"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Montag, 29. November 2010

TRUYỆN KIỀU VÀ VĂN HÓA TRUNG QUỐC


A. Truyện Kiều và văn hóa Trung Quốc:
 
Nghiên cứu so sánh Truyện Kiều hôm nay không thể đóng khung trong phạm vi so sánh tay đôi giữa hai tác phẩm Truyện Kiều Kim Vân Kiều truyện, bởi bản thân sự vay mượn và sáng tạo của Nguyễn Du nằm trong quĩ đạo của các nền văn hóa bao bọc xung quanh, Truyện Kiều là sản phẩm của hành vi sáng tạo văn hóa có bối cảnh rộng lớn. “Văn hóa” từ những định nghĩa khoa lúc ban đầu của Morgan, Tylor đến nay đã được phân hóa và mở rộng, đổi mới. Theo Kroeber Kluckhohn có thể hiểu văn hóa một cách cô đọng là mô hình hành vi ngoại hiện hay nội ẩn được truyền bá qua ký hiệu, tạo thành quan niệm về truyền thống, quan niệm giá trị, vừa là sản phẩm của hoạt động con người, vừa là nhân tố giới hạn hoạt động tiến bộ của con người. Quan niệm này rất rộng, bao gồm nhân sinh quan Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, nhân sinh quan dân gian; quan niệm về văn học, nghệ thuật, ngôn từ, thể loại... Từ giác độ này có thể xác định Truyện Kiều như một sự lựa chọn và sáng tạo văn hóa.


Mối quan hệ Truyện Kiều với đạo Phật từ lâu đã được nhiều học giả chú ý. Có người xem tác phẩm là sự minh họa cho tư tưởng nghiệp báo của Phật học (Trần Trọng Kim)(1). Có người lưu ý tới tư tưởng đạo Phật dân gian (Đào Duy Anh)(2). Có người nhận xét về sự pha trộn Phật và Nho, từ tài mệnh tương đốbỉ sắc tư phong đến nghiệp báo, luân hồi, từ trung hiếu tiết nghĩa đến từ bi bác ái, tu thân tích đức (Cao Huy Đỉnh)(3). Có người nhận xét tư tưởng Phật mạnh hơn Nho giáo, Kiều có ý thức của cá nhân tự giác về nghiệp báo. Thực ra đạo Phật đã bị khúc xạ khi đi vào Truyện Kiều. Nhận xét về sự hỗn dung, pha trộn Phật - Nho là rất có căn cứ. Nghiệp và mệnh trời bổ sung cho nhau, nhân ái và từ bi bổ sung cho nhau. Nhưng tính chất dung hợp đã làm nhạt nhòe tư tưởng Phật giáo. Chẳng hạn, Kiều nhiều lần đi tu, nhưng không xem đó là con đường giải thoát đích thực, mà chỉ là một việc bất đắc dĩ, một sự hy sinh tuổi xuân:
Đã đem mình bỏ am mây
Đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi.

Rõ ràng đó không phải là lời của người mộ đạo.

Truyện Kiều và Nho giáo là một đề tài còn ít được nghiên cứu đi sâu. Trước đây Phạm Quỳnh có nói tới tư tưởng trung dung tùy thời. Một số tác giả khác nói tới đạo đức, luân lý, lễ nghĩa, Nho giáo. Thực ra phạm vi vấn đề còn rộng lớn hơn: từ tư tưởng thiên mệnh, ý thức bảo tồn gia đình, đến tư tưởng nhân ái, coi trọng lòng trắc ẩn, lương tâm, coi nhân loại là nhất thể, coi trọng sự sống đều có ảnh hưởng của Nho giáo. So sánh về các phương diện này sẽ cho ta hiểu mức độ ảnh hưởng và tiếp nhận của Nguyễn Du đối với Nho giáo.

So sánh Truyện Kiều và văn hóa Trung Quốc đang là một đề tài để ngỏ cho những tìm tòi mới trong giao lưu tinh thần của hai dân tộc qua một kiệt tác.

B. Truyện Kiều với tiểu thuyết Trung Quốc và chi loại tiểu thuyết tài tử giai nhân.
 
Trong bối cảnh ảnh hưởng của văn học Trung Quốc, Truyện Kiều là một sự lựa chọn về thể loại, và không thể không đề cập tới mối quan hệ giữa Truyện Kiều và tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Ông Phan Ngọc là người đầu tiên đề cập tới khía cạnh này, nhưng chưa đi sâu và ông lại không nói tới tiểu thuyết tài tử giai nhân.

Cách miêu tả chân dung nhân vật như Từ Hải rõ ràng không phải bút pháp của tiểu thuyết tài tử giai nhân, mà là bút pháp sử truyện, hoặc của tiểu thuyết kiểu Tam quốc chí, như Quan Công, Trương Phi, hoặc tiểu thuyết thông tục. Cách giới thiệu nhân vật mà ông Phan Ngọc gọi là “thao tác lập hồ sơ” thực ra là lối giới thiệu lai lịch của sử truyện.

