Theo bước chân phát triển của nhân loại, triết học đã đồng hành cùng nhân loại trên hai ngàn năm. Ngày nay triết học không còn gì là mới mẻ cả. Mấy trăm năm trước B.C., các triết gia Socrates, Plato,… Aristotle ở phương Tây; Khổng Tử, Trang Tử, Lão Tử ở phương Đông đã đề xướng những tư tưởng, chủ thuyết để đưa con người trong xã hội vào nề nếp trong cư xử, những chính sách quản lý trong bộ máy chính quyền. Có rất nhiều người đã được bảng vàng đề danh trong vườn hoa triết học với những tư tưởng, chủ thuyết do họ tìm ra và khởi xướng.
Trong tương lai, sẽ còn nhiều người được “đề danh” trong vườn hoa triết học. Một khi đã được “đề danh” thì tên tuổi các triết gia và chủ thuyết của họ vĩnh viễn đồng hành cùng với nhân loại. Có thể ví các triết gia, chủ thuyết, và tư tưởng của họ là những pho sách quý trong thư viện và sẵn sàng rộng mở cho những ai thích đọc sách, nghiên cứu để tìm ra những cái hay, cái đẹp cho mình, cho đời, cho nhân loại. Nhưng sẽ là một sai lầm nghiêm trọng khi có ai đó chọn ra một tư tưởng, chủ thuyết nào đó trong vườn hoa triết học để áp đặt triệt để vào một xã hội. Rất tiếc, chủ nghĩa Cộng sản đã dựa hoàn toàn vào học thuyết của Karl Marx, bổ sung bởi Engel và Lenin để cưỡng bức xây dựng nên một mô hình xã hội. Hậu quả của nó thì nhân loại ai cũng biết; từ những vụ đàn áp ở Đông Âu, nhà tù Gulag ở Liên Xô cũ, cải cách ruộng đất ở Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam, cải cách văn hóa ở Trung Quốc và sự diệt chủng của Khmer đỏ tại Campuchia… Ngày nay, nhân loại đã nhìn nhận sự sai lầm của việc áp dụng học thuyết duy nhất qua sự sụp đổ của cả hệ thống cộng sản từ 1989 đến 1991. Những nước cộng sản còn lại muốn tồn tại thì chỉ còn cái tên với hệ thống chính trị là còn mang hơi hướng của cộng sản, còn tất cả đều bị biến thái. Bài viết này đưa ra một số nhìn nhận về những sai lầm của việc áp dụng duy nhất học thuyết này, mong đóng góp thêm một tiếng nói ở một số khía cạnh để hiểu hơn sự tai hại của điều đó.
I. Cái sai thứ nhất: Học thuyết Marx duy nhất đúng
Từ ngàn năm trước đến nay, những bộ óc kiệt xuất của nhân loại đã khai phá và xây dựng những nền tảng kiến thức đóng góp cho sự hiểu biết và phát triển của xã hội loài người trong tất cả các lĩnh vực như khoa học tự nhiên, văn chương, âm nhạc, hội họa, y khoa, quân sự, triết học… Người đi trước, kẻ đi sau đều được nhân loại ưu ái một cách công bình. Nhà bác học Galileo vĩ đại với những nghiên cứu về vũ trụ. Nhà bác học Newton sống mãi với nhân loại với ba định luật về lực và các công trình toán học của ông. Dẫu như thế, trong trái tim nhân loại vẫn có chỗ đứng cho nhà bác học Einstein, dù ông có đi sau hai nhà bác học Galileo và Newton hàng trăm năm. Những nghiên cứu, phát minh của nhà bác học Einstein bổ khuyết cho những gì mà hai nhà bác học Galileo và Newton còn thiếu! Tương tự vậy, Mozart vĩ đại nhưng Beethoven cũng vĩ đại không kém! Van Gogh là một thiên tài hội họa nhưng Claude Monet và Picasso cũng lừng danh thiên hạ trong làng vẽ.
