Alexander L. Vuving *- Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương
Nền  chính trị Việt Nam có những  phe  phái chính nào? Điều gì là đặc trưng  cho những động lực của nền  chính  trị ấy? Nó sẽ như thế nào trong vài  năm tới? Bài viết này cố gắng  trả  lời các câu hỏi trên. Bài đưa ra ý  sau: Nền chính trị Việt Nam có  thể  được hình dung như một trò chơi giữa  bốn phe phái chính. Nếu chính  phủ  được định nghĩa là nơi tập trung  quyền lực chính trị của một nước,   thì Chính phủ Việt Nam trước hết được  hiểu là chế độ của phe bảo thủ,   phe hiện đại, phe trục lợi và Trung  Quốc. Mỗi phe là một khối các nhân   vật khác nhau có chung khuynh hướng  hay mục tiêu chiến lược cao nhất.

Sự   khác biệt của ba khối cùng  là người Việt này cần được giải thích sâu   hơn. Tiêu chí để xếp ai đó vào  một khối là sự ưu tiên hay khuynh hướng   của người ấy trước một số vấn  đề cơ bản như ý thức hệ (đất nước nên  mở  hay đóng cửa trước các tư tưởng  tự do từ phương Tây) và quan hệ của   Đảng Cộng sản (ĐSC) với dân tộc  (Đảng ở cao hơn hay thấp hơn dân  tộc).  Phe bảo thủ là một khối thiên về  lựa chọn chính sách “khép cửa”  và  “Đảng là số 1”; phe hiện đại chọn lựa  chính sách mở cửa và vì tiền  đồ  của toàn dân tộc; phe trục lợi hướng đến  bất kỳ cái gì mang lại cho  họ  nhiều lợi ích nhất.
Trong  các bài diễn văn, giới  lãnh đạo  thường sử dụng ngôn từ hàng ngày, tuy  nhiên cách họ nhấn mạnh  những  điểm nào đó sẽ bộc lộ lập trường của họ.  Một nhân vật bảo thủ như   nguyên Tổng Bí thư Đảng Lê Khả Phiêu có thể  nhấn mạnh các ý “dân chủ   trong nội bộ đảng”, “kinh tế thị trường định  hướng xã hội chủ nghĩa” và   Việt Nam như “một quốc gia hiện đại”, một  “đối tác hữu nghị đáng tin  cậy  với những nước khác”, nhưng cách nhấn  mạnh của ông Phiêu là dựa  trên  bản chất giai cấp, tương phản với bản  chất của toàn dân tộc, nó  vì những  lợi ích cốt lõi của đảng, duy trì  đặc tính “xã hội chủ nghĩa”  của đất  nước, và mâu thuẫn với phương Tây  “tư bản và đế quốc. Hiện  đại hoá, cải  cách, dân chủ và hội nhập quốc  tế, nếu được thực thi, chỉ  là phương tiện  để đi tới một mục đích cao  hơn, và nếu cần, có thể hy  sinh những phương  tiện này. Mục đích cao hơn  ấy là sự tiếp tục chế độ  cộng sản. (1)
Một  người thuộc phe hiện đại,  như cố  thủ tướng Võ Văn Kiệt, có thể cam kết  duy trì “vai trò lãnh đạo  của  đảng” và xây dựng “chủ nghĩa xã hội”  nhưng tầm nhìn của ông về đảng  và  chủ nghĩa xã hội hoàn toàn khác những  người bảo thủ. Ông Kiệt và   những nhân vật hiện đại khác trong ĐCS muốn  một đảng coi lợi ích của   toàn dân tộc là lợi ích của chính nó và định  nghĩa xã hội chủ nghĩa là   “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân  chủ, văn minh”. Chủ nghĩa   yêu nước, chứ không phải chủ nghĩa Mác-Lênin,  là lý tưởng ràng buộc và   dẫn đường cho phe hiện đại. Trong khi phe bảo  thủ như các tổng bí thư  Đỗ  Mười, Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh đều quả  quyết rằng “độc lập  dân tộc  và chủ nghĩa xã hội” (nghĩa là biệt lập  khỏi những ảnh hưởng  tự do, ảnh  hưởng phương Tây, đồng thời duy trì các  đặc trưng cộng sản  và sự cai  trị của cộng sản) là những nguyên tắc cơ  bản của chính sách  Việt Nam,  ông Kiệt trong một lá thư mật gửi tới Bộ  Chính trị ĐCS vào  tháng 8/1995  đã thay thế những cụm từ ấy bằng “dân  tộc và dân chủ”.  (2) Mặc dù những  nhân vật tinh hoa theo phe hiện đại  không thể tán  thành dân chủ đa đảng  vì đây là điều cấm kỵ, nhưng phe  này ủng hộ cải  tổ chính trị nhiều hơn,  sâu hơn nhằm mở rộng dân chủ và  tăng cường  tính hiệu quả.
Phe  trục lợi là những nhà cơ  hội, tìm  kiếm lợi ích tối đa thường có được  nhờ những đặc quyền do chính  phủ  ban cho; không quan tâm tới khái niệm  lợi ích dân tộc dù là theo  định  nghĩa của phe bảo thủ hay phe hiện đại.  Như phần sau sẽ chỉ ra, phe   trục lợi ở Việt Nam là một nhóm đặc biệt  gồm những người mưu tìm lợi   nhuận, và họ mạnh hơn phe hiện đại cũng như  phe bảo thủ nhờ có một thế   lực độc quyền hậu thuẫn.
Cả ba  khối này – bảo thủ, hiện  đại và  trục lợi – đều hiện diện ở cả trong và  ngoài đảng cầm quyền và  chính  phủ, và họ hiện diện ở mọi cấp hoạch định  chính sách. Những con  đường  sai lầm mà họ chọn trải dài qua nhiều thế  hệ, khu vực và định chế.   Phần lớn các nhà lãnh đạo Việt Nam thường giữ  lập trường ít nhiều thống   nhất trong một khối, nhưng cũng có một số  người chuyển từ phe này  sang  phe khác và những người khác thì khó nhận  biết hơn. Những nhân  vật bảo  thủ nổi bật gồm các Tổng Bí thư Đỗ Mười  (1991-97), Lê Khả  Phiêu  (1997-2001), Nông Đức Mạnh (2001 đến nay), và  nguyên Chủ tịch  nước Lê  Đức Anh (1992-1997). Phe hiện đại hiện diện  mạnh mẽ hơn trong  đội ngũ  lãnh đạo cao cấp thông qua các gương mặt cố  Bộ trưởng Ngoại  giao Nguyên  Cơ Thạch (1982-1991), cố Thủ tướng Võ Văn  Kiệt (1991-1997)  và nguyên Chủ  tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (2001-2006),  và các nhân  vật ít tạo dấu ấn  hơn như cựu Chủ tịch nước Võ Chí Công  (1987-1992) và  nguyên Thủ tướng  Phan Văn Khải (1997-2006). Nguyên Chủ  tịch nước Trần  Đức Lương  (1997-2006) có thể coi là thuộc phe trục lợi.  Cố Tổng Bí  thư Nguyễn Văn  Linh (1986-1991) đã thay đổi, chuyển từ phe  hiện đại  sang phe bảo thủ  vào năm 1989. Và Chủ tịch nước Nguyễn Minh  Triết  (2006 đến nay) là người  khó nhận biết là theo phe nào.
Chính  trị Việt Nam diễn ra trên  bốn  bình diện lớn – kinh tế, chính trị trong  nước, quan hệ nhà nước –  xã  hội, và quan hệ đối ngoại. Động lực (tức  yếu tố kích thích sự thay  đổi  – ND) của nó trong mỗi lĩnh vực ấy đều có  một đặc trưng riêng biệt.   Trên mặt trận kinh tế, động lực ấy là sự  khủng hoảng của mô hình phát   triển kiểu Việt Nam. Ở trung tâm của nền  chính trị trong nước, động lực   ấy là một hợp lưu giữa ba dòng: tiền,  quyền và tác động từ thế giới,   hoặc nói một cách tao nhã hơn, đó là ba  dòng lợi ích, quyền lực và  tiền  đồ bên ngoài. Sự nổi lên của xã hội dân  sự, đặc biệt là khối dân  sự tinh  hoa dòng chính thống, ngày càng tạo  nên một xu thế trong quan  hệ nhà  nước – xã hội. Trong lĩnh vực địa  chính trị, tâm điểm của chính  trị Việt  Nam nằm ở những nỗ lực hòng đạt  được sự tự lực tự cường trên  vùng sân  sau của Trung Quốc.
Năm  2009 đã ghi nhanh tình hình  chính  trị Việt Nam với bốn phe chính và  những đặc điểm của các động lực   trong nền chính trị ấy. Phần thảo luận  tiếp sau đây sẽ phác thảo nên   một số nét của chính trị Việt Nam thông  qua việc xem xét bốn phe phái   chính cùng bốn đặc điểm, được minh họa  bằng những sự kiện và quá trình   trong suốt năm 2009.
Nơi hội tụ của  Lợi ích, Quyền lực, và Tiền đồ
Từ khi khởi động phong trào đổi mới vào    năm 1986, Việt Nam đã thể nghiệm một sự pha trộn chủ nghĩa cộng sản  và   chủ nghĩa tư bản. Thử nghiệm này là một cuộc chung đụng đầy mâu  thuẫn   giữa hai đường lối chủ đạo do hai khối theo đuổi, hai khối này  có thể   gọi là “phe bảo thủ” và “phe hiện đại”. Tôi gọi họ thế bởi lẽ  mục tiêu   trọng tâm của phe bảo thủ là duy trì chế độ cộng sản trong  khi mục tiêu   của phe hiện đại là hiện đại hóa đất nước bằng cách đưa  vào các yếu tố   tư bản và tự do chủ nghĩa. (3) Mặc dù có một thực tế là  hai khối này  đại  diện cho hai đường lối chủ đạo cùng cai trị đất  nước, nhưng nền  chính  trị Việt Nam không phải chỉ gồm hai phe bảo thủ  và hiện đại. Quá  trình  “chung đụng” đã tạo ra một khối thứ ba, tận  dụng cái hỗn hợp nói  trên và  có khả năng thích ứng cao với môi trường  “nước lợ”. Khối thứ ba  nỗ lực  duy trì hỗn hợp tư bản-cộng sản chủ  nghĩa để hậu thuẫn cho  đường lối của  họ. Vì chủ nghĩa tư bản đem đến  cơ hội kiếm tiền, còn chủ  nghĩa cộng  sản mang lại độc quyền quyền lực,  nên hỗn hợp của cả hai sẽ  tạo điều  kiện vừa có lợi cho việc dùng tiền  để mua quyền, vừa có lợi  cho việc  dùng quyền để kiếm tiền. Khối thứ  ba này, có thể được gọi bằng  cái tên  “phe trục lợi”, dùng tiền để thao  túng nền chính trị, và một  khi đã có  cửa vào vị trí quyền lực trong  ĐCS, họ sẽ sử dụng độc quyền  về chính trị  để tạo siêu lợi nhuận. (4)  Không giống như phe bảo thủ và  phe hiện đại,  phe trục lợi không theo  chủ trương đường lối nào; họ chỉ  đi theo động  cơ lợi nhuận.
Khi sự  đồng tồn tại chủ nghĩa  cộng sản  và chủ nghĩa tư bản trở thành đặc  trưng của nền chính trị Việt  Nam,  thì bằng trực giác, có thể nghĩ rằng  hầu hết xung đột chính trị ở  Việt  Nam đều diễn ra dọc cái trục bảo thủ  chống hiện đại. Tuy nhiên, mô   hình như vậy không chính xác. Không chính  xác bởi vì nó đã bỏ qua phe   trục lợi, mà trong nhiều trường hợp đó mới  là những nhân vật chủ chốt;   hoặc nó đã chỉ coi đám ấy như những kẻ mưu  kiếm tiền – những người mà   theo suy luận thông thường, hẳn phải thích  chủ nghĩa tư bản hơn chủ   nghĩa cộng sản. Mà nếu thế thì trong mô hình  này, phe trục lợi có xu   hướng ngả về phía phe hiện đại hơn là về phe  bảo thủ. Tuy vậy, trên  thực  tế, các nhân vật thuộc phái trục lợi ở Việt  Nam có xu hướng đi  cùng phe  bảo thủ khi nào cần tiếp tục độc quyền  lãnh đạo của ĐCS, và  đi cùng phe  hiện đại khi nào cần cho phép các đảng  viên sở hữu những  tài sản lớn và  điều hành công ty tư bản. Phe trục  lợi là một loài  chuyên sống ở “vùng  nước lợ” – chủ nghĩa trọng thương  dưới chế độ cộng  sản. Được độc quyền  lãnh đạo của ĐCS hậu thuẫn, họ rõ  ràng là mạnh  hơn hẳn những người chỉ  mưu kiếm tiền thuần túy. Với sự  tồn tại của  phe thứ ba này, nền chính  trị Việt Nam, ở một chừng mực nào  đó là sự  tranh chấp giữa phe bảo thủ  và phe hiện đại, nhưng ở một  chừng mực  khác lại là ngã ba hợp lưu ba  dòng lợi ích, quyền lực, và  tiền đồ. (5)
Năm  2009 chứng kiến hợp lưu ba  dòng  lợi ích, quyền lực, và tiền đồ qua một  vài vụ việc, trong đó hai vụ  có  thể nói là rất nổi bật. Vào ngày 19/11,  Tòa phúc thẩm tỉnh Cần Thơ   tuyên y án sơ thẩm hồi tháng 8 đối với bị  cáo Trần Ngọc Sương, được  biết  đến với tên gọi “bà Ba Sương”, vì tội  lập quỹ giao dịch ngoài sổ  sách.  Là cựu giám đốc Nông trường quốc doanh  Sông Hậu, từng được Chính  phủ  trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động,  bà Sương bị kết án 8 năm  tù, buộc  bồi thường 4,3 tỷ đồng (tương đương  240.500 USD). Bản án gây  phẫn nộ  trong dư luận, vài quan chức cấp cao  và nhân vật có danh phận  lên tiếng  ủng hộ bà Sương. Nguyên phó Chủ tịch  nước Nguyễn Thị Bình,  một nhà bảo  thủ, nói bản án đối với bà Sương là  “bất công” bởi bà  Sương đã “cống  hiến cả đời mình cho cuộc sống của  hàng nghìn nông dân”  và bà “lập quỹ  không vì mưu lợi cá nhân”, một chân  dung từng được  những tờ báo có tư  tưởng đổi mới dựng nên và còn được  xác nhận bởi nhà  báo Huy Đức, người  đã viết bài về Nông trường Sông Hậu  và bà Sương  trong nhiều năm. Báo chí  cũng viết rằng Nông trường Sông  Hậu được  Chính phủ tặng hai Huân chương  Lao động và coi như một điển  hình của  chủ nghĩa xã hội – nơi nhà nước  giữ quyền sử dụng đất nhưng  cung cấp  phúc lợi tương đối tốt.
Mặc dù  cơn thịnh nộ của công  chúng  được khuấy lên chủ yếu do khía cạnh đạo  đức của vụ việc, nhưng  người  ta cũng hy vọng rằng chính quyền xã hội  chủ nghĩa sẽ can thiệp để  cứu  lấy một vị anh hùng trong sự nghiệp của  chế độ. Nhưng chính quyền đã   không làm thế. Trên thực tế, đại diện của  bà Sương tại tòa án là những   luật sư có tư duy đổi mới và sự ủng hộ của  công chúng dành cho bà cũng   do cánh báo chí đổi mới huy động. Còn  chính quyền đã làm gì? Tòa án  nhận  chỉ thị từ lãnh đạo đảng ủy Cần Thơ,  và sau vài tuần đưa tin ồ  ạt, giới  truyền thông được lệnh phải chấm  dứt nói về vụ án bà Sương.  Trước đó,  trong hậu trường, cơ quan chính  quyền tỉnh Cần Thơ vốn đã có  quyết định  phân bổ đất của Nông trường  Sông Hậu cho một dự án khu  công nghiệp và  khu đô thị. Phó Bí thư tỉnh  ủy Cần Thơ Phạm Thành Vận  được ghi âm đã nói  câu này với bà Sương: “Chị  sẽ về hưu và hạ cánh an  toàn nếu chị trả lại  đất của nông trường [cho  thành phố]”. (6)
Vụ  việc thứ hai liên quan đến  Jetstar  Pacific Airline (JPA), một liên  doanh giữa Công ty Đầu tư Vốn  Nhà nước  (SCIC) với hãng hàng không  Qantas của Australia, trong đó doanh   nghiệp nhà nước của phía Việt Nam  (DNNN) sở hữu 70% cổ phần, chiếm đa   số. Cuối năm 2009, tranh cãi bùng  nổ sau khi một cuộc điều tra của Cơ   quan Kiểm toán Nhà nước cho thấy  các giám đốc điều hành của JPA gây  thua  lỗ tới 31 triệu USD trong một  thương vụ mua xăng, thế nhưng họ  lại kiếm  được nhiều hơn giám đốc điều  hành của các DNNN tương tự.  Tranh cãi cũng  kéo theo một số nghi vấn về  mức lương cao bất thường  của các giám đốc  điều hành SCIC. Đầu tháng 12,  ông Lương Hoài Nam,  nguyên giám đốc điều  hành JPA kiêm quan chức cấp  cao của SCIC, bị công  an bắt do có dính líu  vào thương vụ mua xăng,  trong khi hai giám đốc  điều hành người Úc của  JPA bị cấm xuất cảnh khỏi  Việt Nam.
Tiền  thân của JPA là Pacific  Airlines  (PA), một liên doanh trong nước, trong  đó hãng vận tải quốc  doanh  Vietnam Airlines (VNA) nắm phần lớn cổ  phần. Được thành lập năm  1990,  PA là hiện thân cho nỗ lực của phe hiện  đại muốn tạo ra một mức độ   cạnh tranh nhất định trong ngành hàng không  của Việt Nam. Tuy nhiên,   duy trì yếu tố cạnh tranh này tỏ ra là một  việc khó. Sau 10 năm hoạt   động, PA công bố lỗ chồng chất tới hơn 10  triệu USD. (7) Mặc dù là công   ty con của VNA, song có tin PA không được  công ty mẹ chào đón lắm.
Vị thế  độc quyền của hãng vận  tải quốc  doanh này trở thành một thực tế khó  nhằn đối với công ty kế  nhiệm PA.  Có thể thấy hợp lưu ba dòng lợi ích,  quyền lực và tiền đồ  trong vụ  này, theo một bài báo trên tờ Herald Sun:
[Vào  giữa năm 2009]. Thủ tướng  Nguyễn  Tấn Dũng buộc phải can thiệp khi nguồn  cung xăng máy bay bị cắt  đứt do  Vietnam Airlines không cho đội xe của  mình tiếp tế nhiên liệu cho   Jetstar Pacific. Loạt rắc rối mới nhất với  Jetstar Pacific bắt đầu   tháng 7 năm đó khi công ty báo cáo tháng đầu  tiên có lợi nhuận sau suốt   18 năm vận hành (mà hồi ban đầu là dưới tên  gọi Pacific Airlines).  Khi  ấy, Bộ Giao thông Vận tải liền ra lệnh cho  Qantas bỏ tên Jetstar  và bỏ  thương hiệu màu cam nổi bật khỏi hạm đội 6  chiếc Jetstar, họ bảo  như thế  “Úc quá”. (8)
Nhà quan sát kỳ cựu Carlyle Thayer phân tích:
Vấn đề  nảy sinh là do thành  công của  Jetstar Pacific vào giữa năm 2009, khi  hãng này lại làm ăn có  lãi sau  khi đã cắt giảm chi phí và tăng thị phần  (18% lên 25%) làm  Vietnam  Airlines phải thua thiệt. Hoạt động đẩy mạnh  một cách quyết liệt  việc  bán vé giá rẻ của Jetstar Pacific đã làm  người ta khó chịu. Tôi  nhìn  thấy một sự tương đồng với vụ ANB-AMBRO năm  2006 khi một ngân hàng   quốc doanh để thua lỗ trong những vụ đổi tiền. Ở  đây, trong vụ Jetstar   Pacific thì Tổng Công ty Đầu tư Vốn Nhà nước  thua lỗ vì một thương vụ   thực hiện phòng ngừa rủi ro về xăng dầu (fuel  hedging). Trong cả hai  vụ  việc, an ninh điều tra/ công an đã hình sự  hóa hoạt động quản trị  kinh  doanh và hình sự hóa việc ra những quyết  định sai lầm. Người Hà  Lan đã  trả vài triệu để thoát trách nhiệm, và  tôi hồ nghi việc  Qantas/Jetstar  sẽ phải chi một khoản phạt hay bồi  thường nào đó, do  vậy SCIC, một doanh  nghiệp nhà nước, sẽ không được  miễn thuế… Rõ ràng  là có một nhóm lợi  ích thuộc doanh nghiệp nhà nước  trong công việc.  Đây là chuyện phải lấy  được tiền ra khỏi Qantas khi  các nhân viên  trong nước của họ tiến hành  nghiệp vụ hedging và thua lỗ  vì giá xăng.  Điều này ảnh hưởng tới Tổng  Công ty Đầu tư Vốn Nhà nước,  vốn là cổ  đông chính trong Jetstar. (9)
Khủng hoảng mô hình tăng trưởng
Trong  hai thập niên qua, hợp  lưu ba  dòng lợi ích, quyền lực, và tiền đồ, ở  một nước Việt Nam thời kỳ  đổi  mới đã tạo ra một đường lối kinh tế làm  lợi nhiều nhất cho phe trục   lợi. Trong giai đoạn đầu của nó, con đường  do đồng tiền dẫn dắt này đi   song song với con đường do lao động dẫn  dắt, và đã trình diễn những mô   hình tăng trưởng đáng chú ý. Vào năm  2005, ấn tượng trước các thành  tựu  tăng trưởng của Việt Nam trong thập  niên trước đó, Goldman Sachs  đã coi  Việt Nam là một trong “11 Quốc Gia  Kế Tiếp” có tiềm năng tạo  được ảnh  hưởng giống như khối BRIC trong việc  cạnh tranh với G7. (10)  Nghiên cứu  của Goldman Sachs cho rằng vào năm  2025 Việt Nam có thể trở  thành nền  kinh tế lớn thứ 17 trên thế giới và  vào năm 2050 thì đứng  vị trí thứ 15.  Những dự báo này dựa trên tiền đề  “các nền kinh tế đó  có thể tiếp tục  đi con đường hiện tại của họ”. (11)  Nhưng chẳng bao  lâu sau khi các báo  cáo được công bố, mô hình tăng  trưởng của Việt Nam  đã bộc lộ nhiều dấu  hiệu cho thấy các vấn đề nghiêm  trọng. Suốt trong  năm 2008, tỷ lệ lạm  phát tăng vọt lên mức hơn 20%,  buộc chính phủ  phải hãm phanh đối với  chính sách ưu tiên tăng trưởng và  đổi số sang  chương trình chống lạm  phát. Rất tương ứng với dự đoán của  chúng tôi  trong bài này, các bong  bóng vỡ tung khi cơn sốt đầu tư tiếp  sau việc  Việt Nam gia nhập Tổ chức  Thương mại Thế giới (WTO) va đập  với các nút  cổ chai của hệ thống hành  chính, các thiết chế, cơ sở hạ  tầng, và  giáo dục của đất nước. (12) Nổi  lên trên tất cả những cái đó  là cuộc  khủng hoảng tài chính toàn cầu, bắt  đầu cùng vào năm ấy.
Là một  nền kinh tế mà giá trị  ngoại  thương nhiều hơn tổng sản phẩm quốc nội  xấp xỉ 1,5 lần, Việt Nam  bị  ảnh hưởng rất nặng từ cuộc khủng hoảng toàn  cầu. Đầu tư nước ngoài sa   sút mạnh và thị trường nước ngoài cho sản  phẩm của Việt Nam bị thu nhỏ.   Khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài  (FDI) được cấp phép trong năm   2009 là 21,5 tỷ USD, thấp hơn 70% so với  năm trước đó. Lượng FDI được   giải ngân trong năm 2009 ước đạt 10 tỷ  USD, giảm 13% so với năm 2008.   Xuất khẩu của Việt Nam năm 2009 ước tính  đã sụt giảm 9,7% xuống còn  56,6  tỷ USD, trong khi nhập khẩu giảm 14,7%  xuống còn 68,8 tỷ USD.  Phần đáng  kể trong mức suy giảm xuất khẩu của  Việt Nam trong năm 2009  là do những  mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất  nước bị giảm giá bán,  như dầu, gạo,  cà phê, than. Kim ngạch xuất khẩu  dầu thô của Việt Nam,  vốn chiếm 11%  tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước,  ước tính đã giảm 40%  mặc dù khối lượng  xuất khẩu chỉ giảm có 2,4%. Năm  2009, Việt Nam ghi  nhận kỷ lục về xuất  khẩu gạo và một mức tăng trưởng  25,4% cả năm về  khối lượng, nhưng giá  trị, chiếm 4,8% trong tổng xuất  khẩu, đã giảm  8%. Cũng vậy, xuất khẩu cà  phê, chiếm 3% tổng kim ngạch  xuất khẩu,  tăng 10,2% về khối lượng nhưng  giảm 19% về giá trị, và xuất  khẩu than,  chiếm 2,3%, giảm 4,5% về giá trị  bất chấp mức tăng 29,9% về  khối  lượng. (13)
Khủng  hoảng kinh tế gây ra một  cuộc  tranh cãi mới về định hướng chủ đạo trong  các chính sách kinh tế  của  Việt Nam. Đối với phe bảo thủ, khủng hoảng  hiện tại là bằng chứng rõ   ràng cho thấy vai trò giám sát và kiểm soát  của Nhà nước có tính quyết   định đối với sự vận hành của nền kinh tế.  Phe bảo thủ cũng ca ngợi  tính  ưu việt của hệ thống độc đảng trong việc  vượt qua khủng hoảng. Họ  lập  luận rằng độc đảng giúp huy động tối đa  nguồn lực và tạo sự đồng  thuận  vào thời điểm những điều này là cần  thiết nhất mà lại thường khó  đạt  được nhất. Các quan điểm như vậy được  bộc lộ chẳng hạn trong  những phát  biểu của ông Tô Huy Rứa, Trưởng ban  Tuyên giáo của Đảng,  tại hội nghị lý  luận lần thứ năm giữa hai đảng  cộng sản Trung-Việt,  tháng 12/2009.  Nhưng nhà tuyên truyền hàng đầu của  Đảng, người đã được  bầu vào Bộ Chính  trị tại phiên họp toàn thể lần  thứ 9 của Ban Chấp  hành TW Đảng hồi  tháng 1/2009, không phải là nhân  vật đại diện cho các  quan điểm của  riêng phe bảo thủ. Lặp lại lời của  phe hiện đại, ông  Rứa công nhận rằng  khủng hoảng đem lại một cơ hội tái  cấu trúc nền  kinh tế và ông ta đoan  chắc rằng việc tái cấu trúc phải  nhằm hướng tới  một mô hình tăng trưởng  mới dựa vào “lợi thế cạnh tranh  năng động” và  đưa vào khái niệm “phát  triển bền vững”. Tư duy mới này  về phát triển  là nhằm giảng hòa giữa ba  mục tiêu tăng trưởng kinh tế,  công bằng xã  hội, và thân thiện với môi  trường. (14)
Bề  ngoài, để tránh các vấn đề  gây  nhiều tranh cãi, diễn văn của ông Rứa  không nhắc gì tới vai trò của   các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vốn là  điểm mấu chốt trong cuộc tranh   cãi giữa phe bảo thủ và phe hiện đại.  Phe bảo thủ muốn giữ vai trò  chủ  đạo của khu vực nhà nước trong nền  kinh tế. Họ chủ trương rằng,  nền kinh  tế quốc dân phải dựa vào các DNNN  như là trụ cột, DNNN nào  lớn nhất thì  sẽ đóng vai trò như “quả đấm  thép” của quốc gia – cạnh  tranh mạnh mẽ  trên thị trường quốc tế và là  một công cụ quản lý hùng  mạnh, cả trong  kinh tế lẫn trong chính trị.  Không như các đơn vị tư  nhân, DNNN phải  tuân lệnh Đảng và Nhà nước, và  phải đáp ứng những  nhiệm vụ chính trị do  Đảng và Nhà nước đặt ra. Đổi  lại, các DNNN có  được sự ưu đãi về chính  sách, tín dụng, đất đai và các  nguồn lực khác  mà Nhà nước sở hữu. Sự  nhập nhằng giữa Nhà nước và các  công ty riêng  của nó thể hiện trong việc  các vị quan chức trong tập  đoàn  (conglomerate) Nhà nước lớn nhất đều là  ủy viên Ban Chấp hành TW  Đảng –  cơ quan mà xét về địa vị, vốn là cơ  quan chính sách có quyền lực  cao  nhất nước giữa hai kỳ đại hội Đảng.  (15)
Tuy  vậy, phe hiện đại lại coi  các tập  đoàn nhà nước như “những con khủng  long trong một nền kinh tế vị  thành  niên”. (16) Họ chỉ ra rằng các  doanh nghiệp này đã thất bại trong   việc trở thành những quả đấm thép  của quốc gia – không vươn lên mạnh mẽ   trong cạnh tranh quốc tế mà cũng  chẳng hoàn thành nhiệm vụ chính trị.   Thay vì thế, chúng ra sức tận dụng  và duy trì những đặc quyền đặc lợi  và  địa vị độc quyền được Nhà nước  thừa nhận – vì lợi nhuận của riêng   chúng. Hậu quả là, chúng trở thành  những nhà sản xuất kém hiệu quả và   tham nhũng. (17) Tái cấu trúc các  DNNN, do đó, là vấn đề trung tâm  trong  chương trình nghị sự của phe  hiện đại. Cụ thể, phe hiện đại đòi  thay  đổi cấu trúc sở hữu của SOE  theo hướng tư nhân hóa nhiều hơn.  Đánh giá  tình hình hiện nay, phe hiện  đại lập luận rằng mô hình tăng  trưởng của  Việt Nam đã đạt tới đỉnh và  tái cấu trúc là chìa khóa để  vượt qua khủng  hoảng cũng như tránh cái  bẫy thu nhập trung bình. Nhiều  người theo phe  hiện đại nhất trí rằng  đây phải là một cuộc tái cấu  trúc toàn diện bao  gồm cả biến đổi cơ cấu  sở hữu các DNNN, lẫn cải  cách các định chế và  điều lệ kinh tế, tái cấu  trúc thị trường và doanh  nghiệp nội địa. (18)
Chính  phủ cố gắng kết hợp quan  điểm  của cả hai phe hiện đại và bảo thủ. Tuy  nhiên, họ tập trung chủ yếu   vào giải quyết các vấn đề ngắn hạn có thể  đe dọa quyền lực của mình.   Khi khủng hoảng toàn cầu nổi lên, chính phủ  nhanh chóng sang số từ  chống  lạm phát thành chống suy thoái (tháng  12-2008). Phản ứng chủ đạo  của họ  là thực hiện một gói kích cầu với chi  phí lên tới 8 tỷ USD.  Khi nền  kinh tế bộc lộ những dấu hiệu hồi phục  và bóng ma lạm phát có  nguy cơ  quay lại, chính phủ phá giá tiền đồng  xấp xỉ 5% so với đô-la  Mỹ, làm  tăng lãi suất chuẩn của ngân hàng trung  ương lên 8%, và chấm  dứt chương  trình kích cầu sớm hơn dự định (cuối  tháng 11, đầu tháng  12/2009). (19)  Với tỷ lệ tăng trưởng 5,32%, Việt  Nam nổi bật, cùng với  Trung Quốc,  Indonesia và Campuchia, như một trong  số rất ít nền kinh  tế ở Đông Á  tăng trưởng hơn 2% trong năm 2009.
Tuy  nhiên, Việt Nam đã phải trả  một  cái giá cao cho thành công ngắn hạn của  mình. Việt Nam là một trong  số  ít nước vừa có thâm hụt ngân sách vừa  bị thâm hụt cán cân vãng lai.   (20) Nhất là, chính phủ lại chịu thâm hụt  ngoại thương khổng lồ suốt  hơn  một thập niên. Cùng lúc đó, như chính  Thống đốc Ngân hàng Trung  ương  Việt Nam thừa nhận, nợ nước ngoài của  Việt Nam đã tăng mạnh vào  năm 2009  so với các năm trước đó. Quỹ Tiền tệ  Quốc tế đánh giá nợ nước  ngoài của  Việt Nam ở mức một phần ba tổng sản  phẩm quốc nội (GDP),  còn Ủy ban  Ngân sách và Tài chính của Quốc hội  cho rằng tổng nợ của  chính phủ chiếm  tới 44,6% GDP. (21) Sự hội tụ tất  cả các yếu tố này  gây ra một tình thế  lưỡng nan cho chính phủ. Thâm hụt  cả ba mặt gây áp  lực khổng lồ khiến  tiền đồng suy yếu. Sự mất giá thê  thảm của tiền  đồng có thể làm tăng  xuất khẩu và giảm nhập siêu nhưng  cũng có thể gây  những tác động tâm lý  tiêu cực và làm các khoản nợ nước  ngoài lớn  thêm. Nhưng duy trì giá trị  danh nghĩa cao của tiền đồng quá  lâu có  thể vắt kiệt dự trữ ngoại tệ vốn  đã eo hẹp. Các nhà phân tích  ước tính  lượng đô-la bán ra trong năm 2009  nhằm ổn định tiền đồng đã  thu hẹp  dự trữ ngoại tệ của Việt Nam xuống  còn 16,5 tỷ USD, chỉ đủ cho  không  đầy ba tháng nhập khẩu. Bên ngoài khu  vực, các láng giềng của  Việt Nam  như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan thì  đã tăng đáng kể dự trữ  của họ.  (22)
Tỷ lệ  tăng trưởng tương đối cao  của  Việt Nam làm bộc lộ những điểm kém hiệu  quả đáng buồn nản. Năm  2009,  hệ số sinh lời từ gia tăng vốn đầu tư  (ICOR), chỉ số đo độ kém  hiệu  quả của chi tiêu đầu tư, tăng vọt lên mức  8,05 so với mức 6,92 của  năm  2008 và 4,76 của 2007. (23) Những con số  này cao hơn hẳn so với  những  nước tăng trưởng nhanh khác trong giai  đoạn đầu tư trước khi tới  đỉnh  của họ. Ví dụ, ICOR của Nhật Bản vào  thập niên 1960 và của Hàn Quốc   vào thập niên 1980 chỉ hơn 3. Gần đây  hơn là Trung Quốc, ICOR của họ   tăng từ 3 trong những năm 90 của thế kỷ  trước lên gần 4, mức trung bình   của giai đoạn từ 2001 tới 2008, và được  dự đoán là khoảng 6,7 vào năm   2009. (24) Chỉ số ICOR quá cao của Việt  Nam cho thấy mức tăng trưởng   kinh tế của quốc gia được dẫn dắt chủ yếu  nhờ mở rộng vốn đầu tư, chứ   không phải do tăng năng suất. Nếu Việt Nam  tiếp tục đi con đường hiện   nay, không chắc nền kinh tế sẽ cất cánh được  như dự án của Goldman  Sachs  đã nói, và suy sụp là rất có thể.
(Còn tiếp 1 kỳ)
Người dịch: Đan Thanh
 