Tiểu thuyết tài tử giai nhân là một chi nhỏ của tiểu thuyết thế tình, ở Trung Quốc hầu như bị lãng quên, mà không được xem xét. ở ta cũng chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu. Nhưng lại là loại tiểu thuyết có ảnh hưởng tới văn học Việt Nam, được phiên dịch, giới thiệu hoặc chuyển thành truyện Nôm như Bình Sơn Lãnh Yến, Ngọc Kiều Lê, Hoa tiên ký... Đặc điểm của loại này là tình yêu lý tưởng giữa tài tử, giai nhân, đề cao phụ nữ, có kết cấu: 1. Nhất kiến chung tình - 2. Gặp loạn ly tán - 3. Đoàn viên, tương tự như bố cục truyện cổ tích “Hội ngộ - Tai biến - Đoàn tụ”, nhưng không cùng loại; có nhân vật con hầu thông minh lém lỉnh, có bọn tiểu nhân xiểm nịnh hại người; có xen nhiều thơ văn thù tạc; ít miêu tả tâm lý, ít cá tính(4). Đây là khuynh hướng ca ngợi tình yêu, giải phóng cá tính, đậm màu lý tưởng.

Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân xét về nhiều mặt đều thuộc vào nhóm tiểu thuyết tài tử giai nhân, lại vừa mang thêm yếu tố thế tình, phê phán xã hội, nên có nét riêng.

Về mặt lý tưởng hóa, đề cao phụ nữ, Truyện Kiều đi theo khuynh hướng của tiểu thuyết tài tử giai nhân. Về mặt thẩm mĩ, Truyện Kiều có khuynh hướng bi kịch nhiều hơn các tiểu thuyết tài tử giai nhân tiêu biểu. Về thể loại Truyện Kiều khác tiểu thuyết chương hồi, mà thuộc vào loại truyện thơ Nôm, vốn có trong văn học Việt Nam, và Đông Nam á. Về nhân vật, Truyện Kiều chú trọng miêu tả tâm lý hơn.

Về ngôn ngữ, Nguyễn Du dùng nhiều lời độc thoại nội tâm hơn(5).

Nghiên cứu mối quan hệ trên sẽ cho thấy rõ sự kế thừa ảnh hưởng và sáng tạo đổi mới vô song của Nguyễn Du.

C. Truyện Kiều với thơ và kịch cổ điển Trung Quốc.
 
Với tư cách là một truyện thơ Nôm, Truyện Kiều có nhiều mối quan hệ với thơ ca cổ điển Trung Quốc. Đây là điều mà các học giả Trung Quốc tiến hành so sánh Truyện Kiều hầu như chưa đề cập tới. Và do không quan tâm mặt này mà có những chỗ phê bình Nguyễn Du không thỏa đáng. Chẳng hạn câu: Một tường tuyết trở sương che, Tin xuân đâu dễ đi về cho năng, là một ẩn dụ chỉ sự cách trở trong việc tìm gặp Thúy Kiều, thì có học giả Trung Quốc chê là đem cảnh tuyết mùa đông miêu tả vào dịp xuân hè, gây mâu thuẫn, phá hoại tính thống nhất chân thực của hoàn cảnh(6). Nhà nghiên cứu đã không phân biệt ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi!

Nguyễn Du chịu ảnh hưởng của thơ ca cổ điển Trung Quốc rất sâu sắc. Có thể nói trước khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã có một nhãn quan thi ca Trung Quốc sâu sắc thể hiện trong các áng thơ chữ Hán của ông. Nguyễn Du sử dụng thành thạo các phép đối và sử dụng dày đặc trong Truyện Kiều, tạo thành một chất lượng mới của truyện thơ lục bát(7). Nguyễn Du lại dùng nhiều điển cố, cụm từ, câu sẵn của thơ ca Trung Quốc, một tập quán sáng tác mà các nhà thơ Trung Quốc thường có(8). Chúng tôi cũng đã chứng minh Nguyễn Du khéo dùng các cặp màu sóng đôi theo lối của Đỗ Phủ(9). Trong việc miêu tả tâm lý, hay đúng hơn là tả tình, Nguyễn Du sử dụng kinh nghiệm tả tình của thơ ca qua các chủ đề như Tống biệt, Hoài cổ, Nhớ nhà đi sớm, Cảm khái thân thế, Cảm lưu lạc... Đó là những thơ đề rất phổ biến trong thơ ca Trung Quốc, nhất là thơ Đường. Truyện Kiều là kết tinh tiếp nhận và sáng tạo của thơ và văn Trung Quốc. Ông Phan Ngọc còn nêu vấn đề Truyện Kiều chịu ảnh hưởng của kịch cổ điển. Đó lại càng là một đề tài thú vị của văn học so sánh.

D. Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện.
 
Trong nghiên cứu văn học so sánh về Truyện Kiều thì so sánh với Kim Vân Kiều truyện có ý nghĩa trực tiếp, bởi Nguyễn Du đã vay mượn cốt truyện, nhân vật, tình tiết của nó. Ở đây có nhiều vấn đề được đặt ra, và các học giả cũng đã có nhiều ý kiến khác nhau.

1. Về chủ đề: 
 
Nhiều tác giả khẳng định Nguyễn Du chịu ảnh hưởng của tư tưởng tài mệnh tương đố (Đào Duy Anh, Phạm Thế Ngũ). Phan Ngọc cũng khẳng định tư tưởng tài mệnh tương đố nhưng xem đấy là sáng tạo của Nguyễn Du, còn tư tưởng vốn có của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân là tình và khổ.

Chúng tôi cho rằng Nguyễn Du có tiếp thu ảnh hưởng của chủ đề “tài mệnh tương đố” nhưng đã có sự đổi mới thành "thân mệnh tương đố", một chủ đề xuất hiện trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XVIII, làm cho Truyện Kiều trở thành truyện xót thân đau lòng thấm thía nhất(10). Nguyễn Du đã chuyển câu chuyện “bất hủ” của Kim Vân Kiều truyện thành câu chuyện đoạn trường, đầy đau đớn, xót xa, bi kịch. Đây là sự thay đổi trọng tâm (hay nét chủ đạo) trong chủ đề. Một số tác giả khác cũng chú ý tới các khía cạnh chủ đề khác gắn liền với thực tại Việt Nam, như tâm sự hoài Lê, quyền sống con người, tố cáo hiện thực đen tối, quyền sống phụ nữ. Truyện Kiều đã gắn với một bối cảnh đời sống tinh thần khác với Trung Quốc.