Triết học cũng không là ngoại lệ. Khổng Tử nổi tiếng nhưng Trang Tử, Lão Tử vẫn cùng song hành tồn tại! Immanuel Kant vĩ đại nhưng Karl Marx vẫn được biết đến! Trước Marx có những triết gia vĩ đại và sau Marx vẫn có nhiều triết gia nổi tiếng. Vậy tại sao chủ nghĩa cộng sản chỉ biết có mỗi Marx, cho rằng chủ nghĩa Marx là duy nhất đúng và áp dụng làm kim chỉ nam để xây dựng xã hội?
Ngoài ra, triết học không phải là toán học! Đúng hay sai trong triết học là do sự chiêm nghiệm, nhận thức của mỗi con người. Sẽ không bao giờ có sự đồng ý một cách hoàn hảo khi bàn về triết học. Do đó, đem một học thuyết trong triết học áp đặt làm nền tảng cho sự vận động của xã hội là tự bịt mắt mình trước những lỗ hổng của học thuyết đó, khiến xã hội sẽ bị phát triển lệch lạc và đến một giai đoạn khi sự lệch lạc đủ lớn thì cấu trúc xã hội sẽ sụp đổ. Điều này không áp dụng riêng với chủ nghĩa Marx, mà còn đúng với tất cả các chủ thuyết khác, triết gia khác! Đạo Khổng được áp dụng làm nền tảng cho các triều đại phong kiến ở Trung Quốc, Việt Nam. Các triều đại phong kiến đó hết thịnh rồi suy, bị diệt vong và bị thay thế bởi triều đại khác. Cái vòng luẩn quẩn đó chưa dừng lại nếu đạo Khổng vẫn được áp dụng như là một học thuyết duy nhất đúng.
II. Cái sai thứ hai: Dùng học thuyết Marx để xóa bỏ giai cấp
Con người không ai giống ai. Người thì thông minh, kẻ có tài, anh bất tài….. Và tất cả những phẩm chất đó sẽ liên kết con người trong xã hội thành và bù đắp lẫn nhau để tất cả mọi người trong xã hội cùng tồn tại. Người thông minh thì làm Viện sĩ, Giáo sư; người kém trí thì đi quét rác, làm thợ xây nhà… Như vậy, xã hội, một cách tự nhiên, tự nó hình thành nên những gia cấp lao động khác nhau. Cũng chả sao cả và cũng chả cần phải quan tâm hay lo lắng. Tất cả mọi người đều đóng góp cho xã hội và đều đáng được trân trọng. Chỉ đáng phê bình và đáng hổ thẹn nếu chúng ta không cống hiến hết mình, không sống hết mình, và không cố gắng hết mình những gì mà mình có thể mà thôi.
Từ diễn biến tự nhiên này, trong một xã hội ắt phải có kẻ làm chủ và người làm công. Không có gì là sai, hay là tội nếu anh muốn và trở thành người làm chủ. Ba người cùng có số vốn giống nhau; sau ba năm, số tiền của mỗi người sẽ khác nhau. Vì hiểu biết kinh doanh mỗi người mỗi khác; cộng với sự cần cù, chi tiêu dè xẻn và may mắn trong việc mua bán. Người sẽ giàu hơn và đáng được làm chủ, kẻ không may mắn thì phải đành đi làm công. Marx đã sai lầm nghiêm trọng khi chủ trương phá bỏ giai cấp, xóa sổ giới chủ nhân. Sẽ đúng hơn, hay hơn nếu Marx chủ trương chỉ đấu tranh quyền lợi với giới chủ nhân thay vì đấu tranh xóa bỏ giới chủ nhân. Một sai lầm trong học thuyết của Marx là chỉ chủ trương đấu tranh cho “giai cấp công nông” còn bỏ qua các tầng lớp khác. Điều này thật quá vô lí. Đội ngũ Giáo sư, các thương gia, những người lao động nghệ thuật, không đáng được bảo vệ hay sao? Hay họ không phải là người? Ở Việt nam, đã có thời gian người ta gọi một cách mỉa mai giáo viên, nhà văn, nhà thơ là thợ dạy, thợ viết văn, thợ viết thơ để được đứng vào hàng ngũ những người được Đảng ưu ái.
