại máy bay giống như DC6. Khi tới
gần chiếc máy bay, đoàn xe bất thần thắng gấp vì thấy có bóng người…xe Tổng
thống Thiệu bị bao vây bởi ba chiếc xe Chevrolet to lớn. Xa xa trong bóng đêm,
xung quanh chúng tôi xuất hiện có nhiều người Mỹ vạm vỡ, vận thường phục, súng
M16 dựng đứng bên hông, trong thế tác chiến. Rồi hình ảnh ông Đại sứ Graham
Martin hiện ra tại chân cầu thang máy bay như một vị thần hộ mạng."
Chuyện này làm cho chúng tôi mới hiểu được là tại sao khi
nói về chuyến ra đi của Tổng thống Thiệu, Đại sứ Martin cứ nói úp úp mở mở là
"Ông Thiệu đã ra đi trong điều kiện hết sức khó khăn," và "chúng
tôi đã để ý và cố gắng sắp xếp mọi chi tiết."
Thì ra, mọi chi tiết được sắp xếp gồm cả việc cắt điện để
phi trường tối om và việc đoàn xe phải di chuyển trong bóng đêm. Khi máy bay
đáp xuống thì đã có sẵn một toán lính Mỹ canh gác để đề phòng những biến động
có thể xẩy ra vào phút chót, thí dụ như việc ngăn chận không cho máy bay cất
cánh. Vì sao như vậy? Vì việc này đã xẩy ra trước đó mấy ngày. Vào lúc 10 giờ
đêm ngày Chủ nhật 20 tháng 4 có sự cố ở Tân Sơn Nhất: một nhóm binh sĩ với võ
trang nặng bao vây, định ngăn chận chiếc C-141 của Mỹ chở người di tản không
được cất cánh (xem Chương 7).
Thiếu tá Phận cũng kể lại là "Trung tá Nguyễn Phú Hiệp,
phi công chiếc máy bay Air Viet Nam 727 đã có lệnh ứng trực, chuẩn bị sẵn sàng,
chỉ dành riêng cho Tổng thống Thiệu sử dụng…và cũng vào thời gian này thì một
vài đơn vị trưởng các đơn vị phòng thủ thủ đô, và các đơn vị đóng quân gần khu
vực phi trường Tân Sơn Nhất lại được nghe dư luận rỉ tai là 'ông Thiệu sẽ dùng
Air Viet Nam để ra khỏi nước.' ” Việc ông Thiệu dùng chiếc máy bay của Hàng
Không Việt Nam dành cho VIP để đi công tác là điều dĩ nhiên vì ông đã được chỉ
định theo như sắc lệnh của Tổng thống Hương: "Nay đề
cử cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đại diện
Tổng thống VNCH đến Đài Bắc để phân ưu cùng chánh phủ và nhân dân trung Hoa Dân
Quốc nhân dịp Tổng thống Tưởng Giới Thạch tạ thế.” Sau đó hai ông còn được phép
đi thăm các quốc gia khác để vận động cho hòa bình Việt Nam trong vòng 6 tháng.[6]
Nguyên tắc thì như vậy, nhưng trong thực tế đã rõ ràng là
lệnh cho phi công Hiệp ứng trực chiếc máy bay Air Viet Nam 727 và tin đồn về
‘ông Thiệu sẽ dùng Air Viet Nam ra khỏi nước’ là những sắp xếp để đánh lạc
hướng những kẻ sát nhân vì khi đó ông Martin đã nhận được nhiều thông tin tình
báo về âm mưu sát hại ông Thiệu ở ngoài khơi.
Theo kế hoạch này thì chiếc máy bay Air Vietnam mà ông Thiệu
định dùng để ra đi sẽ bị bắn rơi khi ra khỏi không phận Việt Nam . Bởi vậy,
trong vòng bí mật, ông Martin đã gọi ngay chiếc máy bay riêng của mình từ Thái
Lan sang Tân Sơn Nhất để bốc ông Thiệu. Để bảo mật tối đa thì dù có dùng điện
thoại đặc biệt an toàn của tòa đại sứ để báo cáo về Tòa Bạch Ốc, ông Martin
cũng vẫn không tiết lộ chi tiết mà chỉ nói mập mờ. Tuy nhiên, lúc tới sát nút
rồi thì ông phải nói cho rõ.
