Dân Làm Báo nhận được 3 bài viết của ông Nguyễn Anh Dũng - HV Hội Cựu Chiến binh Việt Nam nói về tư cách người lãnh đạo, tố cáo Nguyễn Văn Hiện UV TW Đảng, phó BCĐ cải cách tư pháp VP chủ tịch nước và đưa ra danh sách của những người tham nhũng. Dân Làm Báo xin gửi đến các bạn đọc.
***
Nguyễn Anh Dũng - Lãnh đạo là một khái niệm chỉ người có chức vụ đứng đầu một đơn vị, một cơ quan , môt tổ chức nào đó có quyền hạn và nghĩa vụ nhất định, có đủ đức tài... là tấm gương sáng cho mọi người tin tưởng học tập và làm theo.
1. Ngược dòng lịch sử:
Thời phong kiến, cứ mỗi lần đất nước có giặc ngoại xâm, các anh hùng hào kiệt lại đứng lên, lãnh đạo nhân dân chống giặc, lập nên những chiến công hiển hách giữ yên giang sơn đất nước. Dựng nên nhà nước phong kiến đứng đầu là một vị vua anh minh như đức vua Lê Lợi, Quang Trung... Khi họ mất đi được nhân dân lập đền tôn thờ là các bậc thánh hiền để muôn đời tưởng nhớ.
Đất nước yên vui trong cảnh thái bình thịnh trị một thời gian nhưng các bậc quan lai hậu duệ đời sau đã sa vào ăn chơi hưởng thụ, bỏ mặc muôn dân, đất nước rơi vào cảnh đói khổ, lầm than, giặc giã cướp bóc nổi lên... dẫn đến các cuộc chiến tranh giành quyền lực. Điển hình là cuộc nổi loạn 12 xứ quân (năm 944 - 968), nội chiến Lê – Mạc (năm 1533 – 1592), Trịnh - Nguyễn phân tranh (năm 1627 - 1672)...
2. Nhà nước cộng sản Việt Nam:
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo khối đoàn kết dân tộc, trong mặt trận Việt Minh. Lợi dụng thời cơ vùng lên cướp chính quyền 8/1945 lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và kêu gọi toàn quốc kháng chiến, chấm dứt chiến tranh vào năm 1954. Để rồi sau đó lại đưa miền bắc vào cuộc “Cải cách ruộng đất” long trời lở đất, xoá bỏ công thương nghiệp tư bản tư doanh, cải tạo nhân văn giai phẩm, xây dựng kinh tế tập thể hợp tác xã nông nghiệp với bao nỗi oan sai. ĐCSVN đã đầy đọa cả dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh, được gọi là giải phóng miền nam.
2.1. Thiết lập chế độ độc tài đảng trị:
Sau khi kết thúc cuộc nội chiến Bắc - Nam ngày 30/4/1975, đảng Cộng Sản, bằng việc ép buộc đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội (những đảng cuối cùng trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà), tự tuyên bố giải thể năm 1988 đã phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, để dành độc quyền lãnh đạo.
Trước đây, Đảng cộng sản kêu gọi nhân dân đấu tranh đánh đuổi đế quốc Pháp-Nhật, lật đổ triều đình phong kiến với một ông vua đứng trên pháp luật bằng “Thánh Chỉ” thì nay lại lập nên một triều đình cộng sản có quá nhiều “Hoàng Thượng” với cách tổ chức: Tất cả các chức vụ gọi là lãnh đạo từ trung ương tới địa phương, trong các cấp, các ngành đều phải do các đảng viên nắm giữ.
2.2. Ngang nhiên vi phạm Hiến pháp và luật:
“Nước cộng hoà XHCN Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền... Mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” (Điều 1, 3 HP).
“Đảng CS Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, theo chủ nghĩa Mac-Lenin ... Mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điêù 4 HP).
