Phạm Bá Hoa
Trong paltalk tối 30/04/2010 trên Diễn Đàn Chính Nghĩa Việt Nam Cộng Hòa, tôi đóng góp đề tài “Việt Nam sau 35 năm bị cộng sản cai trị”. Nội dung, nhận định về những chính sách của lãnh đạo cộng sản Việt Nam (CSVN) cai trị nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ 1954 đến 1975, và trên toàn cõi Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa từ 1976 đến nay. Tôi có nhận định này do mắt thấy tai nghe trong thời gian bị giam hơn 12 năm trong 4 trại tập trung từ Nam ra Bắc, cộng với hơn 3 năm làm thủ tục xuất ngoại, và từ khi tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ trong đợt HO5 đến nay.
Theo đó, những chính sách cai trị của cộng sản lồng trong hệ thống giáo dục học đường và giáo dục xã hội với mục đích duy nhất là thực hiện bản chất độc tài tàn bạo, tạo cho người dân thường xuyên sống trong sợ hãi mà phục tùng, vì có như vậy chúng mới bảo vệ được đảng cộng sản để chúng nắm giữ quyền lực trọn đời như những triều đại phong kiến xa xưa. Chính bản chất đó của cộng sản đã tạo nên một xã hội dối trá. Lãnh đạo dối trá, cán bộ dối trá, đảng viên dối trá, giáo dục dối trá, kinh tế dối trá, y tế dối trá, tư pháp dối trá, ..v..v.. Tất cả đều dối trá, vì vậy mà người dân phải sống với nhau cũng bằng dối trá mới tồn tại được trong một xã hội toàn dối trá bắt nguồn từ bản chất của CSVN
Chẳng những vậy, cộng sản Việt Nam còn dối trá với thế giới nữa. Bản chất đó ngày càng xảo trá gian manh cộng thêm hành động côn đồ đối với đồng bào, nhưng lại vô cùng khiếp nhược trước những hành động lấn chiếm trên đất liền, lấn chiếm các đảo và quần đảo trong vùng Biển Đông, kể cả vịnh Bắc Việt. Chưa hết, các nhà thầu Trung Hoa cộng sản còn “được trúng thầu” các dự án lớn nhất là xi măng, điện, hóa chất, hầm mỏ. Sau khi trúng thầu, chúng được đưa toàn bộ công nhân -hay lính trá hình- và gia đình sang xây dựng làng mạc tại các địa điểm thực hiện dự án. Liệu, vào một buổi sáng xấu trời nào đó, khi mọi người thức dậy nghe bản tin từ hệ thống truyền thanh truyền hình cho biết “Việt Nam trở thành tỉnh A của Trung Hoa cộng sản” chăng? Với tình trạng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay, thật sự trong tình trạng lâm nguy! Bởi:
Về kinh tế. Tồng sản phẩm quốc gia tính theo đầu người năm 2009 vừa hơn 1.000 mỹ kim, nhưng theo thống kê của ngân hàng thế giới thì 65% dân số bên ngoài các thành phố lớn, mỗi người chỉ thu nhập 400 mỹ kim/năm. Như vậy, số 600 mỹ kim sai biệt của khoảng 56 triệu người (56% dân số) mà đa số là dân nông thôn, trở thành tài sản riêng của các cấp lãnh đạo CSVN.
Về chính trị. Lý tưởng mà CVSN đưa ra từ những năm 30 đã sụp đổ trong thế giới cộng sản từ đầu thập niên cuối của thế kỷ 20, từ đó CSVN sử dụng tham nhũng để che chắn cho nhau và cùng nhau chịu sự che chắn của Trung Cộng để bảo vệ ngôi vị quyền lực. Vì vậy mà CSVN vô cùng khiếp nhược với Trung Cộng để được Trung Cộng thỏa hiệp, và sự thỏa hiệp này cho phép Trung Cộng thản nhiên gậm nhấm từng mảng đất và biển của Việt Nam. Sự khiếp nhược của CSVN đến mức tưởng chừng Việt Nam đang là một phần lãnh thổ dưới hình thức nào đó của Trung Cộng vậy. Đối với đồng bào: (1) CSVN chỉ “mở cửa kinh tế”, cánh cửa phát triển và hướng xã hội ra khỏi cánh cửa chính trị, đồng thời cũng là cánh cửa dành cho lãnh đạo các cấp tham nhũng. (2) Nhưng CSVN lại “đóng chặt cánh cửa chính trị”, cánh cửa của dân chủ tự do và quyền con người.
Về giáo dục. Với chính sách giáo dục của CSVN từ trước đến nay, chỉ trong mục đích đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ trong mục đích bảo vệ đảng và phục vụ cho đảng, mà đảng chỉ là một nhóm đảng viên hơn 100 người trong Ban Chấp Hành Trung Ương của chúng, cho nên Việt Nam không có những công dân đúng nghĩa để phục vụ quốc gia dân tộc.
Về xã hội. Việt Nam ngày nay là một xã hội băng hoại, một xã hội mà mọi người sống với nhau bằng những cách những kiểu lọc lừa dối trá, do chủ trương của CSVN tạo nên. Vì chế độc tài cộng sản không có bất cứ điều gì đem lại lợi ích thật sự cho đồng bào, nên chúng phải che giấu sự thật bằng dối trá với người dân, dối trá với đảng viên của chúng, và dối trá ngay với bản thân của chúng nữa.
Về ngoại giao. CSVN dối trá với các quốc gia dân chủ tự do, nhưng lại tuân phục Trung Cộng đến mức như thể Việt Nam chuẩn bị trở thành một đơn vị hành chánh của Trung Cộng, mà bài viết “Một cách nhìn khác về tinh thần dân tộc” của tác giả Đỗ Ngọc Bích đang là du sinh tại đại học Hawaii nối vào trưởng ban Việt ngữ đài BBC vừa qua, “”phải chăng là quả bóng vừa thăm dò vừa chuẩn bị giai đoạn thi hành lệnh của Trung Cộng núp dưới điều mà CSVN và CSTH gọi là 16 chữ vàng chăng?”
Tóm tắt. Cho dẫu từ những góc độ khác nhau, và từ những nét nhìn khác nhau, trong đó vẫn có nét nhìn chung rằng: “Sau 35 năm cai trị Việt Nam, chế độ độc tài toàn trị đã và đang là thảm họa cho dân tộc Việt Nam, gây ra vô vàn tộc ác với lịch sử và dân tộc, trong đó, chính sách giáo dục thần dân để tuân phục lãnh đạo CSVN là tội ác nặng nhất, vì đã dẫn đến một xã hội băng hoại tất cả các lãnh vực sinh hoạt, ảnh hưởng trực tiếp đến những thế hệ hiện nay và dài lâu đối với những thế hệ tiếp sau. Tội ác của CSVN như vậy, nhưng người dân các thành phần trong xã hội rất ít biết được, bởi chính sách bịt mắt bịt tai bit mệng của CSVN.
Ngay sau 45 phút phát biểu, một người xưng là “Em gái Mỹ Tho” -có lẽ là người trong nước- nêu câu hỏi: “Với một quá khứ như vậy, ông có hận thù cộng sản không?”
Tôi đáp: “Tôi không hận thù cộng sản, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ của cộng sản”. Tiếp đó, tôi giải thích một cách tổng quát câu trả lời này với một số dẫn chứng.
Trong bài viết này, xin dẫn chứng rõ thêm những sự kiện thể hiện bản chất hận thù của CSVN đối với tất cả mọi người không tuân phục chúng:
Thứ nhất. Tôi không hận thù, vì lòng hận thù thường xuyên trói buộc sự suy nghĩ của mình, làm cho mình chỉ quanh quẩn với những ý nghĩ tìm cách trả thù. Đó, chính là lúc mà tâm hồn mình trong trạng thái ở địa ngục, vì thiên đường hay địa ngục không phải là nơi chốn, không phải trên trời hay trong lòng đất, cũng không phải chỗ này hay chỗ kia, mà thiên đường hay địa ngục chỉ là một trạng thái tâm hồn. Và khi không thoát ra được sự trói buộc đó thì mình không thể có được suy nghĩ gì để đóng góp vào sinh hoạt Cộng Đồng, nhất là không đóng góp được gì cho cuộc đấu tranh thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, tự do, cho đồng bào trên quê hương. Dù chì là những đóng góp nhỏ nhoi của mỗi cá nhân, nhưng khi những cá nhân kết hợp lại sẽ trở thành một sức mạnh vùng lên lật đổ chế độ độc tài chỉ biết thù hận thù và trả thù. CSVN nuôi dưỡng hận thù vì chúng sợ hãi mọi người giành quyền lực, nên đầu óc của chúng chỉ suy nghĩ tìm những cách trả thù.