Mời độc giả theo rõi vài đoạn trong thông điệp ngày 25 tháng
4 (in kèm theo chương này) của đại sứ Graham Martin gửi về Washington . Độc giả
lưu ý là ông đã không gửi mật điện này cho Ngoại trưởng Kissinger ở Bộ Ngoại
Giao mà lại gửi cho Cố Vấn An Ninh Tổng thống ở Tòa Bạch Ốc: Tòa Bạch Ốc:
Số 250420 – Chỉ mình ông xem và qua đường giây Martin
Sàigòn số 0736 – FLASH (Cấp tốc)
Chuyển Ngay
Ngày 25 tháng 4, 1975
Gửi tới: Tướng Brent Scowcroft
(Cố Vấn An
Ninh Tổng Thống Ford)
“Thông điệp này xác nhận câu chuyện tôi nói vòng vèo qua
điện thoại vừa mới đây. Lúc muộn chiều hôm qua, Tổng thống Hương nói với tôi là
ông ta lo ngại cho sự an toàn của cựu Tổng Thống Thiệu. Nói chung, dường như
ông ta cũng đã biết về một thông tin mà chúng tôi đã nhận được nhiều lần,
đó là có một số phần tử của Không Quân việt Nam là những người có ý kiến hết
sức chống đối Thiệu và Khiêm, đã nói rằng hai ông này sẽ không rời khỏi
Việt Nam mà còn sống nguyên vẹn (gạch dưới là do tác giả). Chúng tôi
biết rằng những phần tử này đang để ý chiếc máy bay thường dùng để chuyên chở
các nhân vật cao cấp VIP của chính phủ đi ngoại quốc...
“Tôi đã xếp đặt với Tướng Hunt ở NKP (Nakhom Phanom, Thái
Lan) để ông ta gửi một chiếc C-118 tới Sàigòn sẵn sàng chiều nay. Chúng tôi
cũng sẽ sắp xếp hết sức kín đáo để đưa hai ông Thiệu và Khiêm lên máy bay và
cất cánh thật nhanh. Chúng tôi đã suy nghĩ về việc này và chúng tôi chắc chắn
rằng sẽ có thể làm hết sức nhanh để nếu có sự can thiệp nào thì chiếc máy bay
đó cũng đã (cao bay xa chạy) ra quá tầm có thể truy kích được rồi...
"Bởi vậy, trừ phi có chỉ thị ngược lại và ngay tức khắc
từ chính ông, tôi sẽ tiến hành theo như trình bày trên đây. Ông không cần phải
có hành động nào vào lúc này, trừ khi có người đặt vấn đề (tại sao lại) dùng
máy bay quân sự, một điều tôi nghĩ khó có thể xẩy ra.…
Trân trọng
Martin
Về việc này chúng tôi có hỏi Đại tá Nguyễn Quốc Hưng (hiện ở
Salem, Oregon), Chỉ huy trưởng Hành quân Không quân thì ông xác nhận là có, và
cho biết là có một nhóm trong Không Quân đã thực sự có âm mưu này và đã theo
sát chiếc máy bay Boeing 727 là chiếc lãnh đạo cao cấp thường dùng trong những
chuyến đi xuất ngoại. Sau cùng thì họ giao cho một sĩ quan ở Cần Thơ thuộc Sư
Đoàn 4 Không Quân lo việc này. Ở phi trường Cần Thơ có loại máy bay khu trục
A-37 và cả phản lực F5 nữa. Kế hoạch là tại Tân Sơn Nhất có những người được
chỉ định theo rõi thật sát các chuyến bay, đặc biệt là chiếc Air Vietnam Boeing
727. Khi nào thấy hai ông Thiệu và Khiêm lên máy bay thì sẽ báo cho Cần thơ
ngay để phản lực cất cánh bay thẳng ra khơi, và sẽ bắn rơi chiếc máy bay chở
ông Thiệu và ông Khiêm, ở khoảng 100 cây số cách bờ biển.
Nếu như vậy thì cũng chẳng có tang tích, chẳng có chứng cớ
gì về vụ sát hại. Trừ một số người rất nhỏ trực tiếp dính lứu thì không ai biết
tin tức gì về việc này. Lúc ấy là đêm 25 rạng ngày 26 tháng 4 rồi, khi dầu sôi
lửa bỏng đã lên tới tuyệt đỉnh, mọi người chỉ còn có thể lo cho chính bản thân
mình, cho nên cũng chẳng ai để ý tới chuyện gì xảy ra cho ông Thiệu.
Đại tá Hưng cho biết lúc ấy ở ngoài khơi cũng có những máy
bay luôn luôn thay nhau theo rõi. Chúng tôi hỏi ông xem nhóm người nào ra lệnh
cho phi công ở Cần Thơ? Ông trả lời là do một phe nhỏ chống ông Thiệu ở ngay Bộ
Tư Lệnh Không Quân. Đại tá Hưng thêm rằng: về vấn đề đảo chính nói chung thì
chính hai Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan đều đã không đồng ý và khuyên
không được làm như vậy.