“Việt Nam là nhà nước pháp quyền ... Quản lý xã hội bằng pháp luật” (Điều 2, 12 HP) Nhưng sự thật thì ngược lại:
2.2.1. Lợi ích của đảng là trên hết: Nghị quyết của quốc hội, Hiến pháp và pháp luật của nhà nước ... chỉ là điều không tưởng bởi vì quyền lực thực sự nằm trong tay các đảng viên là lãnh đạo. Họ tự do hành động theo ý muốn cá nhân, bởi vì khi làm việc sai trái hoặc phạm tội, nếu không bị kỷ luật đình chỉ sinh hoạt đảng, thì pháp luật cũng không xử lý được. “Hoãn phiên toà vì các bị cáo chưa bị đình chỉ sinh hoạt đảng” (Báo Pháp Luật VN ngày 22/11/2007).
2.2.2. Không có độc lập, chủ quyền: Mặc dù trên đất nước Việt Nam không còn tập đoàn người nước ngoài cai trị, song vẫn bị tư tưởng của chủ nghĩa Mac-Lenin về bạo lực thống trị. Họ cho rằng “Thông qua đấu tranh giai cấp, vũ trang giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính vô sản là có thể cải tạo xã hội”. Nên không thể hiểu nổi “Chuyên chính vô sản không phải chỉ là quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù... mà vấn đề là phải đưa ra được một phương thức sản xuất với năng xuất lao động cao”... (Giáo trình chính trị - kinh tế học).
Thực tế đã chứng minh: Nhà nước cộng sản Việt Nam đã bất lực khi Trung Cộng “Dậy cho Việt Nam một bài học” bằng cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, tiếp tục lấn chiếm cướp đoạt biên giới, hải đảo, xua đuổi các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam như hãng dầu BP, hãng Exxonmobi, bị áp đặt trong các dự án Buxite tại Tây Nguyên, thuê lâu năm đất rừng tại các tỉnh ở biên giới phía bắc, bộ đội và nhân dân bị giết hại, cấm đoán ngay trên lãnh thổ Việt Nam.
2.2.3. Không có tự do, hạnh phúc: Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng nhắc lại tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”....
Tuy nhiên ngày nay Dân oan là nạn nhân của các bản án, quyết định trái pháp luật (Đ 295, 296 LHS) đã trở thành một tầng lớp dân cư mới, mà chỉ ở Việt Nam mới có. Khi người dân thực hiện các quyền được quy định trong luật để “Phòng vệ chính đáng” (Điều 15 LHS) bằng đơn thư khiếu tố, công khai minh bạch sự việc trên mạng thông tin toàn cầu để bầy tỏ chính kiến, đấu tranh ôn hoà chống lại sự áp bức, bóc lột, phản biện xã hội, giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền để góp phần xây dựng cuộc sống hạnh phúc hơn thì lại bị xách nhiễu, bị ngăn cản hoặc bị đàn áp một cách dã man, tàn bạo.
Thấu hiểu những nỗi oan ức, cực khổ của người dân và vận mệnh của đất nước, các vị lão thành cách mạng, các vị nhân sỹ trí thức không an phận để hưởng thụ vinh hoa phú quý đã phải lên tiếng chỉ ra những “Lỗi hệ thống”. Linh mục Nguyễn Văn Lý, thượng toạ Thích Quảng Độ, LS Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Cù Huy Hà Vũ. Các Bloger Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải, Phạm Thanh Nghiên, Vũ Văn Hùng và nhiều người khác đã không ngại dấn thân vào lao tù để đấu tranh cho tự do, dân chủ, bảo vệ quyền con người. Bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam ... Tất cả đã là tấm gương sáng, đáng để người đời học tập và làm theo.
3. Tiếng nói người dân:
Một người phạm tội là hành vi của cá nhân, nhiều người có liên quan cùng thực hiện một tội phạm là hành vi phạm tội có tổ chức (Đ 20, K 3 LHS). Người đứng đầu cấp trên trực tiếp bao che, dung túng cho người dưới quyền phạm tội (Đ 21 LHS) là “Lỗi hệ thống” như ông Nguyễn Văn An nguyên UV bộ chính trị, chủ tịch quốc hội đã từng nói.
