Người Trung Quốc và Việt Nam từ nhỏ đến lớn bị cưỡng chế truyền bá lý luận chủ nghĩa Marx, tuy nhiên bản thân chúng ta lại không hề chân chính hiểu rõ Marx. Trong viện nghiên cứu Marx ở Moscow có hơn 100 đầu sách do Marx viết, tuy nhiên chỉ có 13 quyển được xuất bản. Marx viết nhiều như vậy, rốt cuộc là về điều gì? Vì sao không cho xuất bản? Muốn giấu giếm điều gì đây?
Gần đây, xem thấy trên mạng lưu truyền một số bài viết về
Marx và Sa-tăng giáo, tôi đã tìm được mấy cuốn sách tiếng Anh nói về sinh hoạt
và công tác của Marx [1,2], nhờ đó mới biết bình sinh không để nhiều người biết
của Marx.
Ngày 5 tháng 5 năm 1818, Marx sinh ra trong một gia đình luật
sư người Do Thái giàu có. Khi Marx lên 6 tuổi, gia đình ông ta theo Cơ Đốc
giáo (Kitô Giáo). Thời trẻ Marx là một giáo đồ Cơ Đốc (tín đồ Kitô
giáo) và tín ngưỡng Thượng Đế. Sau khi tốt nghiệp trung học, thành tích
của Marx rất tốt và tất cả đều xem ra bình thường. Cha Marx cũng đặt kỳ vọng
rất lớn vào ông ta.
Tuy nhiên trong thời gian học đại học, tính cách Marx biến
đổi lớn, trong tâm đầy rẫy thù hận và cuồng vọng tự đại, khiến cha mẹ ông ta
trở nên bất an và đau khổ.
Với sự giàu có của gia đình, trong thời gian Marx học đại
học, cha Marx đã cấp cho ông ta rất nhiều tiền để tiêu xài [3]. Tuy nhiên Marx
và Jenny (Jenny von Westphalen) đã bí mật đính hôn (gia cảnh Jenny tốt hơn
Marx, người vừa cao vừa xinh xắn, là đối tượng theo đuổi của nhiều chàng trai).
Chiếu theo lý thường, cuộc đời Marx lúc này lẽ ra nên theo chiều hướng tích
cực. Vậy vì sao Marx bỗng chốc trở nên đầy thù hận? Nguyên là sau khi vào đại
học, Marx đã gia nhập giáo hội Sa-tăng (Satanist Church) do Joanna Southcott
chủ trì [2] (người tự xưng là có giao tế với ma quỷ Shiloh), và trở thành một
thành viên của giáo phái ma quỷ.
Ký hiệu ngôi sao năm cánh của giáo hội Satan (Satanismus)
Theo tôn giáo Tây phương giảng, Sa-tăng là thiên sứ sa ngã
(fallen angel), từ đó trở thành ma quỷ, chứa đầy thù hận và đố kỵ với Thiên
Chúa (God). Giáo hội Sa-tăng tuyên truyền thù hận đối với Thiên Chúa, đồng
thời cũng đầy thù hận đối với nhân loại (bởi vì Thiên Chúa đã sáng tạo ra
loài người).
Giai đoạn đầu học đại học, Marx dự định học tập thơ ca và hí
kịch. Từ một số bài thơ và kịch bản mà ông ta viết, người ta có thể thấy sự thù
hận của Marx đối với Thiên Chúa và nhân loại.
Ví như trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair) biểu đạt sự tuyệt vọng của
bản thân, Marx viết:
Ta không còn lại gì ngoài thù hận! (Nothing but revenge is left to me!),
Ta không còn lại gì ngoài thù hận! (Nothing but revenge is left to me!),
Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời cao, (I shall build my
throne high overhead,)
Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh, (Cold, tremendous shall its summit be.)
Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp, (For its bulwark– superstitious dread,)
Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên… (For its Marshall–blackest agony.)
Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh, (Cold, tremendous shall its summit be.)
Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp, (For its bulwark– superstitious dread,)
Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên… (For its Marshall–blackest agony.)
Trong bài thơ này, tác giả đã bày tỏ tâm tư: Mơ ước trở
thành Đại vương Khủng bố để hủy diệt cả thế giới. Marx còn thích lặp lại câu
nói của ác ma Mephistopheles: “Hết thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy
diệt”.
Trong bài thơ “Sự kiêu ngạo của con người” (Human Pride), Marx viết:
Rồi ta sẽ quăng đôi găng tay sắt lên, (Then the gauntlet do I fling,)
Khinh bỉ trước khuôn mặt mở rộng của thế giới, (Scornful in the World’s wide open face.)