Sau cùng thì hai ông Thiệu, Khiêm lại không đi chuyến Boeing
727 mà đi chiếc C-118 của Đại sứ Martin. Đại tá Hưng kể là vài ngày hôm ấy cứ
thấy Đại sứ Martin ra ra vào vào phi trường Tân Sơn Nhất.
Tối muộn cùng ngày 25 tháng 4, 1975, ông Martin báo cáo về
Tòa Bạch Ốc:
Số 251510Z – Chỉ mình ông xem và qua đường giây Martin
Sàigòn – C738 – Cấp tốc
Chuyển ngay
Ngày 25 tháng 4, 1975
Gửi tới: Tướng Brent Scowcroft
Người gửi: Đại sứ Graham Martin
Tham chiếu: Sàigòn 0736
1. Vào lúc 9 giờ 20 phút chiều nay, một chiếc C-118, có
đuôi số 231 đã cất cánh từ Tân Sơn Nhất cùng với cựu Tổng thống Thiệu và cựu
Thủ tướng Khiêm.. Họ đã bay sang Đài Loan nơi mà anh ông Thiệu làm đại sứ VNCH.
Công việc sắp xếp rất xuôi xẻ. Tôi đã tháp tùng họ lên máy bay và tôi cho rằng
sự vắng mặt của họ ở đây sẽ giảm bớt được sự xôn xao có thể xẩy ra.
2. Chúng tôi sẽ không bình luận gì về việc này ở đây. Phi
hành đoàn từ NKP (Nakhon Phanom, Thái Lan) bay chiếc C-118 của tôi tới
Davis-Montohn và tới nơi nghĩa trang. Tôi nghĩ rằng hai ông cũng sẽ không tuyên
bố gì cả trừ phi và cho tới khi chuyện này lộ ra ở Đài Loan.
Trân trọng,
Martin
Khi chiếc máy bay có đuôi số 231 sửa soạn cất cánh, Đại sứ
Martin đã có mặt tận cửa máy bay để tiễn ông Thiệu. Dù buồn thảm và cam chịu số
phận, ông Thiệu vẫn đi thủng thẳng, cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông
Martin đã dàn xếp chuyến đi. Với một giọng xúc động, ông Martin đáp lại: “Thưa
tổng thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và chúc ngài may
mắn.”
Nhìn lại lịch sử thì thấy ông Thiệu đã thật may mắn. Không
những chính ông, ông Khiêm nhưng cả chuyến Air Vietnam 727 cũng đã may mắn. Nếu
như không có sự can thiệp của ông Martin thì cả những người khác cũng đã cùng
chịu chung một số phận. Đó là phi công Hiệp, các nhân viên khác trong phi hành
đoàn, và 12 người trong phái đoàn của cựu tổng thống và thủ tướng, họ đều đã bị
chôn vùi dưới đáy biển cùng với chiếc Boeing 727. Trong số này có Đại tá Cầm,
Chánh Văn Phòng và là người chúng tôi làm việc gần gũi, Đại tá Đức, người đã ôm
hồ sơ mật Dinh Độc Lập đưa đến tư gia trao chúng tôi vào đêm ngày 22 tháng 3.
Rồi cả Thiếu tá Phận, người vừa kể lại câu chuyện về những ngày cuối của TT
Thiệu ở Sàigòn. Những người khác gồm mấy sĩ quan gần gũi Tổng thống Thiệu (Đại
tá Điền, Thiệt; Trung tá Chiêu, Bác sĩ Minh, Đại úy Hải, và binh sĩ Nghị); và
phái đoàn của Thủ tướng Khiêm (Trung tá Châu, Thiếu tá Thông, và ông Đăng Vũ).
***
Có lần ông Thiệu hỏi tôi là người Mỹ nghĩ thế nào về ông,
tôi nói về một hai khía cạnh: khen có, chê có, rồi thêm là “tôi nghe có người
nói là tổng thống nhu nhược.” Ông Thiệu hỏi tại sao? Tôi trả lời là họ nói
‘Tổng thống không cương quyết đủ để ra lệnh tử hình khi cần thiết để làm
gương.’ Ông yên lặng nhìn tôi giây lát rồi chậm rãi nói: “Suốt đời, tôi đã
tránh không có cái nợ máu.”
Xét ra thì trong gần 10 năm ông lãnh đạo, thực sự đã không
có tội nhân nào phải ra pháp trường. Nếu ta tin rằng mọi việc trên cõi đời này
đều do Trời an bài xếp đặt, thì Trời cũng đã phù giúp cho ông Thiệu, vì lúc
‘mạt vận’ là lúc vô cùng nguy hiểm.
Vĩnh biệt ông tổng thống.
......................
Xem thêm: