Số liệu trong bài dựa trên giá trị đồng đô la Mỹ, tổng hợp từ BBC. Nợ nước ngoài của chính phủ Việt Nam ở thời điểm đầu 03/ 2011 là 29 tỉ, hơn 42% so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm. Quốc gia này đang rơi vào tình trạng thâm thủng kép cả về thương mại và ngân sách chính phủ. Tuy nhiên, có dấu hiệu cho thấy chính phủ Việt Nam có thể đi tới tình trạng phá sản, nếu diễn dịch theo các số liệu dưới đây.
Dự trữ của chính phủ, tức khoản tiết kiệm, hiện có không tới 50% so với công nợ. Nếu phải trả nợ 29 tỉ đô la ngay vào ngày mai, chính phủ Việt Nam sẽ không thể có đủ tiền để trả một lần. Nếu có chuyện các chủ nợ kêu đòi ngay một lúc thì nguồn tài chính của chính phủ sẽ không đủ để thanh khoản. Điều này có thể không xảy ra nhưng vẫn tiềm ẩn khả năng đó, nói tỉ như nếu có một sự cố khủng hoảng chính trị kiểu Ai Cập 2011 hay một thảm họa thiên nhiên nghiêm trọng như trận động đất trong tháng này ở Nhật, hay xuất hiện một mối hoang mang bất thần trong số các nhà đầu tư và các chủ nợ nước ngoài.
Tình hình này có vẻ không khả quan hơn trong thời gian ngắn. Tình trạng thâm hụt ngân sách vẫn tiếp diễn và chính phủ cũng dự tính 5% thâm hụt nữa cho năm tài khóa này. Thâm hụt mậu dịch cũng cho thấy không có dấu hiệu cải thiện nhanh, trong tháng Hai là gần 1 tỉ. Chính phủ lập kê hoạch hạn chế tình trạng thâm hụt mậu dịch của năm 2011 là khoảng chừng 18% kim ngạch xuất khẩu, tức khoảng 14,2 tỉ. Nhưng số này vẫn là tăng nhẹ so với năm 2010.
Do vậy, trong tình thế thâm hụt kép vẫn tiếp diễn, thì việc tiếp tục vay nợ là điều cần thiết, sau khi đã cân đối với nguồn thu từ đầu tư trực tiếp ngoại tệ và kiều hối của người Việt hải ngoại. Tuy nhiên, nguồn kiều hối này sẽ đi thẳng vào túi người dân hơn là vào hầu bao của chính phủ. Người dân Việt Nam có khoảng vài tỉ đô la giữ làm của bằng các cách tiết kiệm khác nhau, chủ yếu là đô la Mỹ và vàng. Lý do chính là do họ thiếu tin tưởng vào giá trị của đồng tiền Việt Nam, và vào khả năng chống lạm phát của chính phủ.
Năm 2011, chính phủ cần 4 tỉ để trả lãi suất cho phần nợ nước ngoài. Khoản này chiếm chừng 12% ngân sách của chính phủ. Càng ngày càng có nhiều chủ nợ của chính phủ Việt Nam sẽ phải xem chuyện gom nợ dài hạn và khả năng thu thuế của chính phủ là yếu tố quan trọng để cân nhắc chuyện cho vay trong tương lai. Trong bối cảnh đó thì các con nợ đặc quyền [nhà nước] có xu hướng có lợi thế hơn các bộ phận vay mượn tư nhân, và như thế điều phân vân là liệu xảy ra nguy cơ tráo trở (moral hazard) trong hệ thống tài chính quốc tế hay không?
Nếu dự trữ ngoại tệ của chính phủ Việt Nam rớt xuống dưới mức 4 tỉ, là số tiền cần phải trả lãi suất hàng năm, thì điều gì sẽ xảy ra? Nguồn dự trữ ngoại tệ của chính phủ đã và đang có xu hướng đi xuống từ cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu ở Việt Nam vào năm 2008, xảy ra trước cả khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Phản ứng của khu vực sẽ như thế nào nếu Việt Nam trở thành một Iceland hoặc một Hy Lạp của Đông Nam Á?