Khi một tập thể sống tìm cách tiêu diệt, tìm cách xóa sổ một tập thể sống khác thì ắt không thể chỉ dùng lời nói; và như vậy, việc dùng bạo lực là điều không thể tránh khỏi trong quá trình đấu tranh. Mà việc gì có bạo lực thì chắc không thể nào kết thúc tốt đẹp, êm thấm; phải có kẻ rơi đầu, đổ máu trong tang thương. Đó là khởi nguồn của những cuộc thanh trừng đẫm máu, những cuộc nội chiến tương tàn trong hệ thống các nước cộng sản mà ở Việt Nam là cải cách ruộng đất, thảm sát Mậu Thân, đại lộ kinh hoàng, cải tạo công thương.
Khi giới chủ đã được hạ bệ, không còn giai cấp “bóc lột” nữa, giai cấp công nhân nắm quyền lãnh đạo, họ trở thành những ông chủ và “làm chủ tập thể”. Lãnh đạo sẽ từ trong tập thể công nhân với đầy đủ lý tưởng của chủ nghĩa Marx. Từ đây, mâu thuẫn, bất cập sẽ xảy ra mà giới công nhân (hay giới bị trị) không thể nào giải quyết được.
Bất cập thứ nhất ở quyền lợi cho lãnh đạo. Khi một công nhân nhận vai trò lãnh đạo công ty thì theo học thuyết Marx, để triệt tiêu ý nghĩa của từ “bóc lột”, anh ta cũng chỉ được nhận lương giống với người lao động kèm theo một khoản trợ cấp trách nhiệm rất thấp. Nhưng, bỗng nhiên, anh ta nhận ra rằng người lãnh đạo có quá nhiều trách nhiệm, phải lao động quá sức tưởng tượng, vất vả gấp trăm lần người công nhân bình thường trong công ty trong khi anh ta không được hưởng đúng với giá trị lao động bỏ ra. Anh ta sẽ phải tìm cách đòi lại cho đủ với công sức của mình. Trong khi luật lệ không cho phép “người lãnh đạo mới” được hưởng những quyền lợi đó một cách hợp pháp, những người lãnh đạo từ giai cấp công nhân này sẽ biển thủ công quỹ, tham ô và không cần quan tâm đến trách nhiệm với công việc. Mọi sự hủ bại của giới lãnh đạo, quan chức xuất phát từ đây và điều này giải thích tại sao các chính phủ cộng sản kêu gọi chống tham nhũng, bạch hóa tài sản quan chức mà không bao giờ có thể làm được.
Bất cập thứ hai là mâu thuẫn về trình độ lãnh đạo. Khi giới công nhân bầu ra người lãnh đạo từ trong tập thể của họ thì người lãnh đạo dù có giỏi hơn họ cũng còn thiếu kiến thức, kinh nghiệm trong quản lí, điều hành và kinh doanh. Như vậy anh ta sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho công ty. Tệ hại hơn, anh ta sẽ làm thiệt hại cho công ty với tư duy làm tới đâu học tới đó, làm tới đâu rút kinh nghiệm tới đó. Lợi đâu chưa thấy, nhưng cái kinh nghiệm “hỏng đâu sửa đấy, sửa đâu hỏng đấy, hỏng đấy sửa đâu” là thực trạng nhãn tiền ở các công ty nhà nước ở Việt nam hiện nay. Hiệu quả công việc thấp, kinh doanh luôn lỗ và nhà nước luôn phải lấy tiền thuế của dân ra để bù lỗ cho “đám con cưng” của mình.