Vụ Nguyễn Thị Minh Châu kẻ lưu manh côn đồ, chỉ bằng các giao dịch trái pháp luật, lật lọng, vu khống và lừa đảo đã vô hiệu được cả hệ thống lãnh đạo của Đảng và pháp luật của nhà nước, đã biến Nguyễn Văn Hiện UV trung ương Đảng, ĐB quốc hội, chánh án TA NDTC, uỷ viên BCĐ TW về phòng chống tham nhũng và những người có liên quan từ trung ương đến địa phương trở thành kẻ đồng loã, đồng bọn, đồng đảng xúc phạm nhân phẩm, cưỡng đoạt tài sản hợp pháp của công dân (Đ 121, 135 LHS) để cùng nhau chia chác trục lợi.
Họ đã “Tự đánh mất mình, làm thay đổi cả một nền văn hoá của một dân tộc và dẫn đến đảo lộn trật tự xã hội, trật tự trong mỗi gia đình”(Tạp chí Nhân Quyền VN số 1, tháng 6/2010).
Người dân phải sống trong hoàn cảnh ngày càng khó khăn do“Một số vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, nhũng nhiễu dân, sự xuy đồi về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức còn nghiêm trọng, gây lo lắng, bất bình trong nhân dân”(NQ TW 9, khoá IX đảng cộng sản VN. Báo – Nhân Dân ngày 13/1/2004).
Trên tất cả là nhân quyền ở Việt Nam bị xâm phạm và không được bảo vệ bởi chế độ pháp quyền như sách trắng bộ ngoại giao, Hà Nội – 2005 đã từng công bố.
Với tình trạng đất nước hiện nay, những người lãnh đạo chỉ biết đến siêu quyền lực để tham nhũng. Họ đã không vượt qua được chính mình, không đủ năng lực và tư cách để xứng đáng là người lãnh đạo với lòng tin của người dân.
Thiết nghĩ để sửa “Lỗi hệ thống” và khẳng định tư cách lãnh đạo của mình, Đảng cộng sản cần chấn chỉnh làm trong sạch nội bộ, khôi phục lòng tin của nhân dân. Thực hiện đa đảng là con đường duy nhất phù hợp với quy luật của sự tồn tại và phát triển, nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (Đ 3 HP).
Nơi nhận - Trung ương Đảng và Nhà Nước.. - Các cơ quan bao chí trong và ngoài nước. - Trung ương hội cưu chiến binh Việt Nam. - Các cơ quan, tổ chức có liên quan:............ | Hà Nội, ngày 02 tháng 5 năm 2011 Người gửi Nguyễn Anh Dũng HV hội cựu chiến binh Việt Nam |
ĐC: Số 5 ngách 12/87 Chính Kinh, Nhân Chính,Thanh Xuân, Hà Nội.
ĐT và Fax : (84) 38583514; DĐ: 0984535494; Gmail: xuannho.vu1@gmail.com
************************
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập tự do hạnh phúc
Hà Nội, ngày 06 /4 / 2011
GIẤY ĐÒI NỢ
(Thay đơn khởi kiện)
Quyết định giải quyết đơn khiếu tố.
