Trong  năm 2010, nhiều bài vở trên báo chí, truyền thanh, truyền hình đã vạch  rõ bộ mặt bán nước của Nhà cầm quyền CS, đứng đầu là HCM. Cuốn DVD “Sự  thật về HCM” do Lm Nguyễn Hữu Lễ và bạn hữu thực hiện đã đưa những sự  kiện lịch sử để dẫn chứng về sự bán nước này, và đã được dư luận khắp  nơi ủng hộ. 
Một số phần tử lưng chừng ở VN, sau khi xem xong cuốn phim  này đã thay đổi hẳn thái độ và đứng về phía các nhà Dân chủ mà đấu tranh  chống lại nhóm cầm quyền độc tài bán nước CSVN. Ông  Nguyễn Văn Văn, một nhà Dân chủ ở Hà Nội, qua cuộc phỏng vấn của đài  Little Saigon Radio, thứ năm ngày 22 tháng 7 năm 2010, cho biết: “Từ hơn  30 năm nay, tôi vẫn tin tưởng ở ĐCS, cho mãi đến khi xem cuốn DVD Sự  Thật về HCM, tôi mới tỉnh ngộ và bắt đầu chiến đấu chống lại cái đảng  bán nước này.”
Tuy nhiên, tất cả những lời tố cáo trên  đều do những người ở về phía đối lập với Bắc Bộ Phủ, cho nên cũng chưa  được thành công tối đa, vì nhiều người đọc, người xem, và người nghe cho  rằng đó là những điều tuyên truyền của những người chống Cộng cực đoan  và những thành phần thuộc chế độ cũ. Giờ đây, đọc cuốn hồi ký “Ghi chép  về việc đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp” do NXB Lịch sử  ĐCSTQ, Bắc Kinh ấn hành năm 2002 và được dịch bởi Trần Hữu Nghĩa và  Dương Danh Dy, toàn bộ diễn tiến nô lệ Trung Cộng đã được phơi bày một  cách rõ ràng. Qua cuốn hồi ký viết bởi những nhân vật cao cấp của Trung  ương ĐCSTQ này, người đọc mới hiểu tại sao HCM và thuộc cấp đã không thể  nào không cúi đầu trước sự chỉ đạo của Trung Cộng, và không thể nào  không dâng đất cho Trung Cộng để trả ơn cứu trợ từ những năm xưa. Điểm  đáng nói là cuốn sách được xuất bản đúng thời điểm mà Trung Cộng từng  bước thôn tính VN, từ biển Đông, tới Tây Nguyên, và miền cực Bắc VN. Có  lẽ đây là một lời cảnh cáo các kẻ cầm quyền VN: “Đừng quên là CSVN đã  từng nợ đàn anh TQ từ khi còn Pháp thuộc. Nếu không có đàn anh TQ viện  trợ, thì ĐCSVN đã không tồn tại mà tham tham nhũng nhũng, sống huy hoàng  phè phỡn như hôm nay.” Và cũng có lẽ đây là một lời trần tình về âm mưu  thôn tính VN của CSTQ, nhằm giải thích cho dư luận biết tại sao mà  Trung Cộng muốn coi VN như cái sân sau của Trung  Cộng.
Qua cuốn hồi ký này, người đọc mới thấy  rõ mối giây liên lạc chặt chẽ giữa hai ĐCS : VN và TQ, đúng như lời mà  các đảng viên CSVN vẫn luôn đọc như đọc thần chú: “ VN – TQ, núi liền  núi, sông liền sông” và “TQ và VN như môi với răng, môi hở thì răng  lạnh”, thêm 16 chữ vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn  định lâu dài, hướng tới tương lai”.
Cũng qua những tác giả của cuốn tư liệu  này, như La Quý Ba, Trương Quảng Hoa, Độc Kim Ba, Vu Hóa Thầm, Trần  Canh, Như Phụng Nhất, những nhân vật lừng lẫy trong Trung ương ĐCSTQ,  người ta biết nhiều mốc quan trọng:
- Năm 1924, HCM từ Moscow đến Quảng Châu, học tập lý luận Mác Lê.
- Năm 1930, HCM thành lập đảng CS Đông Dương tại Hồng Kông.
- Năm 1938, HCM đến Diên An, tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Sau đó, mối quan hệ song phương càng  ngày được phát triển. Tháng 10 năm 1940 HCM đến Quế Lâm, và 1941 sát  nhập VN Độc Lập Đồng Minh Hội của Cụ Hồ Học Lãm (đã có từ 1935) với VN  Cách Mệnh Đồng Chí Hội của Trương Bội Công – Nguyễn Hải Thần thành Mặt  trận VN Độc Lập Đồng Minh. Trên danh nghĩa thì Mặt trận VN Độc Lập Đồng  Minh, gọi tắt là Việt Minh, được hoàn toàn “độc lập” theo như tinh thần  của bản tuyên ngôn, nhưng thực tế vẫn Độc Lập dưới sự chỉ đạo của Trung  Cộng!
Tháng 1 năm 1950, HCM đóng giả vai người  già bị  thương, đầu quấn khăn mặt, tay chống gậy, sang cầu viện Tàu  Cộng. Trần Đăng Ninh, một cán bộ lão thành trong đảng CS hộ tống và đôi  khi cõng HCM sang qua cửa Thủy Khẩu thuộc Long Châu, Quảng Tây. Sau đó,  HCM mới được đưa sang diện kiến Trung ương ĐCSTQ. Lưu Thiếu Kỳ tiếp HCM  tại Trung Nam Hải. Phía Trung Cộng có Chu Đức, Đồng Tất Vũ, Lưu Bá Thừa,  Nhiếp Vinh Trần, Lý Duy Hán. Phía Việt Minh có Trần Đăng Ninh, Hoàng  Văn Hoan. Sau mấy buổi họp đầu tiên không mấy thành công, HCM muốn đi  Liên Xô cầu viện. Vì cũng chưa sẵn sàng yểm trợ cho HCM, nên Lưu Thiếu  Kỳ báo cáo với Mao Trạch Đông về việc này, và dàn xếp cho HCM đi theo  Mao Trạch Đông đến Liên Xô. 
Chuyến đi thất bại. Stalin không chịu viện  trợ cho HCM chống Pháp, mặc dù Mao Trạch Đông giới thiệu và năn nỉ, vì  trong suốt chuyến đi, HCM đã biểu diễn thành công màn kịch là một tay  đàn em khả tín, biết quỵ lụy và vâng phục. Vì thế, khi về đến Trung Nam  Hải, Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ quyết định giúp HCM bằng một phái  đoàn Cố Vấn tối cao do Vi Quốc Thanh, nguyên Phó Tư Lệnh Lực Lượng Công  An Trung Cộng làm trưởng đoàn qua VN. Nhóm Cố Vấn này được HCM ra lệnh  cho toàn thể đảng viên gọi là “Các đồng chí Cố Vấn Vĩ Đại TQ.”
Đồng thời với việc gửi đoàn Cố Vấn Vĩ  Đại sang VN mở đầu chiến dịch giúp HCM, Trung Cộng viện trợ 150,000 khẩu  súng, hơn 3,000 khẩu pháo, và đạn dược, xe cộ, quần áo, lương thực, đồ  dùng hàng ngày như bát ăn cơm tráng men, khăn bông. (Trích bài viết của  Trương  Quảng Hoa, một Cố Vấn Vĩ Đại của HCM).
Ngày 2-9-1945, Nước VN Dân chủ Cộng Hòa  được thành lập nhưng không được nước nào công nhận, trừ Trung Cộng.  Staline mới đầu từ chối không công nhận cho đến khi Trung Cộng công nhận  rồi, mới chịu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Minh.
Thực hiện tích cực việc yểm trợ cho  CSVN, Trung Cộng đã chỉ đạo, giúp đỡ vũ khí, lương thực, Cố vấn, chiến  lược cho Việt Minh đánh Pháp. Mở đầu là Chiến dịch Biên giới đánh Đông  Khê (Thất Khê, Cao Bằng) năm 1950. Các trận đánh này đều do các Cố Vấn  Trần Canh, Nhiệm Cùng, Vân Dật, Thiên Hựu, Quí Ba, Kiếm Anh, Phương  Phương, Quốc Thanh định đoạt. (Trích thư của HCM gửi đảng CS TQ ngày  14-10-1950).  
Từ đó, các thắng lợi khác với quân Pháp  cũng đều do Cố vấn TQ chỉ đạo. Những cố vấn này lại nhận chỉ thị trực  tiếp của Lưu Thiếu Kỳ vì Mao Trạch Đông giao cho Lưu Thiếu Kỳ trách  nhiệm điều khiển Việt Minh.
Chiến dịch viện trợ vĩ đại nhất mà Trung  Cộng giúp Việt Cộng là trận Điện Biên Phủ. Thắng lợi có tính quyết định  là do Cố vấn Vi Quốc Thanh chỉ huy. Trước trận chiến quyết định này, có  một số trận đánh khác nhằm để tiêu hao lực lượng quân Pháp. Từ ngày 20  tháng 01 năm 1954, các chiến lược tấn công từ Tây Bắc xuống đến phía Nam  như Kontum, Pleiku, Tây Nguyên, Phú Yên… đều do Vi Quốc Thanh hoạch  định. Võ Nguyên Giáp chỉ biết thi hành theo chiến thuật. Sau khi thắng  lợi được vài trận, Vi Quốc Thanh quyết định nhận lời đánh Điện Biên Phủ  theo lời năn nỉ của Võ Nguyên Giáp. Mới đầu, vì quân Pháp không nắm vững  được tin tức về sự chỉ huy của Vi Quốc Thanh, nên còn gửi thư thách  thức Việt Minh. De Castries, tư lệnh quân Pháp ở Điện Biên Phủ, viết thư  cho Võ Nguyên Giáp:
“Tôi biết bộ đội của ông đã bao vây Điện  Biên Phủ, nhưng vì sao không tấn công? Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi. Nếu  ông có gan dám mở tấn công, thì xin bắt đầu đi. Tôi đang chờ đón những  thách thức của ông, quyết một phen thắng bại với ông”.
Thư được trình lên Vi Quốc Thanh, hắn cười nói:
“Lão De Catries này ngông cuồng lắm! Hãy đợi đấy! Đến lúc chiến dịch mở màn, là lúc hắn khóc.”
Người phiên dịch báo cáo:
“De Castries là một danh tướng của Lục  quân Pháp là cấp dưới cũ của Navarre, đã qua trường Quân sự, là học  viên ưu tú. Hắn vốn quân hàm Đại Tá, gần đây vừa được phong Thiếu  Tướng.”
Vi Quốc Thanh nói:
“Thế thì hãy để xem chúng ta học được cái gì ở học viên ưu tú này, xem họ có tài chỉ huy đến đâu!”
Và thế là mọi kế hoạch tấn công Điện  Biên Phủ đều do Vi Quốc Thanh chỉ đạo. Từ HCM đến Võ Nguyên Giáp đều im  re, nghe lệnh của Vi Quốc Thanh.
Sau khi thắng trận, Hồ chí Minh mở tiệc  chiêu đãi Vi Quốc Thanh, và ôm hôn tay Đại Cố Vấn này. HCM còn làm một  bài thơ chữ Hán tặng Vi Quốc Thanh:
 Bách Lý tầm xuân vi ngộ quân
Mã đề đạp toái lĩnh đầu văn
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ
Nhất phiến hoàng hoa nhất điểm xuân
Mã đề đạp toái lĩnh đầu văn
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ
Nhất phiến hoàng hoa nhất điểm xuân
(Trăm dặm tìm bạn không gặp, vó ngựa dẫm  nát mây đỉnh núi, Quay về tình cờ gặp cây mai rừng, mỗi đóa hoa vàng  một điểm xuân). (Tài liệu của đại cố vấn Vương Chấn Hoa tức Vu Hóa  Thầm).
Từ đó, cho đến 30-4-1975, nhất cử nhất  động đều do Đại Cố Vấn TQ chỉ huy và yểm trợ. Ngoài việc viện trợ súng  đạn và lương thực, Trung Cộng còn cung cấp nhân sự. Các binh lính Trung  Cộng đều trá hình làm lính hậu cần.
Trong thời gian giúp cho Việt Cộng thành  công việc cưỡng chiếm miền Nam, Trung Cộng đã để lộ dã tâm muốn đòi nợ  chiến tranh bằng lãnh thổ. Khi Nixon dội bom Bắc Việt, Trung Cộng cho  thiết lập giàn rada phòng không từ bên trong đất Bắc VN. Sau khi chiến  tranh chấm dứt, Trung Cộng không rút về, mà biến thành đất của TQ luôn.  Dàn phòng không này, hiện nay, được biến cải thành pháo đài vừa phòng  không vừa có thể phóng hỏa tiễn tấn công, lại được dùng để khống chế  Việt Cộng. Bộ Chính Trị CSVN tuy biết là Trung Cộng xâm lăng một cách âm  thầm, nhưng vì nợ ơn nhiều quá, nên phải im lặng, vả lại cũng biết  rằng, nếu chỉ một câu nói gây bất bình cho các đại cố vấn, thì tình hình  nguy ngập liền.
Trận chiến năm 1979 xảy ra không phải vì  Việt Cộng muốn đấu lại “cha đỡ đầu” (God Father) Trung Cộng mà vì Trung  Cộng bực tên đàn em đã xua quân qua chiếm Campuchia mà không xin phép  đàn anh, nên mới “dạy cho VN một bài học”. Sau trận này, Việt Cộng khiếp  hãi, không bao giờ dám làm mất lòng đàn anh nữa.
Hiện nay, dọc biên giới phía Bắc VN,  Trung Cộng chiếm hết các đỉnh cao để đặt rada, thêm vài ngàn cây số  vuông cưỡng chiếm bằng cách dời cột mốc, cộng với tất cả các rừng đầu  nguồn, dưới danh nghĩa là “cho thuê miễn phí 50 năm” tại 18 tỉnh đã lên  đến 300 ngàn hecta rồi. Tại cửa “khẩu”, hàng hóa Tàu và hàng giả mạo  quốc tế tự do tràn vào VN không thể kiểm soát nổi, không đóng thuế. Công  An Việt Cộng đứng hút thuốc lá Tàu, nhìn dân “cửu vạn” Việt khiêng hàng  Tàu vào ào ạt và đành chấp nhận cho những hàng dỏm, hàng Tàu này giết  chết hết hàng nội địa VN.
Đau đớn và ô nhục nhất là ngày  14-9-1958, Việt Cộng đã dâng cho Trung Cộng 2 quần đảo Hoàng Sa (hơn 10  đảo) và Trường Sa (hơn 100 đảo, hiện nay VC lật lọng đang gắng chiếm giữ  hơn 10 đảo) trong khi lính chế độ Sài Gòn đang canh giữ, bằng một công  hàm bán nước do Thủ tướng Phạm Văn Đồng VC ký, theo lệnh của HCM !!!
Tại Tây Nguyên, Trung Cộng vừa khai thác  Boxit, vừa thiết lập hệ thống phòng không thứ hai, và đặt máy trinh  thám, theo dõi các hoạt động của Bộ Chính Trị và quân đội. Đặt bảng chỉ  dẫn bằng tiếng Tàu, cấm người Việt vào. Chung quanh các khu vực Trung  Cộng khai thác này, người dân Việt phải tuân theo luật lệ của lính Tàu,  nếu không muốn bị bắt, đánh đòn, và nộp tiền chuộc mạng. Lính Tàu đội  lốt công nhân, bắt cóc gái Việt, cưỡng bức lấy chúng, hoặc cưỡng hiếp.  Những đứa trẻ sinh ra bởi các cuộc hôn nhân cưỡng hiếp này được khai  sinh dưới tên Tàu. Dần dần chúng biến dân Việt thành dân Tàu qua thẻ  CMND, được hưởng quyền lợi đặc biệt hơn dân Việt. Nếu dân làng phản đối,  lính Tàu có thể tung hàng trăm người tràn vào làng, dùng gậy phá nhà,  đánh đập dân chúng trong khi Ủy Ban Nhân Dân và công an Việt Cộng bỏ  chạy. Nhiều nhà nghiên cứu cho biết, thực ra, Trung Cộng cũng cần có  bôxít để làm nhôm, nhưng mục tiêu chiếm lĩnh VN quan trọng hơn nhiều. Do đó, cho đến nay, tháng 7 năm 2010, vẫn chưa thấy ký lô nhôm nào xuất xưởng.
Trung Cộng cũng “trúng thầu” khai thác  con đường xuyên Bắc Nam, đi dọc theo những tỉnh thành quan trọng. Bên  cạnh con đường đó là tất cả các dịch vụ phục vụ cho văn hóa Tàu. Ngoài  biển Đông, Trung Cộng khống chế vùng biển, dành quyền khai thác thủy  sản, bắt ngư dân Việt phải theo luật lệ của chúng, nếu không, sẽ bị bắt,  bị đánh, bị giết, bị tịch thu tàu và các phương tiện đánh cá, ngoài ra,  phải nộp tiền chuộc mạng.
Nhìn chung, VN ngày nay là cái sân sau  của Trung Cộng. Những tên Thái Thú Trung Cộng này văn minh hơn xưa,  không bắt dâng nộp gái tơ, ngà voi, tê giác, ngọc trai như xưa, nhưng  tha hồ mua gái Việt với giá rẻ như bèo, hưởng thụ tài nguyên và nhân lực  VN không tốn một viên đạn. ĐCSVN hiện nay, luôn rêu rao là đang thực  hiện đúng đắn những phương châm lãnh đạo đất nước là “Đảng lãnh đạo, Nhà  Nước quản lý, Nhân Dân làm Chủ”.  Họ chỉ dấu đi hai chữ “Trung Cộng”  sau những nhóm chữ đó. Nhóm chữ này, nếu viết đầy đủ, sẽ là : “Đảng CSTQ lãnh đạo, Nhà Nước VN quản lý, Nhân Dân TQ làm chủ kinh tế, lãnh thổ và nhân sự VN”.
Chu Tất Tiến 
 