Bất cập thứ ba là “phê bình và tự phê bình”. Giới công nhân kia xem giới chủ nhân là “kẻ địch”; nhưng bây giờ thì không được nữa vì người giám đốc mới này là “đồng chí” với họ. Và như vậy giới công nhân không có “chính nghĩa” khi muốn phê bình, phản đối vị “lãnh đạo” mới này! Tự tung, tự tác, và xem thường vương pháp là điều không thể tránh khỏi vì vị “lãnh đạo” mới này có đầy đủ những lý do hợp lệ để làm mưa làm gió mà giai cấp công nhân không thể nói được. Đó là núp dưới chiêu bài “vì giai cấp công nhân”! Vâng, một khi vị “chủ nhân” mới đã “vì giai cấp công nhân” thì giới công nhân không thể nào phàn nàn, kêu ca gì được nữa!
Tình trạng tương tự trong tầng lớp nông dân khi xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp. Chủ nghĩa Marx đã tự mâu thuẫn với chính mình khi tìm cách xóa bỏ giai cấp trong xã hội để hình thành một xã hội không giai cấp và chỉ tồn tại duy nhất “giai cấp công nông” mà thôi!
III. Cái sai thứ ba: Dùng học thuyết Marx để định hướng suy nghĩ cho toàn xã hội
Ngay sau khi Hoa Kỳ được thành lập, Thomas Jefferson đã viết những bài báo để khẳng định một chân lí là tư duy của con người không thể bị kiểm soát và nhà nước được thành lập nên chỉ để làm sao những tư duy đó đóng góp tích cực nhất cho xã hội cũng như hạn chế nhất những tác hại của nó. Với nền tảng suy nghĩ nhân văn này, nước Mỹ đã được xây dựng để phát triển dân chủ, tự do theo đúng nghĩa của những từ này. Sự ép buộc để định hướng suy nghĩ của tất cả mọi người trong xã hội theo một chủ thuyết sẽ gây ra sự phản kháng mà cuối cùng là sự lật đổ chính quyền.
Lịch sử đã cho chúng ta thấy những gì áp đặt thì luôn tạo ra sự phản kháng. Tại sao Chu Nguyên Chương, vua đầu tiên nhà Minh bên Trung Quốc, lại khởi nghĩa chống lại triều Nguyên? Tại sao người Mỹ chống lại triều đình Anh và lập quốc? Tại sao các dân tộc bị áp bức đã lần lượt lấy lại được tự do, độc lập của họ mà trong đó Việt nam là một ví dụ hùng hồn? Tất cả đều do hai chữ “áp đặt”! Hệ thống các nước cộng sản đã sai lầm khi áp dụng học thuyết Marx để áp đặt suy nghĩ cho tất cả mọi người về một hình thái xã hội lí tưởng không tưởng, không dựa vào sự phát triển tự nhiên của xã hội (thượng tầng và hạ tầng cơ sở) và tri thức của con người. Những cuộc cách mạng năm 1956 tại Hungary, Ba Lan; 1968 tại Tiệp Khắc, Công đoàn độc lập Ba Lan, những cuộc trốn chạy của người dân Đông Đức sang Tây Đức qua bức tường Berlin là những bằng chứng về phản kháng lên sự áp đặt. Để quản suy nghĩ của tất cả người dân trong xã hội, chính quyền đã phải xây dựng một lực lượng mật vụ khổng lồ như Stasi-Đông Đức, KGB-Liên Xô hay công an mật ở Việt Nam với tầng tầng, lớp lớp hệ thống an ninh các cấp. Việc nuôi hệ thống bảo vệ quyền lợi cho giới cầm quyền này tiêu tốn ngân sách quốc gia khủng khiếp. Cùng với những giới hạn trong phát triển kinh tế xã hội như đã được nêu ở phần trên; dần dần ngân sách quốc gia sẽ đi vào khủng hoảng nếu không có nguồn hỗ trợ bên ngoài. Các nước Đông Âu duy trì được hiện trạng chính quyền cộng sản là do sự có mặt của xe tăng và lính Liên Xô cùng với những ngân khoản viện trợ khổng lồ. Bản thân Liên Xô, sau hàng chục năm gắng gượng thì đến đầu những năm 1980, cũng không lo nổi cho mình và phải cải tổ, để kệ cho các nước Đông Âu tự lo cho số phận của mình. Sự thiếu hụt nguồn viện trợ tài chính đã khiến cho hệ thống an ninh không kiểm soát được người dân như trước nữa. Quả bong bong độc tài bị nổ tung. Chỉ trong năm 1989, tất cả các nước cộng sản Đông Âu tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, đặt Đảng cộng sản ra ngoài vòng pháp luật và các lãnh tụ cộng sản bị xét xử và trừng trị theo đúng tội lỗi của họ đã gây ra cho nhân dân họ theo đúng luật pháp do chính các lãnh tụ cộng sản này đặt ra. Sự áp dụng học thuyết Marx như một chủ thuyết duy nhất đúng của hệ thống các nước cộng sản là một sai lầm mà có thể nói “tự đào huyệt chôn mình” chứ không vì các yếu tố bên ngoài.