2. Về cốt truyện.
 
Đây là yếu tố được so sánh nhiều nhất nhằm chỉ ra sự khác và giống giữa hai tác phẩm, sự vay mượn của Nguyễn Du là hiển nhiên. Vay mượn đã phải là ảnh hưởng chưa lại là một chuyện khác. Tác phẩm Zaratustre đã nói như thế của Nitsơ đã vay mượn lời khuyến dụ của giáo chủ Zaratustre, người sáng lập đạo Hồi ở Ba Tư để phát biểu ý kiến của mình, nhưng hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của tôn giáo ấy. Truyện Kiều có vay mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện với tư tưởng Phật học, Nho học trong ấy cũng chưa thể nói là chịu ảnh hưởng, bởi Nho học, Phật học là tư tưởng “đồng nguồn”, Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân cùng tiếp thu một nguồn mà ra. ảnh hưởng là tác động văn học có tính chất bù đắp, lấp chỗ trống. Với ý nghĩa này, Kim Vân Kiều truyện quả có ảnh hưởng tới Truyện Kiều. Chúng ta biết trước Truyện Kiều đã có Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào, đầu thế kỷ XVIII, kế theo có truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự giữa thế kỷ XVIII. Đó là những truyện tài tử giai nhân điển hình với kết cục đại đoàn viên vui vẻ. Nhân vật tuy có trải qua trắc trở nhưng không có tư tưởng hồng nhan bạc mệnh và nỗi đoạn trường đối với kiếp người. Kim Vân Kiều truyện có chủ đề hồng nhan bạc mệnh, có phong lưu vận sự bất hủ, nhưng chủ yếu có nét mới là ai oán đoạn trường. Đây là yếu tố mà các tác phẩm tài tử giai nhân nói trên, và cả một số tác phẩm khác như Ngọc Kiều Lê, Nữ tú tài, Phan Trần đều không có. Chính đó là yếu tố gợi ý để Nguyễn Du sáng tạo ra Đoạn trường tân thanh đầy xót thương đau đớn. Kim Vân Kiều truyện đã mở đầu bằng một khúc Bạc mệnh oán:

Cổ kim hồng nhan hề, mạc bất bạc mệnh.
Hồng nhan bạc mệnh hề, mạc bất đoạn trường.
Ngã bản nhân hề, nãi vi oán khúc.
Văn thử oán khúc hề, thùy bất bi thương ?
Trước khi trẫm mình, Kiều cũng có bài lục tuyệt, có câu:
Trào tín thôi nhân khứ dã,
Đẳng nhân liễu khước đoạn trường.
 
Nguyễn Du đã cảm vì mấy tiếng đoạn trường đó mà viết nên Đoạn trường tân thanh để đáp lại với người xưa, khóc người xưa, như là người cùng một hội bể dâu. Đó chính là điểm nút mà nhà thơ đã nắm lấy để cải tạo lại toàn bộ mà viết ra Truyện Kiều, như một cảm hứng mới chưa có trong tiểu thuyết tài tử giai nhân được chuyển thể trước đó.

Hiểu ảnh hưởng là tác động có tính chất bù đắp thì Kim Vân Kiều truyện cung cấp một mô hình cốt truyện lắm tai, nhiều nạn mà các Truyện Kiều của Mao Khôn, Dư Hoài, Mộng Giác Đạo Nhân v.v... không có. Sáng tạo cốt truyện có nhiều tình tiết vốn là chỗ yếu của văn học Việt Nam, đặc biệt là cốt truyện hư cấu. Chừng nào mức độ hư cấu còn thấp thì cốt truyện nguyên bản có tác dụng bù đắp, gợi ý để cải tạo, bổ sung. Tuy vậy, vai trò của nó cũng tương tự như các sự tích, truyện sử làm nền tảng cho sự sáng tạo theo lối diễn nghĩa, diễn âm.

Nhược điểm của nghiên cứu so sánh cốt truyện lâu nay là chỉ chú ý tới cốt truyện như là hệ thống biến cố nhân quả nằm ngoài chi tiết cụ thể và ngoài lời kể (lời trần thuật), do đó thường rút ra kết luận thiếu sức thuyết phục về tính sáng tạo của Nguyễn Du. Nhận xét về việc rút gọn chi tiết xuống mức thấp nhất cũng chưa cho thấy rõ tính chất ấy. Sáng tạo của Nguyễn Du thể hiện trước hết ở việc đổi thay điểm nhìn trần thuật. Những chỗ Kim Vân Kiều truyện trần thuật theo quan điểm của nguời đứng ngoài, thì Nguyễn Du trần thuật theo còn mắt nhân vật, tự bên trong, nên mang nội dung tâm lý. Những chỗ Thanh Tâm Tài Nhân chỉ giản đơn kể việc thì Nguyễn Du bổ sung thêm các chi tiết tâm lý. Chẳng hạn đoạn Kim Trọng từ biệt Thuý Kiều về hộ tang, đoạn Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều... Thanh Tâm Tài Nhân thường trần thuật theo nguyên tắc liên tục... trước sau một cách tẻ nhạt, còn Nguyễn Du để các việc gối đầu nhau tạo nhịp điệu thúc bách, dồn dập. Kim Vân Kiều truyện thiếu một điểm nhìn trần thuật nhất quán và vẫn lại thiếu nhịp điệu mà đó là đặc sắc của Truyện Kiều. Những điều này cho thấy Nguyễn Du tiếp thu hệ thống sự kiện nhưng lại kể theo một cách mới và cảm quan nhịp điệu mới.

3. Về nhân vật.
 
Tiếp thu hệ thống nhân vật của Kim Vân Kiều truyện nhưng Nguyễn Du phú cho chúng một sinh mệnh mới. Nguyễn Du có một quan niệm mới về con người. Con người bình đẳng, con người tâm lý, con người đời thường và được nhìn đa chiều. Là con người bị tách khỏi gia đình, nguồn cội, lưu lạc tha phương, Nguyễn Du nhấn mạnh ở Kiều con người nhân tính phổ biến, với ý thức về sự may rủi, vô thường của đời, với sự mong manh, nhỏ bé của kiếp người. Tuy vẫn giữ những nét tính cách quyết đoán, hiếu nghĩa, nhưng Kiều chủ yếu trở thành biểu tượng của số phận đau khổ, của sự đày đọa. Đó là điều gây xúc động nhất đối với người đọc Việt Nam. Sự thương xót cho số phận lấn át lòng cảm phục đối với tính cách.

Cô Kiều ở Thanh Tâm Tài Nhân chủ yếu là liệt nữ, là con người bất hủ, là người tình, còn ở Nguyễn Du này chủ yếu là hiện thân cho sự bất công, oan khổ, lưu li, đau lòng. Nguyễn Du không bỏ lỡ một dịp nào trong truyện để tỏ hết nỗi đau lòng của con người.

Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân hầu như không có cảm giác thời gian, còn Kiều của Nguyễn Du thì tràn đầy cảm giác trôi chảy, thời gian vô tình. Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân không có cảm giác lưu lạc, còn Kiều của Nguyễn Du luôn cảm thấy sự lênh đênh, trôi giạt của mặt nước cánh bèo. Chân dung các nhân vật Thúy Kiều, Thúy Vân của Trung Quốc là chân dung người đẹp đơn thuần, đặt dưới mắt người tình Kim Trọng. Chân dung hai nàng trong Truyện Kiều được đưa lên đầu, dưới con mắt tác giả, như một dự báo về số phận. Chân dung Kim Trọng và Từ Hải hoàn toàn do Nguyễn Du sáng tạo nên. Nếu đi sâu vào thế giới chi tiết thì ta sẽ thấy mức độ sáng tạo của Nguyễn Du là rất cao, có thể nói là sáng tạo lại.

Nghệ thuật không tồn tại ở cấp độ cốt truyện, môtíp là cấp độ dễ dàng vay mượn, lưu truyền. Nghệ thuật tồn tại ở cấp độ chi tiết, cảm nhận, nó mang tâm hồn, cảm giác, sự sống của con người, cái nhìn con người, là các yếu tố nói chung, không thể hoặc không dễ vay mượn.
Đã đến lúc phải nâng cấp nghiên cứu so sánh Truyện Kiều để thấy đó là một sự kiện giao lưu văn học đầy sáng tạo(10). Và điều đó chỉ thực hiện được khi tiến hành so sánh toàn diện, trên nhiều cấp độ.

4. Phong cách học:
 
Đây lại là một lĩnh vực mà Truyện Kiều sáng tạo không ít và chịu ảnh hưởng không ít từ văn liệu, điển cố, phép đối, cách dùng chữ "nước", chữ "đúc", cách sử dụng từ chỉ màu sắc v.v... Đặc biệt Nguyễn Du sáng tạo nhất quán ngôn từ độc thoại nội tâm dưới hình thức nửa trực tiếp, là một hiện tượng nghệ thuật mới.

E. Kết luận.
 
Truyện Kiều không hề giản đơn là tác phẩm vay mượn. Truyện Kiều trước hết là sản phẩm của đời sống tinh thần Việt Nam, là kết quả lôgíc của quá trình văn học Việt Nam, sự phát triển nội tại của nhận thức đời sống, của tiếng Việt nghệ thuật, sự chín muồi về thể thơ lục bát và truyện thơ Nôm. Vay mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện là sự gặp gỡ tinh thần của nhà văn Việt Nam và tác giả Trung Quốc trong nỗi đau trần thế. Nó cung cấp tài liệu và gợi hướng để cho tiếng thương, tiếng đau - cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Du có thể cất lên vang vọng. Bối cảnh của tiếp nhận ấy là toàn bộ mối quan hệ văn hóa, văn học hết sức rộng lớn của hai nước Việt - Trung, từ các học thuyết đến tiểu thuyết chương hồi, thơ ca, từ vũ trụ quan, nhân sinh quan đến phong cách học. Kim Vân Kiều truyện chỉ là một cái cớ trực tiếp rất nhỏ trong các mối quan hệ bao la kia.

Thông thường không ai vay mượn tác phẩm toàn thiện toàn mỹ, bởi nó không để dư địa cho người sau. Đối với nó người ta chỉ phiên dịch, chiêm ngưỡng. Tác phẩm được vay mượn thường có giá trị gợi ý, mở ra triển vọng biến đổi, sáng tạo mới. Nó như viên ngọc còn sù sì thô vụng để người sau mài chuốt, đẽo khắc, tạo thành tác phẩm khác. Nguyễn Du đã đi theo thông lệ đó và làm sáng lên rực rỡ mối quan hệ văn hóa, văn học lâu đời của hai dân tộc Việt - Trung.