Xin nhìn lại vài sự kiện thể hiện sự trả thù của CSVN:
1. Vì hận thù mà tiêu diệt giai cấp trong cải cách ruộng đất 1954-1956
Tháng 3/1953, CSVN ban hành sắc lệnh qui định những thành phần xã hội, gồm: Ðịa Chủ là những người có từ 3 mẫu ta ruộng đất trở lên, Phú Nông có 3 mẫu ruộng và 1 con trâu, Trung Nông có 1 tới 3 mẫu ruộng và 1 con trâu, Bần Nông có chút ít ruộng đất, và Bần Cố Nông là những tá điền không đất ruộng. Trong đại hội đảng CSVN vào cuối tháng 11/1953 đưa ra luật “cải cách ruộng đất”‘ và Quốc Hội bù nhìn thông qua. Sau tháng 07/1954, CSVN tịch thu toàn bộ đất đai tài sản của bất cứ ai bị gán cho cái tội phản động, Việt gian, địa chủ, và cường hào ác bá, trong đó bao gồm cơ sở tôn giáo, những người từng theo CSVN ngụy trang dưới tên gọi Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp 1946-1954. Một Ủy Ban Cải Cách Ruộng Ðất tại trung ương do Trường Chinh đứng đầu. Tại địa phương, thành lập mỗi tỉnh 10 đoàn với nhân số mỗi đoàn có 100 cán bộ, đoàn trưởng có chức vụ ngang hàng với bí thư tỉnh ủy, chỉ làm việc thẳng với trung ương . Mỗi đoàn lại chia thành nhiều đội với nhân số từ 6-7 người mà đội trưởng lại là thành phần bần cố nông sinh sống tại địa phương. Chủ trương của CSVN “Thà giết oan 10 người còn hơn bỏ sót 1 tên phản động”‘.
Kết quả Cuộc Cải Cách Ruộng Ðất 1954-1956, đã giết chết từ 120.000-200.000 người, trong số này có khoảng 40.000-60.000 cán bộ đảng viên. Hằng trăm ngàn người liên hệ gia đình, bị đày trong các trại tập trung cải tạo. Sự tàn bạo có một không hai trong dòng sử Việt, khiến cho cả nước oán hận căm thù nên họ bất chấp súng đạn, nổi lên phản đối dữ dội nhất tại huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An). Nngày 13/11/1956 CSVN sử dụng Sư Đoàn 325 thẳng tay đàn áp cuộc nổi dậy của nông dân trong tay chỉ có gậy gộc, cuốc xẻng ... kéo dài hơn 10 ngày. Kết quả có hơn 1.000 người vô tội bị bắn chết, hằng ngàn người khác bị đẩy vào các trại tù. (tham khảo bài Cuộc Nổi Dậy Quỳnh Lưu 1956 dường như của tác giả Trần Quốc Việt)
Nhưng theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007)
Vậy, con số nào tin được? Cho dẫu là con số nào đi nữa, vẫn là một bằng chứng CSVN hận thù giai cấp.
2. Vì hận thù xã hội mà đánh sụp xã hội miền Nam 1975-1978.
Ngày 20/8/1975, Bộ Văn Hoá Thông Tin cộng sản Việt Nam, ra lệnh mọi người phải tiêu hủy toàn bộ văn hoá phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa mà họ gọi là văn hóa phẩm đồi trụy và phản động. Họ mở chiến dịch truy lùng bắt giữ những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy tố ra “tòa án nhân dân”. Chính sách này giống chính sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa phong kiến, và thời Mao Trạch Đông thời cộng sản. Nhà văn nữ cộng sản Dương Thu Hương viết rằng: “Sau 30/4/1965, tôi vào miền Nam choáng váng khi nhận thấy hệ thống thông tin ở đây quá phong phú. Trên các quầy sách với vô số các tác phẩm văn chương, khoa học, triết học của thế giới kim cổ Đông Tây. Rất nhiều sách triết học Mác-Lê, sách văn học Nga và Sô Viết. Trong khi ở miền Bắc mấy chục năm trời chỉ có một luồng thông tin, làm sao nhìn hết sự vật để đánh giá!”