Thay lời kết
Marx được áp dụng và đồng hành cùng nhân loại chưa được một thế kỷ. Những gì tốt đẹp về Marx đã được rao giảng đến nhiều nước, nhiều triệu người. Tiếc thay, sự thật và kết quả lại không đúng như lời nói. Phúc lợi xã hội ở những nơi có Marx ngự trị quá thấp, quá tệ so với những nơi mà Marx từng xem là đồ rác rưởi. Marx muốn có một “xã hội công nhân” để mọi người được hưởng quyền lợi, phúc lợi xã hội như nhau nhưng có thể ông đã quên rằng “lượng đổi, chất đổi” và những người áp dụng học thuyết của ông cũng quên điều đó. Vì vậy, hệ thống các nước cộng sản chỉ có thể lụi tàn chứ không thể phát triển khi chưa có nền tảng kinh tế mạnh.
Một hệ quả của nền kinh tế yếu là sự suy đồi nhân văn và cuộc sống tinh thần của mọi người. Có một lần, chúng tôi hỏi một số người bạn đang thành danh và thành công trong nước rằng: “Tại sao các mẫu quảng cáo tìm việc trong nước hiện nay đều có ghi phần giới hạn tuổi, giới tính, và hình thể?”. Điều này gần như không được phép trong xã hội văn minh, trừ trường hợp công việc đòi hỏi những yêu cầu sức khỏe khắt khe. Chúng tôi có nói với họ rằng những điều này là không nên. Vì công ty cần người làm được việc chứ không phải mướn người vô để ngắm, để nhìn! Nhưng những người bạn của chúng tôi xem đấy là chuyện bình thường và còn bảo là chúng tôi đang tìm cách giải quyết những vấn đề “không tưởng”!!! Họ không hiểu rằng việc đưa phần tuổi, giới tính, hình thể lên mục quảng cáo tuyển dụng là một điều sỉ nhục đến nhân phẩm con người.
Ngoài ra, khi chúng tôi nói rằng “xã hội, công ty nên nâng đỡ những người khiếm khuyết về hình thể trong công việc” thì một anh bạn của tác giả bảo rằng “mỗi hoàn cảnh mỗi khác”! Dẫu rằng tất cả họ đều được đào tạo từ A tới Z với tư tưởng đầy “nhân bản theo chủ nghĩa Marx” và tin tưởng nó là tốt đẹp nhất. Nhưng thật là đáng buồn vì những gì họ được dạy, được nghe, những gì tốt đẹp nhất mà họ hình dung còn thua xa tiêu chuẩn của các xã hội văn minh lắm. Người ta đã nhân danh Marx để đưa học thuyết của ông vào đất nước chúng tôi. Nhưng, sau mấy chục năm trời thực hiện thì kết quả là như thế đấy! Bạn sẽ bị loại khi đi xin việc chỉ vì bạn đã quá bốn mươi lăm tuổi; vì bạn không có ngoại hình đẹp và vì bạn là nam hay nữ!”