5-1998
CHÚ THÍCH
(1) Lý thuyết Phật học trong Truyện Kiều // Truyện Thúy Kiều. Nxb. Văn hóa Thông tin, HN, 1995.
(2) Khảo luận về Truyện Thúy Kiều, Nxb. Văn hóa, H.1958.
(3) Triết lý đạo Phật trong Truyện Kiều // Kỉ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, Nxb. KHXH, 1967.
(4) Phó Đạo Bân: Khảo luận viết cho tập Tinh tuyển tiểu thuyết tài tử giai nhân cổ điển Trung Quốc, Cáp Nhĩ Tân, 1994.
(5) Xem Đổng Văn Thành: Thanh đại văn học luận cảo, Xuân Phong văn nghệ xuất bản xã, Thẩm Dương, 1994, tr.104.
(6) Xem Phan Ngọc, Tlđd.
(7) Xem phần Thi từ tạp thoại trong sách Tự nhiên thất thi cảo dữ Thi từ tạp thoại của Phùng Chấn, Quảng Tây, 1989, dẫn nhiều ví dụ về dùng câu sẵn.
(8) Trần Đình Sử: Mầu sắc trong Truyện Kiều // Những thế giới nghệ thuật thơ. Nxb, Giáo dục, Hà Nội, 1995. Xem thêm: Ý nghĩa của văn học Trung Quốc đối với tiến trình phát triển văn học Việt Nam // Lý luận và phê bình văn học. Nxb. Hội nhà văn, 1996.
(9) Xem: Những thế giới nghệ thuật thơ, phần Tư tưởng nhân vật và cách kể chuyện của Nguyễn Du, Trần Đình Sử, Tlđd.
(10) Xem thêm: Mấy khía cạnh thi pháp "Truyện Kiều" // Những thế giới nghệ thuật thơ. Nxb. Giáo dục, 1995, tr. 279 - 430.

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 3 (36), năm 1998, trang 27-33.

*Tác giả Trần Đình Sử là Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên giảng viên Khoa Ngữ văn, ĐH Sư phạm HN, đã nghỉ hưu.
Ảnh: bìa sách Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử. Ở phần thư mục, thống kê của tác giả cho biết có tới 661 công trình bài viết của các học giả nghiên cứu về Truyện Kiều (tính đến 2001). Sách đã được tái bản nhiều lần.

 ...............................................................................

ĐỐI THOẠI VỚI HỌC GIẢ TRUNG QUỐC VỀ TRUYỆN KIỀU

CŨNG LÀ MỘT KIỂU "SO SÁNH VĂN HỌC"
 
Hoàng Văn Lâu

Xưa nay, hễ nhắc tới Truyện Kiều, người ta thường liên hệ với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Cũng dễ hiểu, bởi lẽ chính Kim Vân Kiều truyện đã tạo nguồn cảm hứng để Nguyễn Du sáng tạo nên thi phẩm ưu tú nhất của nền văn học cổ điển Việt Nam. Nghiên cứu Truyện Kiều theo các phương pháp so sánh văn học hiển nhiên là cần thiết và có hiệu quả thiết thực. Ở Việt Nam, hơn 50 năm trước, Đào Duy Anh có lẽ là học giả sớm nhất vận dụng phương pháp đối chiếu, so sánh một cách có hệ thống trong khi “khảo luận về Truyện Kiều" để khẳng định những thành công của tác phẩm(1). ở Trung Quốc, gần đây có học giả đã để công nghiên cứu Kim Vân Kiều truyện, so sánh nó với Truyện Kiều của Việt Nam và văn học hậu kỳ Giang Hộ của Nhật Bản(2). Tôi chưa muốn làm chuyện “so sánh văn học” giữa sự “so sánh” của cụ Đào Duy Anh cách đây 50 năm với sự “so sánh” của ông Đổng gần đây đối với Truyện Kiều Kim Vân Kiều truyện. ở đây tôi muốn chỉ rõ ông Đổng đã dựa vào đâu để so sánh, dẫn tới hiểu sai lệch Nguyễn Du.

Trong công trình nghiên cứu của mình, Đổng Văn Thành đặt ra câu hỏi “Có phải tác giả Trung Quốc Thanh Tâm Tài Nhân, một “kẻ dung tục” "hết cách cứu chữa” đã chà đạp lên đề tài Vương Thúy Kiều đến nỗi chẳng còn chút giá trị nào, mà phải hoàn toàn dựa vào sự gia công của vị “thiên tài” Nguyễn Du mới biến được cục sắt cứng thành vàng ròng lấp lánh”(3).
Sau khi tiến hành so sánh nhân vật, cốt truyện, chủ đề tư tưởng của hai tác phẩm, tác giả rút ra kết luận rằng:

“Trên tổng thể... Truyện Kiều của Nguyễn Du bất kể về nội dung, hay về nghệ thuật đều không vượt qua được mức độ của bản nền mà nó mô phỏng, tức Truyện Kiều của Trung Quốc”; rằng: "hiện tượng lạ lùng của Truyện Kiều Trung Quốc bị mai một lâu dài, thậm chí bị dè bỉu, nói lên nhận thức chưa đầy đủ của chúng ta (người Trung Quốc) đối với kho tàng văn học nghệ thuật phong phú do tổ tiên để lại..."

Ông Đổng còn viết tiếp phần hạ, “xét sự khác nhau từ chi tiết” rồi rút ra “nguyên nhân của sự dị đồng”. ở phần này, từ những “chi tiết” cụ thể, tác giả phê phán Nguyễn Du. Cũng chính từ những chi tiết ấy, chúng ta thấy rõ tác giả đã căn cứ vào đâu để phê phán Truyện Kiều, để “so sánh” hai tác phẩm.

