"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Dienstag, 3. Mai 2011

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI TRONG THÁNH LỄ PHONG CHÂN PHƯỚC ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II

Quảng Trường Thánh Phêrô, Chúa Nhật 01.5.2011

Anh Chị Em thân mến,
Cách đây sáu năm chúng ta tập trung tại Quảng Trường này để cử hành lễ an táng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Niềm đau của chúng ta vì mất ngài thật sâu sắc, và càng lớn hơn nữa, đó là tâm tình tri ơn vô bờ của chúng ta bao trùm cả thành Rôma và toàn thế giới: niềm tri ơn ấy, cách nào đó, chính là hoa quả từ toàn thể cuộc đời vị tiền nhiệm của tôi, cách riêng từ chứng tá đau khổ của ngài. Ngay lúc đó chúng ta đã cảm nhận hương thơm thánh thiện của ngài, và bằng nhiều cách Dân Chúa đã bày tỏ niềm tôn kính ngài. Vì vậy, với tất cả sự tôn trọng các chuẩn mực về phong thánh của Giáo Hội, tôi đã mong muốn tiến trình phong Chân Phước cho ngài được xúc tiến nhanh chóng một cách hợp tình hợp lý. Và hôm nay, ngày mong đợi đã đến; ngày này đến nhanh bởi vì đây là điều đẹp lòng Chúa: Gioan Phaolô II được chúc phúc!

Tôi muốn gửi lời chào thân ái đến tất cả anh chị em từ khắp thế giới tập trung về đây thật đông đảo trong biến cố vui mừng này – các Hồng Y, các Thượng Phụ của các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, các anh em Giám Mục và Linh Mục, các Phái Đoàn, các Đại Sứ và các giới chức thẩm quyền dân sự, các nam nữ Tu Sĩ và Giáo Dân. Tôi cũng gửi lời chào đến tất cả anh chị em tham dự sự kiện này qua các làn sóng phát thanh và truyền hình. 

Hôm nay là Chúa Nhật thứ hai Mùa Phục Sinh, ngày mà Chân Phước Gioan Phaolô II đã đặt là Chúa Nhật của Lòng Chúa Thương Xót. Ngày hôm nay được chọn cho cử hành này của chúng ta bởi vì, do Thánh ý Chúa quan phòng, vị tiền nhiệm của tôi đã qua đời vào hôm áp lễ này. Hôm nay cũng là ngày đầu tháng Năm, tháng kính Đức Maria, và Phụng Vụ kính nhớ Thánh Giuse Lao Công. Tất cả những yếu tố này làm phong phú cho lời cầu nguyện của chúng ta, chúng giúp chúng ta trong cuộc hành hương qua không gian và thời gian; nhưng trên thiên quốc một cử hành rất khác đang diễn ra giữa các Thiên Thần và các Thánh! Dù vậy, chỉ duy nhất một Thiên Chúa thôi, và cũng chỉ một Chúa Kitô thôi, Đấng là cầu nối đất với trời. Trong khoảnh khắc này, chúng ta cảm thấy gần gũi hơn bao giờ việc chia sẻ trong Phụng Vụ thiên quốc.

Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Chúa Giêsu công bố mối phúc này trong Tin Mừng hôm nay: mối phúc của đức tin! Với chúng ta, thật là một ấn tượng đặc biệt bởi vì chúng ta qui tụ về đây để cử hành một cuộc tôn phong Chân Phước, và càng hơn thế nữa, vì hôm nay người được công bố rằng có phúc ấy là một Giáo Hoàng, một người kế vị Thánh Phêrô, một người được kêu gọi để củng cố anh chị em mình trong đức tin. Đức Gioan Phaolô II được chúc phúc vì đức tin của ngài, một đức tin mạnh mẽ, quảng đại và tông truyền. Chúng ta liên tưởng ngay đến một mối phúc khác: “Simon, con Giôna, anh thật có phúc. Vì không phải xác thịt, mà là chính Cha trên trời đã mạc khải những điều này cho anh” (Mt 16,17). Cha trên trời của chúng ta đã mạc khải điều gì cho Simon? Đó là: Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống. Nhờ đức tin này, Simon trở thành Phêrô, thành tảng đá để Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh của Ngài trên đó. Mối phúc vĩnh cửu của Đức Gioan Phaolô II, mà hôm nay Hội Thánh hân hoan công bố, được chất chứa trọn vẹn trong những lời này của Chúa Giêsu: “Simon, anh thật có phúc” và “Phúc cho những ai không thấy mà tin!” Đó là mối phúc của đức tin, mà Đức Gioan Phaolô II cũng đã lãnh nhận như món quà do Thiên Chúa Cha ban tặng để xây dựng Hội Thánh của Đức Kitô.