Dưới người lùn khổng lồ khóc thút thít, (Down the giant She-Dwarf, whimpering,)
Lao xuống, nhưng không thể diệt niềm hạnh phúc của ta. (Plunges, cannot crush my happiness.)
Giống như Thượng Đế mà ta dám làm, (Like unto a God I dare,)
Xuyên qua vương quốc hoang tàn trong khải hoàn, (Through that ruined realm in triumph roam.)
Mỗi lời nói là chiến công và ngọn lửa, (Every word is Deed and Fire,)
Và ngực ta sẽ giống của Đấng Tạo Hóa. (And my bosom like the Maker’s own.)
Và ngực ta sẽ giống của Đấng Tạo Hóa. (And my bosom like the Maker’s own.)
Tác giả bài thơ này đã có được khoái cảm từ việc hủy diệt
thế giới, mức độ thù hận và cuồng vọng có thể thấy được từ đó.
Mikhail Bakunin (một người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ,
cùng Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”, cũng là một giáo đồ Sa-tăng), người từng
có thời là bạn thân của Marx, viết:“Người ta nhất định phải sùng bái Marx. Người
ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có được sự khoan dung của ông ta. Marx là
người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê tởm và điên cuồng”.
Có một điểm cần phải chỉ rõ ở đây, đó là thành viên giáo hội
Sa-tăng không phải là người theo chủ nghĩa duy vật; họ không chỉ không vô thần,
mà còn tin rằng có sự sống sau khi chết. Tín đồ Sa-tăng giáo tin vào sự tồn tại
của Thần, chỉ là họ thù hận Thần, muốn vượt qua Thần, leo lên trên cả Thần (ít
nhất là ngồi ngang hàng với Thần). Ví dụ trong kịch bản “Oulanem” nói về quan
hệ giữa mình và Sa-tăng giáo (“Oulanem” là một danh xưng nghi thức tôn giáo của
Sa-tăng, “Oulanem is a ritualistic name for Satan [2]“), Marx không phủ nhận sự
sống sau khi chết, mà cho rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận với Đấng
Tối Cao. Trong vở kịch này, tác giả đã bán linh hồn mình cho ma quỷ [1].
Sau khi Marx chết không lâu, người hầu gái cũ của Marx là
Helen Demuth nói: “Ông ta (Marx) là một người rất kính sợ thần. Khi mắc
trọng bệnh, ông ta một mình trong căn phòng, đầu cuốn dây băng và cầu khấn
trước ngọn nến đang cháy”. Theo phân tích, nghi thức cầu khấn của Marx
không phải là của Do Thái giáo (cũng không phải của Cơ Đốc giáo), mà rất có thể
là một loại nghi thức ma quỷ bí mật nào đó của Sa-tăng giáo. Thực sự Marx không
phải là một người vô thần.
Tháng 3 năm 1854, người con trai Edgar của Marx đã xưng hô
như sau trong câu mở đầu bức thư gửi cha mình: “Ác quỷ thân ái của con (My
dear devil)”. Bởi vì giáo đồ Sa-tăng giáo chính là gọi người mình thương
yêu như vậy, liệu có thể là trùng hợp chăng? Không chỉ có vậy, người con rể yêu
quý Edward Eveling của Marx cũng là một tín đồ Sa-tăng. Người bạn thâm giao
Proudhon (nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa người Pháp) của Marx cũng sùng bái
Sa-tăng như vậy. Nhà thơ Đức nổi tiếng Heinrich Heine, một người bạn thân khác
của Marx, cũng là một người sùng bái Sa-tăng, hơn nữa trong thơ còn công khai
ca ngợi Sa-tăng, nói Sa-tăng “là một người đàn ông, khả ái mê ly”.
Mặc dù Marx công khai bày tỏ sự thù hận đối với chủ nghĩa tư
bản trong các tác phẩm của mình, nhưng ông ta lại đầu cơ cổ phiếu vào thị
trường Luân Đôn và thua một lượng lớn tiền. Lúc may mắn thắng được, tháng 6 năm
1864, Marx viết trong bức thư gửi người chú Leon Phillips rằng ông ta thắng
được 400 bảng Anh trên thị trường cổ phiếu [2].
Marx được trợ giúp một lượng lớn tiền từ Engels, nhưng rõ
ràng là vẫn không thỏa mãn. Khi một người bác vợ 90 tuổi sắp chết, Marx viết
như sau trong bức thư gửi Engels: “Nếu như con chó già (old dog) đó chết,
thì tôi không ngại gì nữa”. Engels phúc đáp như sau: “Chúc mừng ông,
chướng ngại đối với di sản kế thừa của ông mắc bệnh rồi, tôi hy vọng ông ta vạ
đến nơi rồi”. Sau khi cụ già 90 tuổi mà Marx gọi là “con chó già” qua đời,
Marx lại viết: “Đây là một việc mừng. … Nếu không phải con chó già đó đem
một đống của giao cho bà chủ giữ nhà, thì vợ tôi còn có thể được nhiều hơn”.
Marx và Engels đều là phần tử trí thức cao cấp, thế nhưng
người ta phát hiện rằng, thư từ qua lại giữa họ đầy rẫy những từ ngữ hạ lưu
thấp hèn. Ngoại trừ một lượng lớn ngôn từ dâm ô ra, giữa họ không hề có bất cứ
bức thư nào trao đổi về niềm mơ ước chủ nghĩa xã hội nhân đạo.
Giờ lại xem thái độ của Marx đối với mẹ và vợ mình. Tháng 12
năm 1863, Marx viết trong bức thư gửi Engels: “Hai giờ trước, tôi đã nhận
được một bức điện báo, nói mẹ tôi đã chết rồi. … dưới rất nhiều tình huống,
điều mà tôi cần không phải là một người đàn bà già đó, mà là những cái khác. Tôi
nhất định phải lên đường đến Trier để tiếp thu di sản (ghi chú của người viết:
Trier là nơi Marx sinh ra).” Điều mà Marx quan tâm chỉ là di sản mà thôi. Ngoài
ra, quan hệ giữa Marx và người vợ Jenny là không tốt, bà đã hai lần ly thân ông
ta, nhưng sau đó lại trở về. Khi Jenny chết, Marx thậm chí còn không tham dự lễ
tang.
Marx không bao giờ thực hiện nghĩa vụ nuôi gia đình; bất
chấp mình có đủ tiền, Marx vẫn dựa vào Engels để sinh hoạt. Marx và vợ sinh
được sáu người con, trong đó ba người chết vì thiếu dinh dưỡng, còn hai người
con gái và một con rể thì tự sát (người con gái Eleanor từng nói khi Engels sắp
chết rằng cô suy sụp khi biết Marx có con riêng và sau đó tự sát) [2]. Marx còn
nát rượu nghiêm trọng [1].
Marx đối với người thân của chính mình còn tuyệt tình như
vậy, đối với người khác thì có thể tưởng tượng được. Ai cũng biết Marx là người
Do Thái, nhưng ông ta lại căm thù người Do Thái, còn viết riêng một cuốn sách
bài Do Thái, gọi là “Về vấn đề Do Thái” (On the Jewish Question). Ông ta thù
hận người Đức, người Trung Quốc, miệt thị: “Người Đức, người Trung Quốc,
người Do Thái đều là kẻ bán hàng rong”. Ông ta gọi người Nga là “bị cơm”, gọi
người Xla-vơ là “nhân chủng cặn bã”, là chủng tộc “phản động”, và nên bị hủy
diệt trong cơn bão táp cách mạng thế giới.
Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” và các cuốn sách khác,
Marx tuyên bố phấn đấu vì giai cấp vô sản, thế nhưng lại gọi giai cấp vô sản là “ngu
xuẩn, lưu manh, khó ngửi”, còn gọi người da đen là “đần độn”, thậm chí ủng
hộ chế độ nô lệ ở Bắc Mỹ…
Ngày 9 tháng 1 năm 1960, tờ báo Đức “Reichsruf” đã tiết lộ
một vụ bê bối lớn: Thủ tướng Áo Raabe đã từng bí mật gửi lãnh đạo Khrushchev
của Liên Xô một phong thư gốc của Marx. Trong thư đã chứng thực Marx từng là
một kẻ mật báo lĩnh thưởng của cảnh sát Áo, ông ta từng là gián điệp trong đội
ngũ cách mạng lưu vong tại Luân Đôn. Mỗi lần cung cấp một tin tức, Marx nhận
được 25 đồng tiền thưởng. Phạm vi mật báo của Marx liên quan đến những người
cách mạng lưu vong tại Luân Đôn, Paris và Thụy Sỹ [1].
Marx chết ngày 14 tháng 3 năm 1883, và được mai táng tại
nghĩa trang Highgate (Highgate Cemetary) ở Luân Đôn, với chỉ 6 người tham dự
tang lễ. Thế nhưng nghĩa trang Highgate này là trung tâm sùng bái Sa-tăng ở
Luân Đôn, rất nhiều nghi thức đen tối sùng bái ma quỷ đã được cử hành tại nghĩa
trang này.
Sự thực đã chứng tỏ rõ Marx là một tín đồ Sa-tăng giáo. Tất
nhiên Marx không dám thừa nhận, và để che đậy, ông ta mới nói dối mình là người
vô thần. Marx vận dụng thuần thục các mánh khóe của Sa-tăng — bịa đặt và lừa
dối. Ở một góc độ khác, Marx là giáo chủ của đảng cộng sản, dùng vô thần luận,
duy vật luận để che đậy diện mạo thật sự của ma giáo cộng sản, để mong đạt được
mục đích hủy diệt tâm linh của nhân loại.
Mở đầu “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Marx viết: “Một
bóng ma, bóng ma chủ nghĩa cộng sản đang làm run sợ lục địa Châu Âu”. Không
ít người cảm thấy nghi hoặc về đoạn này. Hiện tại chúng ta đã minh bạch rồi,
“bóng ma chủ nghĩa cộng sản” này kỳ thực là Sa-tăng trong tâm Karl Marx. “Cửu bình cộng sản đảng” đã nói rõ
điều này cho mọi người, gọi là “tà linh cộng sản”.
Marx đối với nhân loại không hề có yêu thương, mà chỉ có thù
hận. Hơn 100 năm qua, chủ nghĩa cộng sản thực tiễn thực hiện giấc mộng của tín
đồ Sa-tăng Marx đã đem đến cho nhân loại tai ương và thống khổ lớn phi thường. May
có “Cửu bình cộng sản đảng”
khiến ngày càng nhiều người Trung Quốc thức tỉnh, thoái xuất đảng, đoàn, đội
của Trung Cộng, thoát khỏi khống chế của Sa-tăng, từ đó được tân sinh.
...................................
Tham khảo tư liệu:
[1] Von Richard Wurmbrand, Marx and Satan (Marx và Sa-tăng),
Living Sacrifice Book Co (December 1986).
[2] David Allen Rivera, Final Warning: A History of the New
World Order, Conspiracy (February 2004). Chương 6: Khởi nguyên của chủ nghĩa
cộng sản.
[3] Rolv Heuer trong cuốn sách “Thiên tài và phú ông” đã
giới thiệu khi Marx học đại học Berlin, cha Marx cấp cho Marx mỗi năm 700 đồng
bạc tiền tiêu vặt. Đây là một con số rất lớn, bởi vì thời bấy giờ, chỉ 5% người
có thu nhập hơn 300 đồng bạc/năm.
“Con đường thành ma của Karl Marx” (trích bộ phận quan trọng)
(Trích đoạn)
Trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), Marx viết:
Thượng Đế đã lấy đi của ta tất cả,
Trong sự nguyền rủa và tra tấn của định mệnh.
Tất cả thế giới đã ra đi không trở lại!
Ta không còn lại gì ngoài thù hận!
Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời cao,
Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh,
Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp,
Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên.
Kẻ nhìn vào nó với đôi mắt khỏe mạnh,
Sẽ trở thành xanh đen như chết và câm lặng;
Chiếm cứ bởi sự mù quáng và lạnh lẽo của tử vong,
Có lẽ niềm hạnh phúc sẽ chuẩn bị phần mộ cho hắn.
Toàn văn bản tiếng Anh bài thơ có thể được tra cứu tại:
http://www.marxists.org/archive/marx/works/1837-pre/verse/verse11.htm
(Trích đoạn)
(Trích đoạn)
Trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), Marx viết:
Thượng Đế đã lấy đi của ta tất cả,
Trong sự nguyền rủa và tra tấn của định mệnh.
Tất cả thế giới đã ra đi không trở lại!
Ta không còn lại gì ngoài thù hận!
Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời cao,
Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh,
Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp,
Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên.
Kẻ nhìn vào nó với đôi mắt khỏe mạnh,
Sẽ trở thành xanh đen như chết và câm lặng;
Chiếm cứ bởi sự mù quáng và lạnh lẽo của tử vong,
Có lẽ niềm hạnh phúc sẽ chuẩn bị phần mộ cho hắn.
Toàn văn bản tiếng Anh bài thơ có thể được tra cứu tại:
http://www.marxists.org/archive/marx/works/1837-pre/verse/verse11.htm
(Trích đoạn)
Vào thời học sinh, Marx đã viết một kịch bản, có lẽ là đáp
án. Kịch bản này tên gọi là “Oulanem”. Để hiểu được đầu đề này thì phải biết sự
việc như sau:
Sa-tăng giáo có một loại nghi thức tế lễ gọi là “tụ hội đen
tối”. Trong nghi thức này, thầy tế của Sa-tăng giáo tiến hành tụng niệm vào lúc
nửa đêm. Cây nến màu đen bị đảo ngược và đặt lên giá cắm nến, trong khi thầy tế
mặc ngược áo trường bào, nhìn vào cuốn sách cầu nguyện và tụng niệm, nhưng thứ
tự niệm là hoàn toàn đảo lại, bao gồm thánh danh của Thần, Chúa Jêsus, và Đức
Mẹ Maria, đều đảo lại để niệm. Một cây thập tự giá được treo ngược hoặc bị giẫm
ở dưới chân; một vật thâu trộm thánh khí của giáo đường được khắc tên của
Sa-tăng, dùng để trao đổi giả. Trong “tụ hội đen tối” này, một bộ Thánh Kinh sẽ
bị thiêu hủy. Tất cả những người có mặt sẽ phát thệ phạm vào bảy tội tổ tông
trong giáo nghĩa của Thiên Chúa giáo, đồng thời thề vĩnh viễn không làm việc
tốt. Sau đó, họ sẽ tiến hành túng dục cuồng hoan.
“Oulanem” chính là đem Thánh danh “Emmanuel” ra viết bậy bạ.
“Emmanuel” là một tên của Chúa Jesus trong Thánh Kinh, theo tiếng Hebrew thì có
nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Phép thuật hắc ám cho rằng loại đảo
ngược này là hữu hiệu.
Tác phẩm “Oulanem” của Marx có thể tra cứu trên mạng
Marxist:
Dù sao đây cũng chỉ là màn kịch đầu tiên (Act I), nội dung
đằng sau vẫn còn chưa đưa lên mạng, tại sao vậy?
(Trích đoạn)
Để lý giải kịch bản “Oulanem”, chúng ta nhất định phải dựa
vào một màn tự bạch kỳ dị của Marx. Trong bài thơ “Người diễn tấu” (The
Fiddler), Marx viết:
Sao vậy! Ta lao xuống, lao xuống mà không trượt
Thanh kiếm đen máu của ta đâm vào tâm hồn ngươi.
Thượng Đế khéo léo kia không muốn hay là quản,
Nó nhảy vào não từ đám sương đen của địa ngục.
Tới khi trái tim mê mẩn, tới khi cảm xúc dâng trào:
Ta đã bán mình cho ma quỷ Sa-tăng.
Ngài viết các ký hiệu, bấm thời gian cho ta,
Ta chơi khúc quân hành Thần Chết nhanh và rảnh.
Đoạn này càng thể hiện rõ hơn nữa, Marx đã thừa nhận mình có
khế ước với Sa-tăng. (Người viết bổ sung thêm: Marx đã thừa nhận “Sa-tăng cấp
cho ông ta một thanh kiếm, lại cấp ấn ký cho ông ta” [1])
Bản tiếng Anh tác phẩm “Người diễn tấu” (The Fiddler) của
Marx có thể được tham chiếu tại:
Những câu này mang theo một hàm nghĩa đặc thù: Trong nghi lễ thăng cấp của Sa-tăng giáo, để thực hiện thuật phù thủy, một thanh kiếm sẽ được bán cho người thăng cấp. Còn kẻ thăng cấp trả tiền và dùng máu của mình để ký tên trên khế ước với ác ma; sau đó, khi người này chết, linh hồn anh ta sẽ thuộc về Sa-tăng.
Dưới đây là trích dẫn kịch bản “Oulanem” của Marx:
Họ cũng là Oulanem, cũng là Oulanem!
Có cái chết vang trong cái tên đó, vang lên
Cho tới khi người ti tiện mang nó kết thúc.
Nhưng đợi xem, ta đang có nó! Rõ như không khí,
Chắc như xương ta, nó thăng lên từ linh hồn ta.
....…
Nhưng ngươi, trong cánh tay trẻ khỏe của ta,
Và chúng xoắn lên điên cuồng ở trước ngực.