Hiện đang có một động lực để giảm thiếu hụt ngân sách bằng cách cắt giảm chi tiêu. Việc cắt giảm đã được lên kế hoạch nhưng chỉ giảm chừng được 0,5% so với năm 2010. Còn nhiều việc khác nữa cần phải làm và chính phủ và các nhà lãnh đạo đảng cần phải tự làm gương cũng như các lãnh đạo các cơ quan của họ phải đi đầu trong việc này. Vài năm trước, người dân Việt Nam rất lấy làm ấn tượng, khi có một nhà lãnh đạo chính phủ ngoại quốc rời khỏi Hà Nội bằng một hãng hàng không giá rẻ. Ngược lại, trong các chuyến thăm cấp quốc gia, các nhà lãnh đạo Việt Nam lại đem theo cả tùy tùng của mình trên một chuyên cơ đặc biệt của hãng hàng không quốc gia. Đi lại theo kiểu ít phô trương có lẽ là hữu ích hơn. Các thí dụ khác về tình trạng lãng phí thì đầy rẫy.
Điều mà chính phủ cần là kiện toàn các phương thức kiểm soát vĩ mô và ngăn ngừa việc chi tiêu quá mức. Tựu trung là, cần phải ấn định một giới hạn mức độ thâm hụt mà không một chính phủ nào có quyền thay đổi hoặc chi tiêu nếu không được 80% đại biểu Quốc hội đồng ý, và Chủ tịch nước cũng phải được cho phép rà soát ngân sách của chính phủ một cách kỹ càng hơn và được quyền yêu cầu chính phủ phải có những điều chỉnh bắt buộc theo đúng luật. Chủ tịch nước cũng cần phải được quyền phủ quyết tình trạng thiếu hụt ngân sách ngay cả khi 80% đại biếu Quốc hội đồng ý – nếu không đem lại lợi ích gì cho quốc gia. Tiết kiệm có tính bắt buộc ngân sách hàng năm của chính phủ cần phải trở thành một việc làm thường quy.
Có lẽ cũng nên thể chế hóa việc kiểm soát các bộ phận có tính cụ thể. Chẳng hạn như, trong khi các đơn vị như quốc phòng, chăm sóc sức khỏe và giáo dục không phải là đối tượng để siết chặt, thì ngân sách cho các bộ ngành khác và các doanh nghiệp nhà nước cần phải được giám sát chặt chẽ và cần phải đặt trong lộ trình giảm dần ngân sách chi trong vòng 5 năm tới, cho tới khi tình hình tài chính được cải thiện rõ rệt. Nếu là các doanh nghiệp do nhà nước làm chủ, trừ khi có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh quốc gia, thì có lẽ không nên để sống bằng tiền nhà nước bơm vào, mà cần phải giải thể.
Một điều nghịch lý, lúc này cũng chính là thời điểm cho các quốc gia tài trợ cần phải cân nhắc việc cắt giảm viện trợ, dù là dần dần, để gây áp lực buộc chính phủ này phải đương đầu với những lựa chọn quyết liệt trong vấn đề dự chi ngân sách để đảm bảo cho Việt Nam sống một cách tự lực. Với tình trạng tài chính hiện nay, thì câu chuyện phát triển của Việt Nam là không bền vững và có thể bị sụp đổ.
Nguyên Đình dịch theo đường link giới thiệu của Viet-Studies
Nguyên Đình dịch theo đường link giới thiệu của Viet-Studies
(*) Tựa đề do người dịch đặt lại. Nguyên văn: Vietnam’s poor government
Tác giả David Koh là Chuyên viên cao cấp của Viện nghiên cứu Đông nam Á
Người dịch gửi trực tiếp cho BVN.