Kính gửi : BAN CHẤP HÀNH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
Tôi là: Nguyễn Anh Dũng: Hội viên hội cựu chiến binh Việt Nam, nguyên giảng viên trường cao đẳng kinh tế công nghiệp Hà Nội. Cùng những người trong gia đình là công dân nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
Địa chỉ : Số 5 ngách 12/87 Chính Kinh, Nhân Chính, Thanh Xuân, TP Hà Nội. Điện thoại và Fax: 04 38583514 NR ; 0984535494 DĐ. Xin trình bầy vấn đề như sau:
1. Nguyễn Thị Minh Châu (Người đại diện):
1.1. Cố ý phạm tội, vu khống, lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 9, 122, 139 LHS). Bằng việc khởi kiện: Đòi lại đất “Đã giao cho người khác sử dụng từ 01/5/1983 để nhận tiền bồi hoàn”. Giao dịch đã được thực hiện xong ngày 21/6/1993. Sau khi UBND xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm chứng thực và đăng ký vào hồ sơ địa chính. Theo quy định tại Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 8.12.2000 của chính phủ về “Công chứng, chứng thực”: Điều 14: Giá trị của văn bản công chứng, chứng thực và Luật đất đai 1987, 1993 và 2003
1.2. Không có quyền khởi kiện: Không giao nộp được các tài liệu, chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai. Không chứng minh được quyền và nghĩa vụ, sử dụng đất của mình là hợp pháp từ 1/5/1983 trên thửa đất ao số 118, tờ bản đồ F48a 104 28 tại phường Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội. Theo quy định tại điều 79, 81, 84 luật TTDS; Luật đất đai ...
1.3. Không có quyền đòi lại đất: Đã giao cho người khác sử dụng theo quy định tại điều 2 luật đất đai 1993, Điều 10 luật đất đại năm 2003. Công văn số 169/2002/KHXX ngày 15.11.2002 của toà án NDTC về “Đường lối giải quyết các khiếu kiện, các tranh chấp đất đai đã giao cho người khác sử dụng”. Nghị quyết số 02/2004/NQ HĐTP ngày 10/8/2004 của hội đồng thẩm phán toà án NDTC : Quy định tại phần II, mục 2.4, điểm a.
1.4. Thời hiệu khởi kiện đã hết: Theo quy định tại điều 159 khoản 1, 3 điểm a. Luật tố tụng dân sự. Thông tư liên ngành số 03-TTLN ngày 10/8/1996 của toà án NDTC, viện kiểm sát NDTC “Hướng dẫn áp dụng pháp luật theo NQ của quốc hội về việc thi hành bộ luật dân sự”. tại phần II, khoản 4: “Đối với các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất xác lập trước ngày 15/10/1993 ... Hết ngày 15/10/1996, các đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết tranh chấp phát sinh trước ngày 15/10/1993 nữa”.
2. Vụ án đã kết thúc:
Bản án phúc thẩm số 118/DSPT ngày 22/5/2003 của toà án nhân dân TP Hà Nội, đã bác đơn khởi kiện và giữ nguyên hiện trạng nhà , đất như xác định của các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà đất.
Sau khi bị hoãn thi hành án trái pháp luật, hết thời hạn mà không có kháng nghị. Cơ quan thi hành án quận Thanh Xuân ra quyết định thi hành án và xác nhận đã thi hành xong ngày 8/9/2003. Bản án không bị viện kiểm sát kháng nghị theo quy định tại điều 45 pháp lệnh THA 1993, do đó hiệu lực của bản án đã được bảo đảm điều 19 luật Tố tụng dân sự.
3. Hành vi lợi dụng chức vụ, cố ý làm trái pháp luật:
Đây là vụ án có giá ngạch cao, nên Nguyễn Văn Hiện UV TW Đảng, phó BCĐ cải cách tư pháp VP chủ tịch nước. Nguyên ĐB quốc hội, chánh án toà án NDTC, uỷ viên BCĐ trung ương về phòng chống tham nhũng và đồng bọn (kèm danh sách), là cán bộ, công chức trong bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước từ trung ương tới địa phương.
Lợi dụng chức vụ, bằng các bản án, quyết định trái pháp luật (Đ 295, 296 Luật HS), vi phạm nghiêm trọng cả hệ thống pháp luật Việt Nam. Đã tạo nên vụ án oan sai để cùng nhau chia chác, trục lợi trên phần tài sản cướp được. Khủng bố, dồn dân vào bước đường cùng để bức tử (Đ 84, 100 LHS).
4. Thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo:
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của con người được quy định trong Hiến pháp và luật. Những việc làm trái pháp luật và đạo đức xã hội của Nguyễn Văn Hiện và đồng bọn đã bị phát hiện từ 22/9/2003 thông qua các đơn thư.
Căn cứ quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, theo hướng dẫn của một số cơ quan trung ương Đảng, nhà nước và công luận. Thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết các đơn thư nêu trên thuộc Uỷ ban kiểm tra trung ương Đảng.
Chúng tôi đã nhiều lần đến văn phòng của UBKT tại trụ sở tiếp công dân của trung ương đảng và nhà nước, đến cơ quan của UBKT tại số 4 ngõ Nguyễn Cảnh Chân Hà Nội trình bầy song. Đã 7 năm, 6 tháng trôi qua, đến nay vẫn không một lần giải quyết, sự việc hoàn toàn bị chìm trong im lặng.
Như vậy UBKT đã ngang nhiên vi phạm điều 50, 74 Hiến pháp; Điều 132 Luật hình sự; Điều 59, 66, 73 Luật khiếu nại, tố cáo;
5. Yêu cầu:
5.1. Nguyễn Thị Minh Châu phải bi xử lý theo pháp luật và hoàn trả chúng tôi tài sản hợp pháp do vu khống, lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà có.
5.2. Nguyễn Văn Hiện và đồng bọn phải đăng bài sửa sai trên báo Nhân Dân, Báo Pháp Luật VN và bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm và tài sản do hệ luỵ các bản án, quyết định trái pháp luật gây ra theo quy định của “Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước”.
5.3. Căn cứ điều 30, 32 điều lệ Đảng, Điều 1, 5 quy định kèm theo quyết định số 190-QĐ/TW ngày 29/9/2008 của Bộ chính trị Đảng CS Việt Nam. Về việc “Giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện trung ương quản lý”. Căn cứ quy chế làm việc của UBKT trung ương Đảng, pháp luật của nhà nước: “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”... (Điều 4 Hiến Pháp).
Như vậy Uỷ ban kiểm tra trung ương Đảng còn nợ chúng tôi quyết định giải quyết tố cáo đối với Nguyễn Văn Hiện và đồng bọn.
Gia đình chúng tôi đang sống bình yên, hạnh phúc, không làm điều gì trái pháp luật và đạo đức xã hội đã trở thành nạn nhân của hành vi xúc phạm nhân phẩm, khủng bố, cướp đoạt tài sản một cách tàn bạo, dã man. Do những đảng viên là cán bộ công chức trong bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước gây ra. Những hành vi không thể chấp nhận được trong “Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. (Điều 2 HP).
Những điều trình bầy như trên là hoàn toàn khách quan và đúng sự thật, chúng tôi xin chịu trách nhiệm tước pháp luật về điều này và cũng mong muốn UBKT hãy trả lại chúng tôi món nợ trên đây.
Kính mong Ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị và ban bí thư trung ương Đảng xem xét giải quyết. Chúng tôi xin chân thành cám ơn và mong muốn sớm nhận được ý kiến giải quyết.
Nơi nhận - Như trên - Trung ương Đảng và Nhà Nước.. - Các cơ quan bao chí trong và ngoài nước. - Trung ương hội cưu chiến binh Việt Nam. - Các cơ quan, tổ chức có liên quan:............ | Thay mặt gia đình Kính đơn Nguyễn Anh Dũng HV hội cựu chiến binh Việt Nam |
**************
DANH SÁCH Tổ chức tham nhũng, khủng bố.
(Kèm theo đơn khiếu tố, đơn khởi kiện bài đăng báo).
- Tài sản tham nhũng bao gồm: Các công trình xây dựng gắn liền với quyền sử dụng đất trị giá: 14.344.080.000 đ (Mười bốn tỷ, ba trăm bốn bốn triêụ, tám mươi nghìn đồng) thời điểm tháng 4/2010.