Trong bóng đêm, vực không đáy mở ra và nuốt trọn chúng ta,
Nếu ngươi chìm xuống, hãy cười, ta sẽ theo ngươi,
Và thì thầm với ngươi: “Đi xuống! Đi xuống với ta! Đồng chí!”
Trong Thánh Kinh mà Marx học ở đại học nói ma quỷ bị một vị
thiên sứ quăng vào vực không đáy (Khải Huyền, 20:3). Vực không đáy này là dành
cho ma quỷ và các thiên sứ sa ngã. Marx muốn đưa toàn nhân loại vào trong địa
ngục này.
Trong kịch bản này, ai đang đại biểu cho lời thoại của Marx?
Từ ngôn ngữ của người trẻ tuổi, chúng ta có lý do để nghĩ rằng: Ông ta muốn ném
toàn nhân loại vào ngục không đáy, còn bản thân ông ta đang cười những người bị
thuyết vô thần dụ dỗ. Ngoại trừ nghi lễ thăng cấp của giáo hội Sa-tăng ra, trên
thế giới không có bất cứ một loại lý niệm nào như vậy.
Trong kịch bản “Oulanem”, khi Oulanem chết, Marx mô tả:
Tất cả đã mất! Thời giờ đã mãn, và thời gian
Dừng lại. Vũ trụ tầm thường này sụp đổ.
Ngay khi ta siết chặt vĩnh hằng và hét lên,
Câu nguyền rủa thật lớn vào tai con người.
Marx thích lặp lại câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết
thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy diệt”. Ông ta thích trích dẫn câu nói
đó.
Hết thảy những thứ này là chỉ điều gì? Công nhân, nông dân,
trí thức, thương nhân? Người tin chủ nghĩa cộng sản? Hay là toàn nhân loại?
(Người viết bổ sung thêm: Nguyền rủa cả nhân loại đều bị hủy diệt, chỉ có ma
quỷ Sa-tăng mới có ý tưởng như vậy [2])
(Trích đoạn)
Thành viên Sa-tăng giáo không phải là người duy vật, họ tin
rằng có sự sống sau khi chết. … cho rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận
đối với Đấng Tối Cao. Đối với ma quỷ, “vĩnh hằng” đồng nghĩa với “khổ hình”.
Chính vì vậy ma quỷ mới trách mắng Chúa Jesus: “Hỡi Con Đức Chúa Trời,
chúng tôi nào có gây sự gì với Ngài chăng? Ngài đến đây để hình phạt chúng tôi
trước kỳ sao?” (Phúc Âm Matthew, 8:29).
Marx cũng có cùng một loại bất an
như vậy. Trong “Oulanem”, ông ta viết:
Vĩnh hằng! Nó là nỗi đau vĩnh hằng,
Cái chết không thể tưởng tượng, đo lường được!
Một mưu kế tà ác được trù tính để chế nhạo chúng ta,
Không gì ngoài máy đồng hồ, cỗ máy câm lặng rung lên
Trở thành lịch — trò hề của thời gian; trở thành,
Chỉ là thứ gì đó nhờ đó ít nhất có thể xảy ra;
Và để hủy diệt, chỉ có thể là hủy diệt!
(Trích đoạn)
Khi Marx viết “Oulanem”, cậu thanh niên trẻ này mới chỉ gần
18 tuổi. Lúc ấy, kế hoạch ấp ủ cả một đời của ông ta đã thể hiện rất rõ ràng.
Marx không hề ảo tưởng vì nhân loại, vì giai cấp vô sản, hoặc vì chủ nghĩa xã
hội mà phục vụ. Ông ta muốn hủy diệt cả thế giới, làm rung động cả thế giới,
lấy đau đớn, rối loạn làm cơ sở để dựng ngai của ông ta.
Lời kết:
Marx, chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản, là tổ chức hữu hình
mà Sa-tăng kiến lập tại thế gian con người. Kể từ khi sinh ra, nó đã lấy phản
đối tín ngưỡng chính thống và văn hóa truyền thống làm mục đích, lấy phá hoại
luân lý chính thường và đạo đức nhân loại làm căn bản, giết người hại mệnh, họa
loạn thế gian. Phàm là người gia nhập tổ chức này, thì chính là thành viên của
ma giáo (bị nhận ấn ký), chắc chắn phải uống rượu thịnh nộ của Thượng Đế, trở
thành vật hy sinh của ma giáo. Bởi vậy xóa thú ấn, thoái xuất ma giáo cộng sản
là điều rất quan trọng để được tân sinh.
Nguồn: CĐCG Hamburg