Việc so sánh, phân tích các tác phẩm văn học đi đến những đánh giá, kết luận khác nhau, thậm chí hoàn toàn trái ngược nhau cũng là điều thường thấy. Nhưng muốn có sự đánh giá, kết luận có giá trị thì phải có những điều kiện tiên quyết. Đó là phải nắm vững đối tượng so sánh phân tích. Khi so sánh Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc với Truyện Kiều của Việt Nam, theo tôi, cần có hiểu biết nhất định về văn hóa, văn học Trung Quốc, đặc biệt về tiếng Hán, về tiểu thuyết Trung Quốc, về thị hiếu văn chương của người Trung Quốc... Đồng thời, cũng phải có hiểu biết về văn hóa Việt Nam, về văn học Việt Nam, đặc biệt về tiếng Việt, về thể truyện thơ Nôm Việt Nam cùng thị hiếu văn chương của người Việt Nam.

Tác giả của Thanh đại văn học luận cảo, ông Đổng Văn Thành có một thuận lợi khi phân tích lý giải Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân vì ông là người Trung Quốc(4), nhưng ông lại chưa có những hiểu biết cần thiết về văn hóa, văn học Việt Nam, về thể truyện Nôm Việt Nam, nhất là chưa biết tiếng Việt. Khi so sánh, phân tích Truyện Kiều, ông hoàn toàn dựa vào bản dịch của nhà nghiên cứu Hoàng Dật Cầu.

Chúng tôi không có ý định tranh luận với Đổng Văn Thành về từng luận điểm. ở đây, chúng tôi chỉ nêu vài "dẫn chứng" mà ông dùng để phê phán Truyện Kiều, những dẫn chứng này, như dưới đây chúng tôi phân tích, hoàn toàn không phải là từ Truyện Kiều của Nguyễn Du, mà là từ một bản dịch của người Trung Quốc. Cũng xin nói thêm, khi "dẫn chứng" bản dịch, tác giả cũng không ghi chú rõ xuất xứ, số trang, số câu. Chúng tôi phải tự đi tìm. Nhiều khi tác giả đưa ra một chữ, một câu mà không thấy chữ ấy ở nguyên tác Truyện Kiều.
 
Khi "so sánh" việc Thúc Sinh chuộc Kiều về làm thiếp, tác giả cho rằng trong Kim Vân Kiều truyện, Thúc sinh chủ yếu dựa vào người bạn có thế lực phi phàm là Vệ Hoa Dương giúp đỡ, còn Nguyễn Du lại miêu tả là Thúc Sinh tự mình lo liệu. Rồi ông dẫn bản dịch:

"Ông ta (Thúc Sinh) thác lời là nghỉ mát ở Trúc viện, đem Thúy Kiều đi dấu một nơi. Ông ta chuẩn bị đi kiện Kỹ viện, sai người đi dò thám đối phương. Cuối cùng đã thuyết phục được Tú Bà, cờ thua một nước, (Tú Bà) cũng đành để nàng hoàn lương"(5) để đi đến "kết luận": "Như vậy chẳng những mâu thuẫn với tính cách của Thúc Sinh, cũng mâu thuẫn với sự phát triển của cả cốt truyện". Đoạn này nguyên văn Truyện Kiều là:

Mượn điều Trúc viện thừa lương,
Rước về hãy tạm dấu nàng một nơi.
Chiến hòa sắp sẵn hai bài,
Cậy tay thầy thợ, mượn người dò la.
Bắn tin đến mụ Tú Bà,
Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao.
 
Đâu phải Thúc Sinh "tự mình lo liệu", Thúc Sinh đã phải "cậy tay thầy thợ, mượn người dò la" nghĩa là phải nhờ cả người bày mưu tính kế (thầy) đến người thực hiện (thợ). ở đây, ông Đổng đáng lẽ nên phê bản dịch chứ không nên phê Truyện Kiều.
 
Tác giả phê phán Nguyễn Du "vẽ rắn thêm chân" làm cho nhiều chỗ "mâu thuẫn với hoàn cảnh và tình tiết" của toàn bộ tác phẩm, dẫn chứng đoạn Thúy Kiều, Kim Trọng quen biết và yêu nhau từ tiết Thanh minh. Quá trình ấy không quá nửa năm, thế mà xuất hiện cảnh mùa đông "Tường đầu sương nồng tuyết hậu (Đầu tường sương nặng tuyết dày), lại còn các câu "tơ liễu phất phơ trước mành", "hoa rụng đầy sân", "Thưa hồng rậm lục" rõ ràng là mâu thuẫn nhau, phá hoại tính thống nhất và cảm giác chân thực của việc tả cảnh(6). Câu "Tường đầu sương nồng tuyết hậu" là dịch từ câu:

Một tường tuyết trở sương che.
 
Câu nguyên văn ở Truyện Kiều nói sự ngăn cách, "tuyết trở", "sương che" không được thấy người yêu, chứ đâu phải tả cảnh, càng không phải là cảnh mùa đông. Cả đoạn yêu đương này Nguyễn Du miêu tả rất ý nhị, cảm giác thời gian cũng được nhận rõ, từ tiết thanh minh đến mùa hè "thưa hồng rậm lục", chứ đâu có cảnh mùa đông, đâu có mâu thuẫn?