- Địa điểm: Thửa đất ao số 118 tờ bản đồ F48a.104.28 tại ngách 12/87 Chính Kinh, Nhân Chính, Thanh Xuân, TP Hà Nội. Căn cứ hồ sơ địa chính đứng tên ông Nguyễn Anh Dũng từ 1/5/1983
1. Nguyễn Thị Minh Châu (Người đại diện): Thế chấp nhiều “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” vay ngân hàng một số tiền lớn để chạy án, chạy kháng nghị, chạy “Các cửa”.
2. Hà Thị Hồ Hoa: văn phòng luật sư Nhân Văn B9 Kim Liên Hà Nội. Chủ mưu xúi dục khởi kiện, môi giới chạy án, chạy “Các cửa”.
3. Ông Nguyễn Văn Hiện: Uỷ viên trung ương đảng, phó ban chỉ đạo cải cách tư pháp văn phòng chủ tịch nước. Nguyên đại biểu quốc hội, chánh án toà án NDTC, uỷ viên ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng.
4. Ông Hoàng Khang: Đã nghỉ hưu tại số 66 Quán Sứ Hà Nội, nguyên Phó bí thư đảng uỷ, phó chánh án toà án NDTC.
5. Ông Nguyễn Như Bích: Phó chánh án toà án NDTC.
6. Bà Nguyễn Minh Tuấn: Thẩm phán toà án NDTC.
7. Ông Nguyễn Minh Mắn: Thẩm phán toà phúc thẩm toà án NDTC.
8. Ông nguyễn Thanh Bình: Phó chánh án toà dân sự toà án NDTC.
9. Bà trần Thị Hải: thẩm phán toà án nhân dân thành phố Hà Nội.
10. Ông Lưu Viết Hiểu: Thẩm phán TAND quận Thanh Xuân, TP Hà Nội.
11. Bà Đặng Thị Phượng: Kiểm sát viên, viện kiểm sát nhân dân tối cao.
12. Bà Đoàn Nhung: Kiểm sát viên, viện kiểm sát nhân dân, TP Hà Nội.
13. Bà Nguyễn Thanh Thuỷ: Phó cục trưởng cục thi hành án, Bộ Tư pháp.
14. Ông Nguyễn Bá Nhạ: Phó trưởng phòng thi hanh án DS, TP Hà Nội.
15. Ông Chu Văn Thái: Chấp Hành Viên phòng thi hành án DS, TP Hà Nội.
16. Bà Mai Xuân Hoa: Chấp Hành Viên phòng thi hành án DS, TP Hà Nội.
17. Ông Hoàng Nam Sơn: Phó chủ tịch UBND quận Thanh Xuân, TP Hà Nội.
18. Ông Bùi Quang Hoà: Phó giám đốc công ty cổ phần Nghĩa Lĩnh (Công ty tư nhân). Số 10, tổ 28, tập thể Bưu điện, phường Trung Hoà, quận cầu Giấy, TP Hà Nội.
Danh sách này đã được gửi tới trung ương Đảng và nhà nước cùng các cơ quan có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết từ ngày 16/4/2008.
********
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập tự do hạnh phúc
Hà Nội, ngày 15 / 3 / 2011
ĐƠN KHIẾU TỐ
Hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo.
Kính gửi : Hội đồng bầu cử Quốc hội khoá XIII Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tôi là: Nguyễn Anh Dũng: Hội viên hội cựu chiến binh Việt Nam, cùng những người trong gia đình là công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Địa chỉ : Số 5 ngách 12/87 Chính Kinh, Nhân Chính, Thanh Xuân, TP Hà Nội. Điện thoại và Fax: 04 38583514 NR ; 0984535494 DĐ.
Xin trình bầy như sau:
1. Lý do:
Nguyễn Thị Minh Châu khởi kiện: “Đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng từ 01/5/1983 để nhận tiền bồi hoàn”. Nhưng lại không xuất trình được các tài liệu, chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai. Không chứng minh được quyền và nghĩa vụ, sử dụng đất của mình là hợp pháp trên thửa đất ao số 118, tờ bản đồ F48a 104 28 tại phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nhằm xúc phạm nhân phẩm, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản hợp pháp của người khác (Điều 139 LHS).
Đây là vụ án có giá ngạch cao, nên Nguyễn Văn Hiện UV TW Đảng, phó BCĐ cải cách tư pháp VP chủ tịch nước. Nguyên ĐB quốc hội, chánh án toà án NDTC, uỷ viên BCĐ trung ương về phòng chống tham nhũng và đồng bọn (Danh sách đã gửi), là cán bộ, công chức trong bộ máy Đảng và Nhà nước từ trung ương tới địa phương.
Lợi dụng chức vụ, bằng các bản án, quyết định trái pháp luật (Đ 295, 296 Luật HS) đã tạo nên vụ án oan sai để tham nhũng. Nhằm cướp đoạt tài sản, dồn dân vào bước đường cùng và bức tử (Đ 100 LHS).
Những sự việc sai trái nêu trên bị phát hiện từ 22/9/2003, theo quy định tại điều lệ đảng cộng sản Vệt Nam, của Hiến pháp và pháp luật... Căn cứ các văn bản hướng dẫn của một số cơ quan của trung ương đảng, nhà nước và công luận, đơn thư khiếu tố, đơn khởi kiện được gửi tới:
1. Ông Nông Đức Mạnh: Uỷ viên bộ chính trị, tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết đơn tố cáo đối với uỷ viên trung ương đảng Nguyễn Văn Hiện.
2. Ông Nguyễn Minh Triết: Uỷ viên bộ chính trị, chủ tịch nước, trưởng ban chỉ đạo cải cách tư pháp có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết đơn tố cáo đối với phó ban chỉ đạo cải cách tư pháp Nguyễn Văn Hiện.
3. Ông Nguyễn Phú Trọng: Uỷ viên bộ chính trị, Chủ tịch quốc hội có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết đơn tố cáo và đơn khởi kiện đối với đại biểu quốc hội Nguyễn Văn Hiện.
4. Ông Nguyễn Tấn Dũng: Uỷ viên bộ chính trị, thủ tướng chính phủ, trưởng ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng có thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết đơn tố cáo đối với ủy viên ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng Nguyễn Văn Hiện.
Đã 7 năm, 6 tháng trôi qua với hơn 1200 lần đơn thư gửi đi, đến nay vẫn không một lần giải quyết, sự việc bị chìm trong im lặng. Như vậy họ đã ngang nhiên vi phạm điều 50, 74 Hiến pháp; Điều 132 Luật hình sự; Điều 59 Luật khiếu nại, tố cáo; Điều 1, 5 quy định kèm theo quyết định số 190-QĐ/TW ngày 29/9/2008 của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam. về việc “Giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện trung ương quản lý” và các quy định của pháp luật có liên quan.
2. Yêu cầu:
Bầu cử để lựa chọn người có đức, có tài, biết đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, biết giữ danh dự và có trách nhiệm để lãnh đạo đất nước.
“Việt Nam là nhà nước pháp quyển XHCN” (Điều 2 HP). Yêu cầu hành vi cố ý làm trái pháp luật của những người có liên quan phải được giải quyết theo đúng đường lối lãnh đạo của Đảng và pháp luật của nhà nước.
Đơn thư khiếu tố này được trình bầy đúng sự thật, đúng pháp luật, thể hiện tình cảm và trách nhiệm cũng như quyền và nghĩa vụ công dân. Chúng tôi mong muốn sớm đón nhận được ý kiến giải quyết.
Nơi nhận
- Như trên
- Trung ương Đảng và Nhà Nước..
- Các cơ quan bao chí trong và ngoài nước.
- Trung ương hội cưu chiến binh Việt Nam.
- Các cơ quan, tổ chức có liên quan:............