Chúng ta lại liên tưởng đến một mối phúc khác, mối phúc xuất hiện trước mọi mối phúc khác trong Tin Mừng . Đó là mối phúc của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế. Vừa mới thụ thai Chúa Giêsu, Đức Maria nghe những lời này của Thánh Êlisabét: “Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán với em sẽ được thực hiện” (Lc 1,45). Mối phúc đức tin nhận kiểu mẫu của nó nơi Đức Maria, và tất cả chúng ta vui mừng vì cuộc tôn phong Chân Phước Đức Gioan Phaolô II diễn ra trong ngày hôm nay, ngày đầu tháng Đức Mẹ, dưới cái nhìn từ mẫu của Đấng đã qua đức tin của mình mà nâng đỡ đức tin của các Tông Đồ và vẫn không ngừng nâng đỡ đức tin của những người kế vị các Tông Đồ, nhất là những người được kêu gọi kế nhiệm Thánh Phêrô. Đức Maria không xuất hiện trong các trình thuật Phục Sinh, nhưng người thật sự có mặt ở đó, một sự hiện diện liên lỉ, kín đáo: Người là người Mẹ mà Chúa Giêsu đã ủy trao cho mỗi môn đệ và cho toàn cộng đoàn. Cách riêng, chúng ta có thể thấy Thánh Gioan và Thánh Luca ghi lại sự hiện diện từ mẫu và đầy năng lực của Đức Maria trong các bản văn đi trước Bài Tin Mừng và Bài Đọc thứ Nhất trong Thánh Lễ hôm nay. Trong trình thuật về cái chết của Chúa Giêsu, Đức Maria hiện diện dưới chân Thánh Giá (Ga 19,25), và ở phần đầu Sách Công Vụ Các Tông Đồ, Người được nhìn thấy giữa các môn đệ đang qui tụ để cầu nguyện trong Căn Gác Thượng (Cv 1,14).   

Bài Đọc thứ Hai hôm nay cũng nói với chúng ta về đức tin. Chính Thánh Phêrô, đầy nhiệt tâm thiêng liêng, đã chỉ ra cho những người mới lãnh nhận Phép Rửa lý do của niềm hy vọng và niềm vui của họ. Tôi thấy thú vị nhận ra rằng trong đoạn văn này, ở đầu Thư Thứ Nhất của ngài, Phêrô đã không dùng ngôn ngữ huấn dụ; thay vào đó, ngài nêu một   sự kiện. Ngài viết: “Anh em vui mừng”, và ngài thêm: “anh em yêu mến Ngài, và tuy anh em không thấy ngài bây giờ, anh em vẫn tin vào Ngài và vui mừng với niềm vui khôn tả, vì anh em đang nhận lãnh hoa quả của đức tin anh em, là ơn cứu độ linh hồn anh em” (1Pr 1,6.8-9).  

Tất cả những động từ này đều ở trực thuyết cách, bởi vì một thực tại mới đã đến trong sự Phục Sinh của Đức Kitô, một thực tại được đức tin mở ra đón nhận. “Đây là điều Chúa đang thực hiện” – như lời Thánh Vịnh (118,23), và: “thật kỳ diệu trước mắt chúng ta”, trước đôi mắt đức tin của chúng ta.

Anh Chị Em thân mến, hôm nay đôi mắt chúng ta, trong ánh sáng chan hòa của Chúa Kitô Phục Sinh, hướng nhìn về hình ảnh dấu yêu và đáng kính của Đức Gioan Phaolô II. Hôm nay tên của ngài được nối vào danh sách của những người mà ngài đã phong Thánh hoặc phong Chân Phước trong suốt hai mươi bảy năm ngài làm giáo hoàng, qua đó ngài mạnh mẽ nhấn mạnh ơn gọi phổ quát của mọi người đạt tới chóp đỉnh đời Kitô hữu, đạt tới sự thánh thiện, như giáo huấn của Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế về Giáo Hội. Tất cả chúng ta, là thành viên của Dân Thiên Chúa – Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Giáo Dân, nam nữ Tu Sĩ – chúng ta đang hành hương về quê hương thiên quốc nơi Đức Trinh Nữ Maria đã đi trước chúng ta, chúng ta được gắn kết, như Mẹ đã gắn kết một cách độc đáo và hoàn hảo, vào mầu nhiệm Đức Kitô và Hội Thánh. Karol Wojtyla đã tham dự Công Đồng Vatican II, đầu tiên trong tư cách Giám Mục phụ tá, rồi trong tư cách Tổng Giám Mục của Kraków. Ngài đã hoàn toàn ý thức rằng quyết định của Công Đồng dành chương cuối cùng của Hiến Chế về Hội Thánh cho Đức Maria có nghĩa rằng Mẹ Đấng Cứu Thế được biểu dương như hình ảnh và kiểu mẫu của sự thánh thiện cho mọi Kitô hữu và cho toàn Giáo Hội. Đây là tầm nhìn thần học mà Chân Phước Gioan Phaolô II đã khám phá khi còn là một thanh niên, và ngài đã tiếp tục duy trì và đào sâu cho đến suốt đời. Một tầm nhìn được diễn tả qua hình ảnh Thánh Kinh Đức Kitô chịu đóng đinh, với Đức Maria, Mẹ Ngài, đứng bên cạnh. Hình ảnh này từ Tin Mừng theo Thánh Gioan (19,25-27) được sử dụng trong biểu tượng Giám Mục và sau đó là biểu tượng Giáo Hoàng của Karol Wojtyla: một Thánh Giá vàng với chữ “M” phía dưới, bên phải, cùng với khẩu hiệu “Totus tuus”, lấy lại từ câu nói nổi tiếng của Thánh Louis Marie Grignon Montfort mà Karol Wojtyla lấy làm ánh sáng soi dẫn cả đời mình: “Totus tuus ego sum et omnia mea tua sunt. Accipio te in mea omnia. Praebe mihi cor tuum, Maria – Con hoàn toàn thuộc về Mẹ, và mọi sự của con là của Mẹ. Mẹ là tất cả của con. Lạy Mẹ Maria, xin ban cho con trái tim của Mẹ” (Về lòng tôn sùng đích thực đối với Đức Trinh Nữ, 266).

Trong chứng từ của mình, vị tân Chân Phước đã viết: “Ngày 16 tháng 10 năm 1978, khi Mật Tuyển Viện của các Hồng Y chọn Gioan Phaolô II, thủ chỉ của Ba Lan, Đức Hồng Y Stefan Wyszyński đã nói với tôi: ‘Công việc của tân Giáo Hoàng sẽ là lãnh đạo Giáo Hội tiến vào ngàn năm thứ ba’”. Và ngài thêm: “Tôi muốn một lần nữa cám ơn Chúa Thánh Thần về quà tặng Công Đồng Vatican II. Cùng với toàn thể Giáo Hội, cách riêng cùng với các Giám Mục, tôi cảm nhận sâu xa ân huệ này. Tôi xác tín rằng Công Đồng này của thế kỷ XX sẽ vẫn còn là món quà lâu dài cho các thế hệ kế tiếp kín múc các kho tàng mà nó để lại cho chúng ta. Trong tư cách là một Giám Mục tham dự Công Đồng từ những ngày đầu tiên cho đến khi kết thúc, tôi muốn ủy thác di sản lớn lao này cho tất cả những ai đang và sẽ được mời gọi thực hiện nó. Về phần mình, tôi biết ơn Đấng Mục Tử Vĩnh Cửu đã giúp tôi phục vụ trong tinh thần này trong suốt triều giáo hoàng của mình”. Tinh thần gì vậy? Đó chính là tinh thần mà Đức Gioan Phaolô II trình bày trong Thánh lễ trọng thể đầu tiên của ngài tại Quảng Trường Thánh Phêrô, với những lời cảm kích không thể nào quên: “Đừng sợ! Hãy mở, mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô!” Điều mà vị giáo hoàng mới được bầu đề nghị với mọi người, thì chính ngài là người đầu tiên thực hiện: ngài đã mở các hệ thống xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế cho Đức Kitô, với sức mạnh của một người khổng lồ - một sức mạnh ngài nhận được từ Thiên Chúa – tạo ra một dòng thác hầu như không thể đảo ngược. Bằng chứng tá đức tin, tình yêu, bằng lòng can đảm tông đồ của mình, và bằng uy tín cá nhân lớn lao, người con tuyệt vời này của đất nước Ba Lan đã giúp cho các tín hữu trên khắp thế giới không sợ được gọi là Kitô hữu, không sợ thuộc về Giáo Hội, không sợ nói về Tin Mừng. Nói tắt một lời: ngài đã giúp chúng ta không sợ sự thật, vì sự thật là bảo đảm của tự do. Hay nói hàm súc hơn: ngài đã trao cho chúng ta sức mạnh để tin vào Đức Kitô, vì Đức Kitô là Redemptor hominis, Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Đó là chủ đề của Thông Điệp đầu tiên của ngài, và cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các Thông Điệp khác. 

Khi Karol Wojtyla ngồi vào ghế của Thánh Phêrô, ngài mang theo với ngài một nhận hiểu sâu xa về sự khác biệt giữa chủ nghĩa Mác-xít và Kitô giáo, căn cứ trên những tầm nhìn của mỗi bên về con người. Đây là sứ điệp của ngài: con người là con đường của Giáo Hội, và Đức Kitô là con đường của con người. Với sứ điệp này, vốn là di sản lớn lao của Công Đồng Vatican II, và của “vị tài công” của Công Đồng là Đức Phaolô VI, Tôi Tớ của Thiên Chúa, Đức Gioan Phaolô II đã dẫn dắt Dân Thiên Chúa qua ngưỡng cửa của Thiên Niên Kỷ thứ ba, mà nhờ Đức Kitô ngài đã mạnh dạn gọi là “ngưỡng cửa của hy vọng”. Qua hành trình chuẩn bị lâu dài cho Năm Thánh 2000, ngài một lần nữa dìu dắt Kitô giáo tới tương lai, tương lai của Thiên Chúa, vốn siêu việt trên lịch sử trong khi vẫn trực tiếp tác động vào lịch  sử. Ngài đã đúng đắn khi gọi Kitô giáo là động lực của niềm hy vọng ấy, niềm hy vọng cách nào đó từng bị rúng động trước chủ thuyết Mác-xít và trước ý thức hệ về sự tiến bộ. Ngài đã lấy lại cho Kitô giáo khuôn mặt thực của mình như là một tôn giáo của hy vọng, được sống trong lịch sử trong một tinh thần của “Mùa Vọng”, trong một cuộc hiện sinh cá nhân và cộng đồng hướng tới Đức Kitô, sự viên mãn của loài người và là sự lấp đầy nơi chúng ta mọi khát vọng công lý và hòa bình.

Cuối cùng, một cách biệt vị hơn, tôi muốn cảm tạ Thiên Chúa về ân huệ đã làm việc nhiều năm với Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tôi từng biết ngài từ trước kia và từng ngưỡng mộ ngài, nhưng trong hai mươi ba năm, bắt đầu từ năm 1982 sau khi ngài gọi tôi về Rôma nhận nhiệm vụ đứng đầu Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, tôi được ở bên cạnh ngài và càng kính mến ngài hơn. Công việc của tôi đã được nâng đỡ nhờ sự sâu sắc tâm linh và nhờ tri thức khôn ngoan phong phú của ngài. Tấm gương cầu nguyện của ngài không ngừng gây cảm kích và soi sáng cho tôi: ngài không ngừng kết hiệp thâm sâu với Thiên Chúa ngay cả khi lọt thỏm giữa bao yêu cầu của sứ vụ. Và cần phải kể đến chứng tá của ngài trong đau khổ nữa: Chúa đã dần dần rút đi khỏi ngài mọi sự, nhưng ngài vẫn cứ là “tảng đá”, như Chúa Kitô mong muốn. Lòng khiêm nhường sâu xa của ngài, cắm rễ trong mối gắn bó mật thiết với Đức Kitô, đã giúp ngài tiếp tục lãnh đạo Giáo Hội và trao cho thế giới một sứ điệp thậm chí càng hùng hồn hơn khi sức mạnh thể lý của ngài suy kiệt. Bằng cách này ngài đã sống trọn, một cách phi thường, ơn gọi của mọi linh Mục và Giám Mục, đó là trở nên một hoàn toàn với Chúa Giêsu, Đấng mà ngài đón nhận và trao ban hằng ngày trong Bí Tích Thành Thể.

Hỡi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II yêu dấu, ngài thật có phúc, vì ngài đã tin! Chúng con xin ngài, từ trời cao, hãy tiếp tục nâng đỡ đức tin của đoàn Dân Thiên Chúa. 

Biết bao lần từ cửa sổ kia ngài đã ban phép lành cho chúng con tại Quảng Trường này! Hôm nay, chúng con nguyện cầu: xin Đức Thánh Cha ban phép lành cho chúng con. Amen.

THIÊN PHONG dịch, từ trang www.vatican.va