Ngày 18/9/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam bất thình lình thực hiện chính sách đổi tiền. Họ không giới hạn số tiền mang đến đổi, nhưng chỉ được nhận lại tối đa là 200 đồng mới, mà họ qui định 1 đồng bạc mới bằng 500 đồng bạc cũ (1 mới = 500 cũ). Số tiền còn lại, mỗi khi gia đình có nhu cầu phải làm đơn xin và phải được Phường/Xã chứng nhận mới được cứu xét. Còn cứu xét như thế nào thì tùy họ khi vui lúc buồn. Tháng 5/1978 đổi tiền lần nữa với trị giá 1 đồng mới = 10 đồng đang lưu hành. Như vậy, 1 đồng bạc mới = 5.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa cũ. Một chút so sánh: Đến ngày 6/3/2009, 1 mỹ kim = 17.380 đồng VNCS. Nếu đem 1 mỹ kim x 17.380 đồng VNCS x 5.000 VNCH năm 1975 sẽ là = 86.900.000 đồng. Con số này nói rât rõ về sự mất giá của đồng bạc VNCS đến mức nào sau 33 năm cầm quyền!
Cuối trung tuần tháng 8/2010, ngân hàng Việt Nam phá giá đồng bạc lần 2 (tính từ đầu năm 2010 đến nay), từ 18.544 đồng bạc VN đổi 1 mỹ kim hồi tháng 6/2010, nay phải 18.932 đồng mới đổi được 1 mỹ kim, trong khi hối suất trên thị trường ngày 2/7/2010 đã lên đến 19.140 đồng VN = 1 mỹ kim. Những con số này cho thấy thối suất đồng bạc VN chỉ là theo đuôi thị trường tự do.
Ngày 10/11/1975, chính sách đánh vào ngành kinh doanh thương mãi, ép mọi chủ nhân mà họ gọi là “vận động” hiến tặng cho nhà cầm quyền toàn bộ cơ sở kinh doanh thương mãi, kể cả nhà ở, rồi chuyển đến các khu hoang vắng mà họ gọi là “khu kinh tế mới” tự mưu sinh. Trường hợp không chấp hành sự vận động của họ thì bị bắt vào trại tập trung, còn tài sản bị họ tịch thu. Có nghĩa là, cho dù bằng cách nào đi nữa thì tài sản cũng vào tay nhà nước cộng sản, chỉ khác ở chổ là những chủ nhân có bị vào trại tập nhỏ -tức nhà tù- hay vẫn trong trại tập trung lớn -tức xã hội- thế thôi.
Tháng 6/1977, lại một chính sách khác buộc tất cả nông dân có ruộng mà họ gọi là “vận động”, đem tập trung vào Hợp Tác Xã. Nông dân vẫn canh tác nhưng sản phẩm do Hợp Tác Xã quản trị, còn nông dân tùy theo lao động của mình bỏ ra mà nhận lại đồng lương bằng sản phẩm do Hợp Tác Xã quyết định. Và họ quản trị lao động công việc đồng áng chẳng khác những trại lính. Trần Bá Đệ, một sử gia miền bắc viết rằng: “Trong khi nông nghệp miền bắc đang trên con đường hợp tác hóa trên 15 năm đang ở lối nghẽn chưa tìm ra lối thoát, đảng lại chủ trương đưa nông nghiệp miền nam đi tiếp trên con đường đó”. (trích quyển “Lịch sử hiện đại Việt Nam 1945-2006” của tiến sĩ sử học Hoàng Ngọc Thành, xuất bản năm 2008, trang 643)