Khi phân tích nguyên nhân có sự dị đồng giữa Kim Vân Kiều truyện với Truyện Kiều, tác giả cho rằng, Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng của chữ nghĩa, nệ cổ, chủ nghĩa hình thức trong thơ hồi đó. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du luôn luôn "khoe khoang tri thức của mình về thơ từ, văn hóa Trung Quốc", "sử dụng hàng loạt các câu chữ có sẵn trong thơ Đường, trong từ Tống và điển cố Trung Quốc"... "dẫn tới sự chồng chất, sống sượng, thậm chí gây nên sai lầm trong khi dẫn, tổn hại đến nội dung. Những sai lầm này chỗ nào cũng thấy"(7). Rồi tác giả dẫn chứng câu: "Tần lâu vân tỏa tú liêm thùy" (Lầu Tần mây khóa, rèm thêu buông), xưng xưng rằng Nguyễn Du lầm lẫn khi dùng "lầu Tần" vốn để chỉ nhà thổ, để thay cho khuê phòng của Thúy Kiều. Nguyên văn câu ấy trong Truyện Kiều là:

Mây Tần khóa kín song the(8)
 
"Mây Tần" chứ đâu phải là "lầu Tần" (Tần lâu). Theo Nguyễn Quảng Tuân, "Mây tần" là lấy ý từ câu "Tần vân như mỹ nhân" (mây Tần như người đẹp) của Tấn thư(9). Câu này có nghĩa là "người đẹp ở sâu trong buồng the", đâu phải là "nhà thổ" (Tần lâu) của ông Đổng Văn Thành !
Ông Đổng phê phán cụ Nguyễn Du dùng những khuôn sáo quen thuộc để tả ngoại hình con người làm cho "ngàn người một khuôn mặt", nói Nguyễn Du "mượn bộ lông mày như con tằm nằm ngang (ngọa tàm mi) của Quan Vũ ở Quan Tây đầy uy dũng đặt lên khuôn mặt người thiếu nữ "rất xinh đẹp, rất diễm lệ"... "lại mượn sáo ngữ miêu tả khuôn mặt tròn béo núc của cậu ấm quí tộc trong tiểu thuyết thông tục của Trung Quốc để miêu tả thiếu nữ Vương Thúy Kiều là "mãn nguyệt kiểm" (khuôn mặt như trăng tròn)(10). ở đây, ông Đổng vừa lầm lẫn (Nguyễn Du khi tả Kiều, chỉ tả con mắt (làn thu thủy) và lông mày (nét xuân sơn), lại vừa không hiểu ý nghĩa của mấy từ Việt, chỉ nói lấy được. Nguyên văn câu thơ tả Thúy Vân (chứ không phải Thúy Kiều như lời ông Đổng) là "khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang". Khuôn trăng là khuôn mặt, là "kiểm", "diện bàng" chứ không phải là "mãn nguyệt kiểm". "Nét ngài", có sách phiên là "nét người", là chỉ vẻ đầy đặn, chứ không phải là "ngọa tàm mi". Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang là miêu tả vẻ đẹp thùy mị, phúc hậu của Thúy Vân.

Ông Đổng cho rằng những khiếm khuyết về mặt tri thức (của Nguyễn Du) tạo nên những sai lầm về ngôn ngữ và chi tiết. Ông nêu 3 dẫn chứng: 

1/ Lầm lẫn dùng "lầu Tần" để thay khuê phòng. Kỳ thực, "lầu Tần" là của bản dịch chứ không phải là của Truyện Kiều như tôi đã phân tích ở trên. 

2/ Lầm lẫn đem chữ "Đồng môn" để thay cho chữ "Đồng song" ở trong nguyên tác.
Nhưng Truyện Kiều của Nguyễn Du không có chữ "đồng môn", chỉ có chữ "đồng thân" trong câu Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân, "đồng môn" là của bản dịch "Dã thị Vương Quan cựu nhật đích đồng môn", "huynh đệ". Đâu phải của Truyện Kiều.
 
3/ Lầm lẫn đem "Mã Tú Mạ" để chỉ trùm lầu xanh sửa thành "Tú Bà".
ở đây, Nguyễn Du đã chuyển một từ 3 âm tiết (Mã tú mạ) hàm sắc thái châm biếm, thành một từ trung tính 2 âm tiết cho thuận với luật câu thơ lục bát. Có một điều rất lý thú là "Tú Bà" của Truyện Kiều, ngày nay đã trở thành một đại từ trong tiếng Việt, dùng để chỉ bọn trùm nhà thổ, đây là điều khác với "Tú bà" trong tiếng Hán của bản dịch.

Ông Đổng còn nhận xét là Nguyễn Du rất lạ lẫm với đề tài tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân, có khoảng cách với hoàn cảnh địa lý và tập quán sinh hoạt được miêu tả trong Kim Vân Kiều truyện, nên luôn luôn xảy ra sai lầm, thậm chí thành trò cười. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Lâm Tri của Sơn Đông và Vô Tích của Giang Tô cách biển đến 150 dặm Tầu, đều bị xê dịch đến cạnh biển (12). 

Có thực thế không? Lâm Tri là nơi Mã Giám Sinh mua Kiều về cho Tú Bà. Trước khi lập mưu bắt Thúy Kiều tiếp khách, Tú Bà cho Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Bị giam hãm lẻ loi trên lầu, Thúy Kiều buồn ngắm cảnh chung quanh.

Buồn trông cửa bể chiều hôm...
... Chân mây mặt nước một màu xanh xanh...
 
Hai câu này, ở bản dịch là

"Thê nhiên vọng hoàng hôn hải cảng...
... Liên thiên bích vân hải mang mang..."