Cái chính sách toàn bộ đất đai trên toàn cõi Việt Nam thuộc về nhà nước mà nhà nước lả đảng cộng sản mả đảng là một nhóm hơn 10 đảng viên trong Bộ Chính Trị. Chính từ chính sách này mà phát sinh vô số người dân phải kêu oan khiếu nại. Từ năm 2006, sự kiện từng đoàn dân oan từ chấp nhận mọi khó khăn trong sinh hoạt hằng ngày và nguy hiểm đến tính mạng, đã các tỉnh kéo vào thành phố kinh tế Sài Gòn và thành phố chính trị Hà Nội ở đó tháng này sang tháng khác, kêu oan khiếu nại với các cơ quan thẩm quyền, là bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự áp bức bóc lột người dân về đất đai, dưới danh nghĩa xây dựng công ích quốc gia nhưng hầu hết đem bán cho các cơ quan đầu tư ngoại quốc xây dựng cơ sở sản xuất cũng như cơ sở giải trí với giá cao trong khi đền bù cho dân quá thấp. Nhà nước cộng sản dành cho cái quyền quản trị đất đai, cho người dân sử dụng nhưng khi cần là họ lấy lại đúng nghĩa của “chế độ (dân) xin và (nhà nước) cho”, nhưng khi thấy có lợi cho họ là họ lấy lại. Tình trạng dân oan khiếu nại kiện thưa từ đó đến cuối năm 2008 càng thêm phức tạp, các cấp lãnh đạo đều gian trá dối gạt đồng bào đến mức người dân oan không còn tin lãnh đạo hứa hẹn, cũng không sợ Công An đàn áp. Các cơ quan truyền thông quốc tế ước lượng có khoảng từ 30.000 đến 50.000 dân oan tham dự khiếu nại thưa kiện tại các tỉnh và thành phố mà nhiều nhất là Sài Gòn và Hà Nội.
3. Vì hận thù chế độ mà đày đọa quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa 1975-1992.
Ngay sau khiếm chiếm Việt Nam Cộng Hòa, cộng sản chứng tỏ chúng là chế độ cướp công khai, cướp nhà cửa cướp cơ sở kinh doanh thương mại, nói chung là cướp mọi thứ tài sản của người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ, nhưng họ gắn cho sĩ quan viên chức Việt Nam Cộng Hòa cái tội trấn lột tài sản của dân rồi họ giành quyền dạy dỗ để thành người lương thiện. (2) Do lòng thù hận, họ không cần đến luật pháp mà ngang nhiên bắt nhốt hằng trăm ngàn công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ (năm 2004 mới biết được con số bị chúng bắt giam là 222.809 người) mà họ nói là giúp chúng tôi không bị dân giết. Con số trên đây do báo cáo của phòng lưu trữ hồ sơ thuộc Ban An Ninh/Sở Công An thành phố Sài Gòn mà CSVN gắn cái tên họ Hồ vào đó, đến ngày 30/7/1975, đã có 154.772 sĩ quan công chức của Việt Nam Cộng Hòa cũ chịu ra trình diện và bị bắt tập trung cải tạo. Cũng theo bản báo cáo này, tính đến ngày 30/10/1975, đã bắt thêm được 68.037 người trốn trình diện và đưa vào trại cải tạo. Như vậy, tính từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 10/1975, số quân nhân cán bộ và viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ bị họ giam giữ tập trung cải tạo là 222.809 người. Đây mới chỉ là con số chánh thức do chúng công bố.
Tờ L’ humanité của đảng cộng sản Pháp, số ra ngày 21/3/1976 tại Paris, có đăng tải danh sách 321 văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa, đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt vào trại tập trung cải tạo từ ngày 13/6/1976.
Thứ hai. Tôi không quên quá khứ của cộng sản Việt Nam, vì cái quá khứ hơn nửa thế kỷ qua mà cộng sản Việt Nam gây ra cho dân tộc và quê hương Việt Nam, quá sức tưởng tượng của mọi người dân Việt bình thường! Tôi nói “bình thường” để phân biệt với người cộng sản là con người không bình thường khi nhìn từ góc độ đạo lý trong văn hoá Việt Nam.
Cùng với cái quá khứ tàn bạo của CSVN đối với mọi thành xã hội dưới quyền cai trị của chúng, xin nhìn lại cái quá khứ vô cùng khiếp nhược của CSVN trước một Trung Hoa cộng sản bá quyền, bất cứ cơ hội thuận lợi nào từ trong lịch sử xa xưa đến thời cận đại và ngay trong đương đại, là chúng lấn chiếm hoặc gậm nhấm đất nước ta. Vậy mà:
Ngày 14/9/1958, Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Đồng ký văn kiện ngày 14/9/1958, công nhận vùng Biển Đông bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trở thành lãnh thổ của nước Trung Hoa. Đây là hành động chư hầu của nhóm lãnh đạo VNCS đối với THCS chẳng khác thời phong kiến xa xưa trong lịch sử! Với văn kiện này không thể do ông Thủ Tướng họ Phạm quyết định mà phải là lệnh của Bộ Chính Trị do ông Hồ lãnh đạo. Từ đó khẳng định ông Phạm ký văn kiện đó là theo lệnh ông Hồ.
Ngày 30/12/1999, Lê Khả Phiêu, Tổng Bí Thư đảng CSVN ký Hiệp Ước dâng 789 cây số vuông dọc biên giới để trừ nợ mua vũ khí đạn dược sử dụng trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa 1955-1975, là hành động cắt đất bán cho THCS!
Ngày 25/12/200, ông Trần Đức Lương đến Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân ký Hiệp Ước cắt 11.362 cây số vuông trên vịnh Bắc Việt cho Trung Hoa cộng sản, là hành động cắt biển bán cho THCS để lấy 2.000.000.000 mỹ kim, mà theo lời ông Lương để “vuốt ve” sức phản kháng của ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, và những người khác trong Quốc Hội. Phải viện dẫn lý do thăm viếng, vì sau khi những tin tức loan truyền khá rộng rãi tại Hà Nội, loan dần vào miền Nam về Hiệp Ước ngày 31/12/1999 bán đất cho THCS và đã âm thầm đưa Hiệp Ước ra Quốc Hội phê chuẩn ngày 9/6/2000. Với hành động không công khai minh bạch, chứng tỏ lãnh đạo VNCS biết những hành động đó là hành động tội ác nên phải che giấu người dân dưới quyền. Biết vậy mà vẫn hành động, chính xác là lãnh đạo VNCS đặt quyền lợi đảng cộng sản Việt Nam lên trên quyền lợi tổ quốc quyền lợi dân tộc, vì quyền lợi của đảng đồng nghĩa với quyền lợi riêng tư của nhóm lãnh đạo hơn 100 đảng viên trong ban chấp hành trung ương của họ.
Vậy là, ngoài nhóm 4 tên lãnh đạo với tội ác nói trên đã bán đất bán biển cho THCS, thêm nhóm lãnh đạo với tội ác thỏa hiệp cho THCS sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa tỉnh Hải Nam hồi đầu tháng 12/2007. Rồi tội thêm tội khi họ sử dụng “hung thần” Công An ngăn chận thanh niên sinh viên học sinh biểu tình ngày 9 & 16/12/2007 phản đối THCS chiếm hai quần đảo nói trên của Việt Nam. Chưa hết, lại tội thêm tội khi các thành phần phẫn uất hành động của THCS lẫn phản ứng của VNCS chuẩn bị mít tinh biểu tình trước tòa đại sứ THCS vào ngày 14/9/2008, phản đối chúng trưng dẫn văn kiện của Phạm Văn Đồng gởi THCS vào ngày này 50 năm trước, lại bị đám “hung thần” Công An tại Hà Nội cũng như tại các địa phương, ra sức ngăn chận bắt giữ thẩm vấn những ai mà họ nghi sẽ tham gia mít tinh biểu tình. Nhóm lãnh đạo tội ác này là Nguyễn Minh Triết trong chức Chủ Tịch nước và Nguyễn Tấn Dũng trong chức Thủ Tướng.
Với những hành động gian trá giấu diếm khi ký ba văn kiện ngày 14/9/1958, ngày 30/12/1999, ngày 25/12/2000, cộng với những hành động gian trá của Quốc Hội khi phê chuẩn hai Hiệp Ước nói trên, cộng thêm sự thỏa hiệp để Trung Hoa cộng sản thành lập huyện Tam Sa bao gồm Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam, lại còn sử dụng Công An đàn áp những ai thể hiện ý thức chính trị ôn hòa qua hành động mít tinh biểu tình phản đối hành động của THCS lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam, đích danh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, là những tên bán đất bán biển cho THCS, một quốc gia với chiến lược trường kỳ xâm chiếm Việt Nam chúng ta! Chỉ riêng cái tội kinh hoàng này mà dân gian gọi là “trời không dung đất không tha”, đã quá đủ để đưa những tên này ra tòa án quốc gia phán xét, và lưu mãi trong sử sách truyền mãi trong dân gian cho đến ngàn năm sau như những tên bán nước từ ngàn năm trước. Kẻ bán nước không được gọi bằng ông hay bất cứ cách gọi nào khác dành cho người tử tế cho dù họ bao nhiêu tuổi.
Chưa hết, tháng 12 năm 2008, Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố rằng: “Khai thác quặng Bauxite là chủ trương lớn của đảng” (mà đảng là nhóm lãnh đạo)”. Thỏa hiệp này cho Trung Hoa cộng sản đưa hằng ngàn thậm chí là hằng chục ngàn công nhân và lực lượng quân đội dưới danh nghĩa bảo vệ an ninh vùng khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên miền Trung tạo môi trường sống vùng này trở nên tồi tệ. Và tồi tệ hơn hết nếu giả thuyết sau đây rất có thể trở thành sự thật là một lực lượng quân đội THCS sẽ đồn trú dài hạn nơi đây dưới danh nghĩa nào đó mà lãnh đạo VNCS không thể khước từ do lệ thuộc THCS”.
Nước Việt Nam ta qua nhiều ngàn năm lịch sử với biết bao thăng trầm vinh nhục, nhưng chưa có triều đại nào cũng chưa có nhóm lãnh đạo nào tồi tệ đê hèn như nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam, đã vì quyền lợi riêng tư mà dâng nộp cho Trung Hoa cộng sản 789 cây số vuông (năm 1999) trên dãi đất biên giới, 11.362 cây số vuông (năm 2000) trong vùng vịnh Bắc Việt, và mặc nhiên thỏa hiệp cho Trung Hoa cộng sản sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào huyện Tam Sa của Trung Hoa cộng sản (2007), cộng với nhiều chục ngàn công nhân lẫn đơn vị quân đội THCS trong khu vực khai thác quặng mỏ Bauxite vùng Dak Nong Cao Nguyên Miền Trung (năm 2008), và làm ngơ trước hằng những hành động tàu của Trung Cộng ngang nhiên ủi chìm tàu đánh cá Việt Nam ngay trong vùng biển của Việt Nam, rồi bắt hằng trăm ngư phủ buộc phải nộp tiền chuộc (2009-2010)
Kết luận.
Xin trích một đoạn trong bài viết ngày 16/8/2010 của tác giả Bùi Tín để kết luận bài này.
“..... Và khi mà Trung Cộng (Tác giả dùng chữ Trung Quốc, tôi mạn phép thay bằng chữ Trung Cộng. PB Hoa) đã nắm trọn chìa khóa về kinh tế -hiện họ đã trúng thầu hầu hết các công trình trọng điểm về khai khoáng, luyện kim, điện lực, cơ khí, giao thông… , khi họ vào sâu tận vùng chiến lược Tây nguyên, khi về chính trị họ có thể sai bảo Bộ chính trị ngoan ngoãn đến vậy, và khi họ cài được vào Bộ quốc phòng một con người thân tín - tình báo đầu sỏ lợi hại đến vậy- (tôi nghĩ tác giả muốn nói đến tên Nguyễn Chí Vịnh, Trung Tướng cộng sản, đang là Thứ Trưởng Quốc Phòng. PB Hoa), thì đất nước ta sẽ ra sao đây? Diễn biến hòa bình là đây chứ ở đâu! Không gặp kháng cự mạnh mẽ, họ sẽ làm tới! Và một cuộc đảo chính êm ru, theo tính toán, thăm dò từng bước, lặng lẽ, không tiếng súng, đang được thai nghén, đang diễn ra trước nhãn tiền. Đất nước lâm nguy! Thậm cấp! Chí nguy! Chí nguy! Kẻ thù không phải đã đến sát biên giới, không, kẻ bành trướng đã kéo quân vào sâu trong nội địa, chiếm lĩnh những lãnh vực, vị trí quyền lực xung yếu nhất. Mọi người Việt ta đã nhận rõ chưa?” Hết trích./.
Houston, 25 tháng 8 năm 2010.