"Cửa biển" đã chuyển thành "hải cảng". "Cửa biển" của Truyện Kiều là một từ ước lệ, chỉ "cửa sông" nói chung. Đến câu "chân mây mặt nước một màu xanh xanh" mà dịch là "Liên thiên bích vân hải mang mang" thì rõ là tả cảnh biển. Mây biếc liền trời, biển mênh mông, trái hẳn với câu thơ trong Truyện Kiều chỉ nói mây nước. Ông Đổng nắm ngay lấy hai chữ "hải cảng" và nhóm từ "hải mang mang" của bản dịch để phê phán Nguyễn Du là không công bằng. Người không hiểu địa lý Trung Quốc ở đây không phải là Nguyễn Du mà chính là người dịch.

Vô Tích là nơi Thúy Kiều bị mẹ con Hoạn Thư bắt về. Hoạn Thư ở Vô Tích, định bắt Thúy Kiều, lúc ấy đang ở Lâm Tri, mới tính toán:

Lâm Tri đường bộ tháng chầy,
Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
 
"Đường hải đạo" trong vế 8 chữ là đối lập với "đường bộ" của vế 6 chữ, chỉ "đường thủy" nói chung. Nhưng bản dịch đã chuyển thành: "Tối khoái tiệp thị hải vận nhất đồ" (nhanh nhất là con đường đi biển). Từ ý cân nhắc xem đi đường bộ, đường thủy đường nào gần hơn ở Truyện Kiều, bản dịch đã chuyển thành sự khẳng định: đi đường biển là nhanh nhất. Ông Đổng liền căn cứ vào đó phê phán Nguyễn Du: "đem huyện Vô Tích xê dịch ra sát biển" là không đúng.
Ông Đổng đặc biệt chú ý một chi tiết: Thúy Kiều nhảy sông tự tử, cho rằng đó là "điển hình" của việc vi phạm thường thức địa lý(13) vì Nguyễn Du bên trên đã tả:

Triều đâu nổ tiếng đùng đùng,
Hỏi ra mới biết là sông Tiền Đường.
Rồi:
Trông vời con nước mênh mông
Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang.
 
Như thế là đem sông Tiền Đường với dòng Trường Giang hổ lốn làm một.

Mấy câu thơ trên, bản dịch là: "Hốt thính triều thanh hung dũng, Dĩ tri thân đáo Tiền Đường... Viễn vọng hải thiên vô tế, Túng thân dược nhập trường giang"

Trong tiếng Việt, "trường giang" (hay tràng giang), có khi chỉ sông Trường Giang của Trung Quốc. Nhưng trong nhiều trường hợp từ này lại là một tổ hợp từ, chỉ chung "dòng sông rộng". Thí dụ: thơ Huy Cận: "Sóng gợn tràng giang buồm điệp điệp" là dùng theo nghĩa này. Tất cả các bản Truyện Kiều tiếng Việt xưa nay khi phiên âm "trường giang" đều không viết hoa (để chứng tỏ đó không phải là danh từ riêng). Từ sự không hiểu biết tiếng Việt, ông Đổng đã vội vã kết tội Nguyễn Du "vi phạm thường thức địa lý" là sai, lại còn "khái quát" xa hơn: "Hàng loạt những mâu thuẫn như thế đã phá hỏng gần như toàn bộ tính chân thực của chi tiết, làm sao còn nói được tới sức hấp dẫn nghệ thuật(14).

Cũng như nhiều thi nhân nổi tiếng khác, Nguyễn Du không phải là hoàn thiện, hoàn mỹ. Trong Truyện Kiều, vẫn có những hạt sạn, mà xưa nay nhiều người đã nhắc tới. Điều rất lạ là tất cả các dẫn chứng được ông Đổng dùng làm căn cứ để phê phán Nguyễn Du, phê phán Truyện Kiều, nếu không phải là do bản dịch đưa vào, trong Truyện Kiều vốn không có, như kiểu "lầu Tần", "đồng môn", "tường đầu sương nồng tuyết hậu", thì cũng do ông Đổng hiểu sai lạc ý tứ của nguyên tác Truyện Kiều, như kiểu "trường giang", "nét ngài nở nang", "khuôn trăng đầy đặn"... 

Vì thế, những nhận định của ông không thuyết phục. Nên chăng, khi tiến hành "so sánh văn học" giữa hai tác phẩm Truyện Kiều Kim Vân Kiều truyện, phải có chút vốn liếng nhất định về cả tiếng Hán và tiếng Việt, cả văn hóa, văn học Hán và văn hóa, văn học Việt?

CHÚ THÍCH
(1) Đào Duy Anh: Khảo luận về Truyện Kiều. In lần thứ 2, Nxb Văn hóa, Hà Nội 1958. Xem Lời tái bản.
(2) Đổng Văn Thành: Thanh đại văn học luận cảo. Xuân Phong văn nghệ xuất bản xã, Thẩm Dương, 1994. Phần 1: Kim Vân Kiều truyện dữ Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam cận cổ văn học.
(3) Đổng Văn Thành, Sđd. tr.76.
(4) Sđd, tr.96.
(5) Sđd, tr.112.
(6) Sđd, tr.111.
(7) Sđd, tr.116.
(8) Truyện Kiều, Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú giải. Nxb. KHXH, 1995, tr.73.
(9) Truyện Kiều, sách đã dẫn, tr.73, chú thích 2.
(10) Sđd, tr.117.
(11) Sđd, tr.118.
(12) Sđd, tr.119.
(13) Sđd, tr.120.
(14) Sđd, tr.120.
Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 3 năm 1998.
*TS. Hoàng Văn Lâu (1940 - 2005), nguyên cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm.