TT Nguyễn Văn Thiệu trả lời báo Der Spiegel-tháng 12 năm 1979
Vô Thường, lược dịch
Vào tháng 12 năm 1979, trong dịp được Tuần báo Đức Der Spiegel phỏng vấn, cựu Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã phản bác về những liên quan đến chiến tranh Việt Nam trong tập hồi ký của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Henry Kissinger.
*
Spiegel: Thưa
ông Thiệu, trong suốt 5 năm từ 1968 đến 1973, Hoa Kỳ đã nổ lực đàm phán
hòa bình cho Việt Nam. Là Trưởng đàm phán của Mỹ, Henry Kissinger đã mô
tả chi tiết trong hồi ký của mình về ông, với tư cách là Tổng thống Nam
Việt Nam, đã phá hoại những nỗ lực của ông ta như thế nào nhằm mang hòa
bình cho cuộc chiến kéo dài nhiều năm, tổn thất hàng triệu nhân mạng và
như muốn “bóp nát trái tim Hoa Kỳ” như lời của Kissinger nói. Tại sao
ông lại cản trở như vậy?
Ông Thiệu:
Điều đó hoàn toàn vô lý. Nếu như tôi ngăn cản thì đã không thể có
chuyện dàn xếp hòa bình trong năm 1973. Tuy nhiên, như mọi người đã
biết, đó không phải là một nền hòa bình tốt đẹp khi chứng kiến những hậu
quả xảy ra tại Việt Nam. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích
của Chính phủ Hoa Kỳ. Với tư cách là Tổng thống Việt Nam, tôi có nhiệm
vụ bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước tôi.
Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và Tiến sĩ Kissinger rằng giũ bỏ vài vị thế không mấy quan trọng tại một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam có thể không có nhiều ý nghĩa đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, nhưng đối với chúng tôi đó là vấn để giữa sự sống và cái chết của toàn bộ một đất nước.
Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và Tiến sĩ Kissinger rằng giũ bỏ vài vị thế không mấy quan trọng tại một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam có thể không có nhiều ý nghĩa đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, nhưng đối với chúng tôi đó là vấn để giữa sự sống và cái chết của toàn bộ một đất nước.
Spiegel: Kissinger
không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đã đồng ý dàn xếp hòa bình.
Nhưng ông ta nói lý do chính khiến phải mất nhiều thời gian vì ông đã
cản trở quyết liệt và lý do thực chất ông không bao giờ phản đối các đề
xuất của Mỹ vì ông tính toán rằng tất cả những đề xuất đó sẽ bị Hà Nội
bác bỏ.
Ông Thiệu:
Không đúng như vậy. Chỉ mất thêm hơn 2 hoặc 3 ngày hay 2 hoặc 3 tháng
để chấm dứt cuộc chiến đã diễn ra gần 30 năm. Tôi nhận ra cuôc chiến này
là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của Hoa Kỳ, trong đó họ là người
đã viện trợ cho chúng tôi. Có thể vì vậy mà người Mỹ tỏ ra vội vàng như
thế. Tuy nhiên, chúng tôi cần một nền hòa bình vững chắc.
Spiegel: Kissinger
ám chỉ rằng ông không thật sự muốn có một giàn xếp hòa bình và hy vọng
Bắc Việt cũng sẽ ngoan cố giống như ông. Vì vậy, ông ấy quả quyết dù ông
đã đồng ý nhiều đề xuất của phía Mỹ nhưng không bao giờ muốn phải tuân
thủ những đề xuất đó, vì trong bất cứ trường hợp nào ông không tin là
thỏa thuận sẽ đạt được. Ông có lừa bịp trong đàm phán với hy vọng ông sẽ
không bao giờ phải nói rõ hết ý định của mình?
Ông Thiệu:
Không. Một quốc gia phải chịu đựng nhiều như thế trong suốt hơn 30 năm
không thể nào bị kết tội là muốn kéo dài cuộc chiến. Kissinger muốn tiến
hành nhanh để lính Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được phóng thích.
Và có thể vì Chính phủ Mỹ muốn vội vã thoát ra, “cắt và chạy”.
Họ có thể thoát khỏi cuộc chiến. Chúng tôi phải ở lại Nam Việt Nam. Chúng tôi có đủ mọi quyền để đòi hỏi một sự giàn xếp hòa bình toàn diện, không phải chỉ là một nền hòa bình trong 2 hoặc 3 năm rồi sau đó lại thêm một cuộc chiến 30 năm khác.
Họ có thể thoát khỏi cuộc chiến. Chúng tôi phải ở lại Nam Việt Nam. Chúng tôi có đủ mọi quyền để đòi hỏi một sự giàn xếp hòa bình toàn diện, không phải chỉ là một nền hòa bình trong 2 hoặc 3 năm rồi sau đó lại thêm một cuộc chiến 30 năm khác.
Spiegel:
Vậy tại sao ông dự tính trước Hoa Kỳ theo như Kissinger báo cáo, bằng
việc tự mình đề xuất Hoa Kỳ rút quân tại cuộc họp ở Midway tại Thái Bình
Dương vào tháng 6 năm 1969?
Ông Thiệu:
Thậm chí trước cuộc họp ở Midway, việc Hoa Kỳ có ý định rút quân là
không có gì bí mật. Tôi muốn nhắc cho anh nhớ rằng tin tức về kế hoạch
rút một số lượng quân Mỹ đã loan tải trên toàn thế giới trước cuộc họp
Midway. Tại sao? Tôi cho đó là vì Chính phủ Mỹ muốn thăm dò dư luận,
tiết lộ thông in cho báo chí và đưa chúng tôi vào sự việc đã rồi.
Spiegel: Như thế ông đã hiểu rõ được sự việc?
Ông Thiệu:
Vâng đúng vậy. Cuộc họp Midway nhằm hai mục đích. Nó mang đến cho hai
tân tổng thống một cơ hội để hiểu về nhau và đàm phán về vấn đề Việt
Nam. Điểm thứ hai đã vạch rỏ trong nghị trình đó là kế hoạch rút quân Mỹ
đầu tiên. Tôi không hề ảo tưởng và tôi nắm bắt được tình hình. Không có
gì phải lo lắng và tôi cảm thấy rất tự tin.
Spiegel: Khi
đề xuất việc rút quân, ông có thật sự nghĩ rằng ông có thể tự tiến hành
chiến tranh và cuối cùng giành thắng lợi trong cuộc chiến - một cuộc
chiến tranh mà hơn 540.000 quân Mỹ và bộ máy quân sự hùng mạnh của Hoa
Kỳ đã không thể thắng nổi? Thật khó để tin vào điều đó.
Ông Thiệu:
Không. Thật ra tôi không phải là người đề xuất. Tôi chỉ đơn giản là
chấp thuận. Tôi đồng ý đợt rút quân Mỹ đầu tiên vì Tổng thống Nixon đã
nói với tôi rằng ông ấy có một số vấn đề quốc nội và việc rút quân chỉ
hoàn toàn mang tính tượng trưng. Ông ta phải có ý kiến công chúng và
Quốc hội phía sau. Nhưng tôi cũng nói với ông ấy rằng ông ta phải chắc
chắn Hà Nội không xem đợt rút quân đầu tiên như là một dấu hiệu yếu kém
của Hoa Kỳ.
Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?
Ông Thiệu:
Không. Tôi có thể hình dung đó có thể là bước đầu tiên trong biện pháp
giảm quân số. Tôi không thể nào tưởng tượng nổi Hoa Kỳ sẽ vứt hết tất cả
và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã đề xuất với Tổng thống Nixon rằng việc
cắt giảm nên được tiến hành từng bước, đến khi khả năng chiến đấu và sự
cũng cố quân đội Nam Việt Nam cho phép Việt Nam có thể đứng trên đôi
chân của chính mình, tùy thuộc vào viện trợ kinh tế và quân sự.
Quan trọng hơn, tôi đã kiến nghị ông ta có thể yêu cầu Hà Nội đổi lại cũng có hành động tương tự. Người Mỹ hoàn toàn đồng ý với tôi về….
Quan trọng hơn, tôi đã kiến nghị ông ta có thể yêu cầu Hà Nội đổi lại cũng có hành động tương tự. Người Mỹ hoàn toàn đồng ý với tôi về….
Spiegel: ….và rút quân tượng trưng?
Ông Thiệu:
Tôi nhận ra cuộc chiến Việt Nam cũng gây ra những vấn đề bên trong nước
Mỹ. Và Tổng thống Nixon nói ông cần một cử chỉ tượng trưng để giải
quyết vấn đề đó.
Khi tôi ở Hán Thành và Đài Loan một tuần trước đó, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân mà tôi bàn bạc với Tổng thống Nixon trong cuộc đàm phán tại Midway chỉ mang tính tượng trưng. Nhưng tôi đã chỉ ra rằng chúng tôi không thể ngăn ngừa việc Hoa Kỳ rút toàn bộ quân nếu họ muốn. Vì vậy sẽ là khôn ngoan hơn khi yêu cầu Mỹ rút quân từng bước và cùng lúc đó cung cấp viện trợ để chúng tôi xây dựng một quân đội Nam Việt Nam vững mạnh và hiện đại để thay thế người Mỹ. Tôi không bao giờ yêu cầu quân đội Mỹ ở lại Việt Nam mãi mãi.
Khi tôi ở Hán Thành và Đài Loan một tuần trước đó, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân mà tôi bàn bạc với Tổng thống Nixon trong cuộc đàm phán tại Midway chỉ mang tính tượng trưng. Nhưng tôi đã chỉ ra rằng chúng tôi không thể ngăn ngừa việc Hoa Kỳ rút toàn bộ quân nếu họ muốn. Vì vậy sẽ là khôn ngoan hơn khi yêu cầu Mỹ rút quân từng bước và cùng lúc đó cung cấp viện trợ để chúng tôi xây dựng một quân đội Nam Việt Nam vững mạnh và hiện đại để thay thế người Mỹ. Tôi không bao giờ yêu cầu quân đội Mỹ ở lại Việt Nam mãi mãi.
Spiegel: Quân Mỹ đã đặt tại Nam Hàn và Tây Đức.
Ông Thiệu:
Nhưng chúng tôi là những người rất tự trọng. Chúng tôi đã nói với họ
chúng tôi cần viện trợ và vũ khí nhưng chúng tôi có đầy nhiệt huyết
trong huyết quản và thừa binh lính.
Spiegel:
Ông mô tả thế nào về tình cảnh của mình khi đó? chỉ vài tháng trước đó,
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Melvin Laird đã đề ra “Việt Nam hoá”.
Người Mỹ trước đó đã nói về cuộc chiến “phi Mỹ hóa”. Không phải chỉ tên
gọi này thôi cũng đã nói rõ ràng là Hoa Kỳ có ý định rút quân một cách
nhanh chóng?
Ông Thiệu:
Khi ông Nixon đến Sài Gòn vào tháng 7 năm 1969, ông ta nhắc lại rằng
ông cần có công chúng Mỹ phía sau. Tôi hiểu vị thế của ông ta. Nhưng ông
ấy không bao giờ lý giải rút quân có nghĩa là cắt giảm nghị trình có hệ
thống và theo sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói về những khó khăn trong
nước tại Mỹ và đề nghị tôi giúp. Ông nói “giúp chúng tôi để giúp các
anh”. Tôi trả lời “Tôi sẽ giúp các ông để có thể giúp chúng tôi”. Tại
cuộc họp chúng tôi lại bàn về vấn đề rút quân từng phần.
Spiegel: Nhưng không đặt ra lịch trình?
Ông Thiệu:
Không. Và Ông Nixon lại hứa là bất kỳ đợt rút quân nào cũng sẽ tương
xứng với những biện pháp tương tự của phía Bắc Việt và sẽ phù hợp với
khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như đi kèm với những viện trợ
thêm về quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.
Spiegel: Tại thời điểm đó ông có nhận ra Hoa Kỳ đã sẵn sàng đơn phương rút quân nếu cần thiết?
Ông Thiệu: Có, tôi có nghi ngờ điều đó. Nhưng khi đó tôi vẫn rất tự tin và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.
Spiegel: Có
thể ông đúng khi nhận định như vậy. Rỏ ràng trong cuốn sách của
Kissinger chính quyền Nixon không thể “chiến thắng một cách dễ dàng một
chiến dịch có liên can đến hai chính quyền, năm quốc gia đồng minh và ba
mươi mốt ngàn người chết như thể chúng ta chuyển một đài truyền hình”.
Người Mỹ rỏ ràng muốn thoát ra khỏi Việt Nam bằng đàm phán. Họ không muốn đơn phương rút quân trừ khi họ buộc phải làm điều đó. Ông có đưa ra bất kỳ yêu cầu nào về các cuộc đàm phán giữa Washington và Hà Nội?
Người Mỹ rỏ ràng muốn thoát ra khỏi Việt Nam bằng đàm phán. Họ không muốn đơn phương rút quân trừ khi họ buộc phải làm điều đó. Ông có đưa ra bất kỳ yêu cầu nào về các cuộc đàm phán giữa Washington và Hà Nội?
Ông Thiệu:
Chiến tranh đã quá đủ với chúng tôi và chúng tôi quyết định chấm dứt
cuộc chiến bằng đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những lực lượng đã xâm chiếm
đất nước phải rút quân. Tất cả chỉ có vậy.
Spiegel: Ông
oán trách sự sụp đổ của Nam Việt Nam trong năm 1975 chủ yếu được quy
cho thực tế rằng quân đội Bắc Việt được phép ở lại miền Nam thậm chí sau
khi Hiệp định Hòa bình Paris đã ký kết. Ông khẳng định ông chỉ bỏ qua
sự hiện hiện của Bắc Việt trong khi hiệp định đang đàm phán và họ phải
rút quân khi đàm phán kết thúc.
Nhưng Kissinger khẳng định trong cuốn sách của mình ông không hề đưa ra phản đối với đề xuất của Mỹ về vấn đề này cho đến tháng 10 năm 1972.
Nhưng Kissinger khẳng định trong cuốn sách của mình ông không hề đưa ra phản đối với đề xuất của Mỹ về vấn đề này cho đến tháng 10 năm 1972.
Ông Thiệu:
Đó là lời dối trá vô giáo dục nhất từ phía Kissinger khi nói tôi đồng ý
cho quân Bắc Việt lưu lại miền nam. Nếu tôi đồng ý ngay từ đầu như
Kissinger đã nói, thì tôi đã không phản đối kịch liệt khi ông ta cho tôi
xem bản dự thảo hiệp định trong đó không hề chứa đựng bất kỳ điều khoản
nào về vấn đề rút quân của Bắc Việt.
Đó là điểm quan trọng nhất mà tôi đã đấu tranh trong suốt quá trình đàm phán hoà bình. Từ đầu đến cuối, tôi yêu cầu Kissinger buộc Hà Nội rút quân và giải thích cho ông ta rằng sẽ chẳng có hiệp định nào hết trừ khi Bắc Việt thực thi điều đó.
Sau nhiều ngày tranh luận quyết liệt, Kissinger cuối cùng thú nhận với tôi: “Thưa ngài Tổng thống, điều đó không thể thực hiện được. Nếu được tôi đã làm. Vấn đề đã được đặt ra cách đấy 3 năm nhưng Liên Xô sẽ không chấp nhận”. Sau đó tôi nhận ra Chính phủ Hoa Kỳ đã nhượng bộ yêu cầu của Liên Xô và đó là điều làm tôi thất vọng nhất.
Đó là điểm quan trọng nhất mà tôi đã đấu tranh trong suốt quá trình đàm phán hoà bình. Từ đầu đến cuối, tôi yêu cầu Kissinger buộc Hà Nội rút quân và giải thích cho ông ta rằng sẽ chẳng có hiệp định nào hết trừ khi Bắc Việt thực thi điều đó.
Sau nhiều ngày tranh luận quyết liệt, Kissinger cuối cùng thú nhận với tôi: “Thưa ngài Tổng thống, điều đó không thể thực hiện được. Nếu được tôi đã làm. Vấn đề đã được đặt ra cách đấy 3 năm nhưng Liên Xô sẽ không chấp nhận”. Sau đó tôi nhận ra Chính phủ Hoa Kỳ đã nhượng bộ yêu cầu của Liên Xô và đó là điều làm tôi thất vọng nhất.
Spiegel: Có
thể Liên Xô không có lựa chọn khác vì Bắc Việt phủ nhận xem Nam Việt
Nam như là một ngoại quốc và thậm chí có khi họ phủ nhận Bắc Việt có
quân đội thường trực tại Nam Việt Nam.
Ông Thiệu:
Chúng tôi đã ở trong chiến tranh hơn 20 năm và chúng tôi biết không bao
giờ tin vào những gì Nga Xô và Bắc Việt nói. Bắc Việt có quân đội tại
Lào, Campuchia và Nam Việt Nam. Tôi nghĩ thậm chí một người mù cũng có
thể nhìn thấy điều đó. Để chấm dứt chiến tranh, chúng ta phải nhìn vào
thực tế chứ không phải nghe những gì kẻ thù đang nói.
Spiegel: Ông có đặt ra những điểm này với Kissinger?
Ông Thiệu:
Tất nhiên và cả với Tướng Haig. Tôi hỏi ông ta: “Tướng Haig, ông là một
vị tướng và tôi cũng là một vị tướng. Vậy ông có biết một hiệp định hòa
bình nào trong lịch sử lại cho phép lực lượng kẻ thù lưu lại trên đất
nước mà họ đã xâm chiếm?” Tôi hỏi ông ta: “Liệu ông có cho quân Liên Xô
đóng trên lãnh thổ Mỹ và nói rằng ông đã đạt được dàn xếp hòa bình với
Liên Xô?”
Spiegel: Ông ấy nói thế nào?
Ông Thiệu: Ông ta không nói gì cả. Làm sao ông ta có thể nói gì - điều đó thật phi lý. Ông ta nói gì đây?
Spiegel:
Kissinger đã đưa ra câu trả lời trong cuốn sách của mình. Ông ấy nói
Bắc Việt sẽ không thực hiện rút quân vì Hà Nội sẽ không nhượng bộ trên
bàn đàm phán những gì họ không bị buộc phải từ bỏ trên chiến trường.
Nhưng ông ta nói thêm Hiệp định Hòa bình Paris chứa đựng một điều khoản
nghiêm cấm bất kỳ việc xâm lấn thêm nào và kế luận “điều này sẽ làm cho
lực lượng Bắc Việt tại miền nam hao mòn làm tiêu hao sinh lực một cách
tự nhiên”.
Ông Thiệu:
Khi đàm phán với Cộng Sản, tôi cảm giác như Chính phủ Hoa Kỳ và cụ thể
là Tiến sĩ Kissinger hoàn toàn không biết gì về những trải nghiệm không
mấy ngọt ngào của Pháp với Cộng Sản vào năm 1954 hoặc từ cuộc chiến
Triều Tiên. Họ không biết gì về những cuộc hội đàm với Lào và Campuchia.
Họ không biết làm thế nào để đối phó với Cộng Sản và làm thế nào để lý
giải chiến lược và chiến thuật của họ.
Do đó chúng ta trở lại vấn đề làm sao Tiến sĩ Kissinger, người đại diện cho một nước lớn và khoe khoang rằng ông ta là thương thuyết gia tài ba nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt sẽ không xâm chiếm Nam Việt Nam. Làm sao ông ta có thể tin như vậy?
Liệu ông ta có thể canh gác trên tất cả chốt biên phòng dọc biên giới của Campuchia, Lào và Nam Việt Nam. Thậm chí nếu chúng tôi có một triệu lính canh gác quốc tế, chúng tôi cũng không thể chứng minh là không hề có sự xâm chiếm nào. Làm sao ông ta có thể tin vào những gì Bắc Việt nói. Ông ta có thể tin vào Cộng Sản nhưng chúng tôi thì không. Đó là vì sao tôi khăng khăng yêu cầu Bắc Việt rút quân. Nếu Bắc Việt thật sự muốn có hòa bình, tại sao họ muốn ở lại?
Do đó chúng ta trở lại vấn đề làm sao Tiến sĩ Kissinger, người đại diện cho một nước lớn và khoe khoang rằng ông ta là thương thuyết gia tài ba nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt sẽ không xâm chiếm Nam Việt Nam. Làm sao ông ta có thể tin như vậy?
Liệu ông ta có thể canh gác trên tất cả chốt biên phòng dọc biên giới của Campuchia, Lào và Nam Việt Nam. Thậm chí nếu chúng tôi có một triệu lính canh gác quốc tế, chúng tôi cũng không thể chứng minh là không hề có sự xâm chiếm nào. Làm sao ông ta có thể tin vào những gì Bắc Việt nói. Ông ta có thể tin vào Cộng Sản nhưng chúng tôi thì không. Đó là vì sao tôi khăng khăng yêu cầu Bắc Việt rút quân. Nếu Bắc Việt thật sự muốn có hòa bình, tại sao họ muốn ở lại?
Spiegel: Kissinger nói gì về điều đó?
Ông Thiệu:
Ông ta có thể nói gì đây? Điều mà ông ta và Chính phủ Hoa Kỳ thật sự
muốn là rút quân càng sớm càng tốt và đảm bảo tù binh Mỹ được phóng
thích. Họ nói với chúng tôi họ muốn một giải pháp danh dự, nhưng họ thật
sự muốn giải quyết mọi việc và thoát ra càng nhanh càng tốt mà không bị
người dân Việt Nam và phần còn lại của thế giới lên án vì đã bỏ rơi
chúng tôi trong cơn hoạn nạn. Đó là vấn đề của họ.
Spiegel: Kissinger
viết ngay sau cuộc tiến công mùa xuân của Bắc Việt năm 1972, vai trò có
vẻ như đã bị đảo ngược. Bắc Việt bất ngờ muốn nối lại đàm phán trong
khi Nam Việt Nam lại muốn chiến đấu đến khi giành thắng lợi cuối cùng.
Ông Thiệu:
Hoàn toàn vô lý! Tiến sĩ Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc
Việt đã gây ra chiến tranh tại Nam Việt Nam. Chúng tôi muốn họ rút quân.
Đó gọi là chiến thắng sao? Tôi không bao giờ yêu cầu người của Bắc Việt
được xem là tù binh chiến tranh tại Nam Việt Nam. Tôi không bao giờ đòi
hỏi Bắc Việt trả bồi thường chiến tranh. Tôi không bao giờ đòi hỏi Bắc
Việt nhượng bộ lãnh thổ. Tôi không bao giờ yêu cầu có ghế trong chính
phủ tại Hà Nội. Vậy Kissinger hiểu chiến thắng và chiến thắng toàn diện
là gì?
Spiegel: Về
vấn đề rút quân của Bắc Việt, theo Kissinger ngày 31 tháng 5 năm 1971
là một ngày quan trọng. Đó là thời điểm trong các cuộc đàm phán bí mật,
Hoa Kỳ đã từ bỏ yêu cầu hai bên cùng rút quân. Tiến sĩ Kissinger nói ít
nhất ba lần trong cuốn sách rằng ông đã được thông báo trước và ông đã
đồng ý.
Ông Thiệu:
Tôi không bao giờ đồng ý việc đơn phương rút quân. Sau cuộc họp Midway,
tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng phần và cả hai bên cùng rút quân.
Mỹ đã thay đổi lập trường và sử dụng chiến thuật thông thường nhằm ép
buộc chúng tôi để chiếm lấy và đặt thanh gươm Damocles lên đầu chúng
tôi, trích dẫn dư luận Mỹ với những nhận xét như: “Bây giờ ông đang có
một hình ảnh rất xấu tại Mỹ!” hoặc “Quốc hội sẽ cắt giảm viện trợ.”… Họ
sử dụng lại chiến thuật cũ, tiết lộ cho báo chí và đặt chúng tôi vào
việc đã rồi.
Nếu tôi từ chối dư luận sẽ quay sang chống đối tôi: “Ông ta đòi hỏi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ để Mỹ rút quân, ông ta sẽ không bao giờ để tù binh Mỹ trở về nhà”. Vì vậy tôi phải nhượng bộ. Không tự nguyện nhưng miễn cưỡng. Làm sao tôi có thể phản đối khi họ sẽ nói ngay rằng: “viện trợ sẽ bị cắt nếu ông không tuân theo”.
Nếu tôi từ chối dư luận sẽ quay sang chống đối tôi: “Ông ta đòi hỏi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ để Mỹ rút quân, ông ta sẽ không bao giờ để tù binh Mỹ trở về nhà”. Vì vậy tôi phải nhượng bộ. Không tự nguyện nhưng miễn cưỡng. Làm sao tôi có thể phản đối khi họ sẽ nói ngay rằng: “viện trợ sẽ bị cắt nếu ông không tuân theo”.
Spiegel: Kissinger nói ông luôn được tham vấn trước về tất cả mọi quyết định của Hoa Kỳ, dưới bất kỳ hình thức nào.
Ông Thiệu:
Đúng, họ có bàn bạc với tôi, nhưng tất nhiên họ không muốn nghe tôi nói
“không” đối các quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Tuy nhiên,
trong hầu hết trường hợp áp lực đem lại cho họ hầu hết những gì họ muốn.
Spiegel:
Kissinger giờ đây chỉ trích một cách cay đắng về cuộc tiến công Lào năm
1971. Ông ấy nói ông cho rằng cuộc tiến công mùa khô là rất cấp thiết.
Vậy ý tưởng ban đầu là của ai?
Ông Thiệu:
Đó là ý tưởng của họ. Trước đó rất lâu chúng tôi đã từng muốn tiến hành
cuộc tấn công, nhưng chúng tôi không thể thực hiện một mình. Bây giờ
Hoa Kỳ đề xuất nên chúng tôi vui vẻ đồng ý để chấm dứt cuộc chiến nhanh
hơn. Đó là một chiến dịch liên quân Việt-Mỹ với các nhiệm vụ qui định
rất rõ ràng: quân đội Nam Việt Nam có nhiệm vụ tiến hành chiến dịch tại
Lào và lính Mỹ sẽ hỗ trợ tiếp tế bên ngoài Việt Nam, từ biên giới đến
nơi giao chiến.
Spiegel: Tại sao? Vì quốc hội Mỹ rõ ràng đã cấm đoán quân Mỹ xâm nhập lãnh thổ Lào?
Ông Thiệu:
Tôi tin là vậy. Nhưng cũng bởi vì chúng tôi không có phương tiện tiếp
tế cho binh lính và quan trọng nhất là chuyên chở thương binh ra ngoài.
Điều đó chỉ có thể tiến hành bằng trực thăng và Hoa Kỳ là bên duy nhất
có đầy đủ trực thăng. Không có trực thăng, chúng tôi không bao giờ đồng ý
tiến hành chiến dịch tại Lào.
Spiegel:
Kissinger nói binh lính của ông gặp vấn đề khi đưa ra yêu cầu không
quân hỗ trợ vì các đơn vị Việt Nam gần như không có những chuyên viên
kiểm soát mặt đất được huấn luyện có thể nói được tiếng Anh.
Ông Thiệu:
Hoàn toàn không có vấn đề gì đối với việc hỗ trợ của không quân. Chúng
tôi không hề lo lắng nếu thỉnh thoảng không có không quân hỗ trợ, chúng
tôi đã có pháo binh. Vấn đề là người Mỹ đã mất nhiều phi công trực thăng
trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch. Vì thế họ không sẵn sàng cất
cánh theo lịch trình và với số lượng cần thiết. Điều đó đã trở thành một
vấn đề lớn đối với quân đội Nam Việt Nam.
Spiegel: Có phải tinh thần binh lính đã suy sụp?
Ông Thiệu:
Chúng tôi không thể chuyên chở binh lính tử trận và thương binh ra
ngoài. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến tinh thần mà còn cả đến việc tiến
hành chiến dịch.
Spiegel: Kissinger
đưa ra một lý do khác giải thích tại sao chiến dịch thất bại. Ông ta
nói ông đã ra lệnh cho binh sĩ của mình phải thận trọng khi di chuyển về
phía tây và ra lệnh chấm dứt chiến dịch toàn bộ ngay khi chịu tổn thất
3.000 binh lính. Kissinger cho rằng người Mỹ sẽ không bao giờ chấp thuận
kế hoạch có hạn chế này và đã được thông báo đến cho họ.
Ông Thiệu:
Đối với một quân nhân, ý tưởng đặt ra một giới hạn về số thương vong
trước là rất vô lý. Tiến sĩ Kissinger phải là một người rất giàu trí
tưởng tượng khi nói như thế. Chúng tôi chỉ có thể di chuyển về phía tây
xa đến mức mà trực thăng di tản có thể bay đến. Kissinger nói chúng tôi
rút quân mà không hề thông báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể
triệt thoái hơn 10.000 quân mà không hề thông báo cho người Mỹ?
Spiegel: Vậy là ông đã thông báo cho họ biết?
Ông Thiệu:
Ồ, tất nhiên. Và hãy để tôi kể cho anh nghe một câu chuyện. Khi đó tờ
Time hay Newsweek gì đó đã đăng tải bức hình một binh sĩ Nam Việt Nam
đang cố bám vào bộ phận hạ cánh của một chiếc trực thăng với chú thích
“kẻ hèn nhát”. Tôi chỉ cười. Tôi thấy điều đó thật kinh khủng. Không thể
nào ngăn cản một binh sĩ bị bỏ rơi khỏi những hành động như thế. Nhưng
tờ báo đã nhục mạ binh lính Nam Việt Nam như là những kẻ hèn nhát và
cùng lúc đó hoàn toàn che dấu một sự thật là phi công trực thăng Hoa Kỳ
không có tinh thần chiến đấu trong chiến dịch này.
Spiegel: Một
điểm cốt lỏi trong sự tranh cãi giữa Nam Việt Nam và Hoa Kỳ là vấn đề
ngừng bắn. Theo Kissinger, Chính phủ Mỹ đã quyết định đề xuất một cuộc
ngưng bắn trên chiến tuyến hiện hữu ngay đầu mùa hè năm 1970. Kissinger
nói ông không những đồng ý mà còn chấp thuận đề xuất đó.
Ông Thiệu:
Đúng vậy. Tôi cũng cho rằng ngưng bắn là một bước đầu tiên rất quan
trọng để hoàn thành những nghĩa vụ của một thoả thuận hoà bình. Nhưng về
vấn đề là ngay lặp tức - tôi nhắc lại một cuộc ngưng bắn ngay lặp tức -
thì tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi nói chúng ta phải xem
xét điều đó một cách cẩn trọng. Không thể tuyên bố ngưng bắn cho đến khi
đã có những suy xét cẩn thận về việc ai sẽ là người giám sát cuộc ngưng
bắn và điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp có vi phạm, binh lính sẽ đóng
ở đâu…
Spiegel: Kissinger
viết: “Chúng tôi vẫn nghĩ rằng chúng tôi đang cùng làm việc với Thiệu”.
Người Mỹ không hiểu rằng ông đang áp dụng “chiến thuật lãng tránh của
người Việt Nam đối với người nước ngoài”.
Ông Thiệu:
Điều đó không bao giờ xảy ra với một nước nhỏ như chúng tôi, một nước
nợ gần như tất cả mọi thứ của đồng minh lớn và vẫn đang yêu cầu viện trợ
lâu dài, lại có thể chơi trò bịp bợm.
Spiegel: Nhưng
ông phải nghĩ rằng cuộc chiến cuối cùng cũng thất bại khi Mỹ rút quân
và Bắc Việt được phép duy trì quân đội tại Nam Việt Nam?
Ông Thiệu:
Không hẳn như vậy, nếu chúng tôi tiếp tục nhận được viện trợ từ Hoa Kỳ
và Chính phủ Hoa Kỳ giữ lời hứa khi chúng tôi ký vào bản hiệp định. Thậm
chí khi ký kết hiệp định, tôi vẫn nghĩ đó chỉ là một drôle de paix -
một nền hòa bình giả mạo.
Nhưng chúng tôi vẫn tin chúng tôi có thể chống cự lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt nếu họ vi phạm các điều khoản của dàn xếp hòa bình. Chúng tôi có hai lý do để tin tưởng: thứ nhất, chúng tôi có một bảo đảm bằng văn bản từ Tổng thống Nixon rằng Mỹ sẽ đáp trả bằng tất cả lực lượng nếu thoả thuận bị vi phạm.
Nhưng chúng tôi vẫn tin chúng tôi có thể chống cự lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt nếu họ vi phạm các điều khoản của dàn xếp hòa bình. Chúng tôi có hai lý do để tin tưởng: thứ nhất, chúng tôi có một bảo đảm bằng văn bản từ Tổng thống Nixon rằng Mỹ sẽ đáp trả bằng tất cả lực lượng nếu thoả thuận bị vi phạm.
Spiegel: Mặc dù ông ta không bao giờ nói là đáp trả như thế nào.
Ông Thiệu:
Thứ hai, chúng tôi được nhận đầy đủ viện trợ kinh tế và quân sự đến khi
nào chúng tôi cần để chống lại sự xâm lăng của Bắc Việt. Liệu Chính phủ
Mỹ có giữ đúng lời hứa đó? Cuộc chiến có thể tiếp tục nhưng Bắc Việt sẽ
không thể lật đổ Nam Việt Nam.
Spiegel: Ông
và Kissinger ít nhiều đồng ý về điểm này. Ông ta viết, toàn bộ chiến
lược có thể thành công nếu Hoa Kỳ ở vào vị thế có thể hành động với tất
cả những vi phạm giàn xếp hoà bình của Bắc Việt và tiếp tục viện trợ đầy
đủ cho Nam Việt Nam. Cái gì đã sai? Kissinger đổ lỗi cho vụ Watergate
và sự xói mòn của chính quyền hành pháp. Ông có thật sự nghĩ vụ
Watergate phải chịu trách nhiệm cho sự thất bại?
Ông Thiệu:
Xin lỗi nhưng tôi không phải là một người Mỹ. Tôi không có trách nhiệm
phải dọn dẹp trước hàng rào của họ. Nhưng nếu họ giữ lời hứa, đó sẽ là
một cản trở tốt nhất đối với những sự xâm lăng thêm của Bắc Việt và có
thể kết thúc chiến tranh.
Spiegel: Nếu Mỹ giữ lời hứa, ông có nghĩ bản hiệp định có thể dẫn đến một kết quả thành công toàn diện?
Ông Thiệu: Tôi tin có thể sẽ là như vậy.
Spiegel: Vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không phải quá tệ?
Ông Thiệu:
Đó chắc chắn không phải là một thỏa thuận tốt đẹp đối với chúng tôi. Đó
là một thảo thuận giả tạo. Nhưng đó là phương kế cuối cùng. Anh phải
hiểu là chúng tôi chỉ ký kết, như tôi đã nói, bởi vì chúng tôi có đảm
bảo từ phía Chính phủ Hoa Kỳ và Hiệp định được bảo đảm bởi 12 quốc gia
và Liên Hiệp Quốc.
Spiegel: Kissinger
đưa ra bình luận một cách chua cay trong cuốn sách của mình về nhiều
chính trị gia lớn. Nhưng ông ta có vẻ giành nhiều sự miệt thị đối với
ông. Mặc dù ông ta ngưỡng mộ sự “thông minh”, “lòng dũng cảm” và “nền
tảng văn hoá” của ông. Ông ta chăm chú đến “sự điều hành tàn bạo”, “xấc
láo”, “sự ích kỷ độc ác” và “thủ đoạn gần như điên cuồng” của ông khi
làm việc với người Mỹ. Ông nói gì về những gán ghép này trong hồi ký của
Kissinger?
Ông Thiệu:
Tốt hơn là tôi không trả lời. Tôi thà không nói gì về ông ta. Ông ấy có
thể nghĩ bất cứ điều gì ông ta thích về tôi, tốt hoặc xấu. Tôi thích
nói về những gì đã thật sự xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.
Spiegel: Phải chăng ông đã đem đến cho ông ta một lý do nào đó để viết về ông theo một cách coi thường như thế này?
Ông Thiệu:
Có thể ông ta ngạc nhiên vì phải làm việc với một người quá thông minh
và tài giỏi. Cũng có thể có vài điều phải làm với tính phức cảm tự tôn
của một người quá tự phụ. Có thể ông ta không thể tin rằng một người đối
thoại Việt Nam lại bình đẳng với một người tự cho rằng mình rất quan
trọng.
Để tôi kể anh nghe một chuyện khác, tôi cảm thấy thật buồn cười tại đảo Midway vì tôi không thể nào tưởng tượng nỗi những người như thế lại cực kỳ đê tiện. Trong dịp đó, ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi họp tại nhà của một sỹ quan hải quân Mỹ. Có ba cái ghế thấp và một cái cao hơn. Ông Nixon đã ngồi ở ghế cao hơn.
Để tôi kể anh nghe một chuyện khác, tôi cảm thấy thật buồn cười tại đảo Midway vì tôi không thể nào tưởng tượng nỗi những người như thế lại cực kỳ đê tiện. Trong dịp đó, ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi họp tại nhà của một sỹ quan hải quân Mỹ. Có ba cái ghế thấp và một cái cao hơn. Ông Nixon đã ngồi ở ghế cao hơn.
Spiegel: Giống
như phim “Nhà độc tài vĩ đại”của Chaplin? Trong đó, Hitler đã ngồi ở
một cái ghế cao để ông ta có thể nhìn xuống Mussolini đang ngồi tại nghế
thấp hơn.
Ông Thiệu:
Nhưng tôi đã tìm một cái ghế khác cao ngang bằng cho tôi trong giờ nghỉ
để cùng cấp với Nixon. Sau cuộc họp Midway, tôi nghe từ vài người bạn
Mỹ của tôi rằng Kissinger không bao giờ trông đợi Tổng thống Thiệu trở
thành một người như ông ta.
Spiegel: Kinssinger
phàn nàn trong cuốn sách của mình rằng ông đã đối đãi với ông ta thật
tệ hại trong cách cư xử cá nhân của mình, rằng ông đã bỏ cuộc hẹn lướt
ván, Nixon thậm chí còn nói thêm, theo Kissinger, ông ta nói ông là “một
thằng chó đẻ” và nói: “tàn bạo là bình thường, … sẽ không bao giờ được
nhìn thấy, nếu… không đi cùng”.
Ông Thiệu:
Xin lỗi nhưng tôi không có gì để nói về điều đó. Tôi được giáo dục đầy
đủ và tôi từ chối trả lời những lời bình phẩm mất lịch sự và khiếm nhã
như vậy.
Nếu tôi không tiếp đãi Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker, đó đơn giản là vì chúng tôi chưa đạt đến một điểm để có thể tiếp tục thảo luận với họ. Họ mất 4 năm vậy tại sao buộc tôi phải trả lời trong một giờ. Nếu người Mỹ có thể bỏ ra thời gian thì tại sao tôi lại không thể? Chúng tôi có thể phù hợp với họ nếu chúng tôi là những người ba phải, cái gì cũng đồng ý. Nhưng tôi không phải là một người ba phải và người miền nam không phải là một quốc gia của những người ba phải, Quốc hội chúng tôi không phải là một Quốc hội của những người ba phải. Tôi phải bàn bạc với họ.
Nếu tôi không tiếp đãi Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker, đó đơn giản là vì chúng tôi chưa đạt đến một điểm để có thể tiếp tục thảo luận với họ. Họ mất 4 năm vậy tại sao buộc tôi phải trả lời trong một giờ. Nếu người Mỹ có thể bỏ ra thời gian thì tại sao tôi lại không thể? Chúng tôi có thể phù hợp với họ nếu chúng tôi là những người ba phải, cái gì cũng đồng ý. Nhưng tôi không phải là một người ba phải và người miền nam không phải là một quốc gia của những người ba phải, Quốc hội chúng tôi không phải là một Quốc hội của những người ba phải. Tôi phải bàn bạc với họ.
Spiegel: Tiến sĩ Kissinger viết rằng thái độ của ông đối với ông ta về cơ bản được xác định là “căm thù một cách độc địa”
Ông Thiệu:
Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Chắc chắn là có những
cuộc tranh luận nảy lửa nhưng thái độ của tôi luôn luôn kiềm chế bởi
động cơ yêu nước.
Spiegel:
Kissinger viết ông có vài điều kiện để đạt được “vị thế gần như là
không thể” trong đó ông tự nhận thấy. Ông có nhận ra dấu hiệu nào của
điều kiện đó?
Ông Thiệu: Không. Tất cả những gì tôi nhận thấy là áp lực từ Chính phủ Mỹ.
Spiegel: Kissinger
viết ông không bao giờ tham gia vào một cuộc đàm phán dựa trên khái
niệm. Ông ấy nói ông “đấu tranh theo cách của người Việt Nam: gián tiếp,
giản lượt, bằng phương pháp nhằm làm cạn kiệt hơn là làm sáng tỏ, luôn
luôn chăm chọc nhưng không bao giờ giải quyết vấn đề thực tế”
Ông Thiệu:
Hãy đặt anh vào vị trí của tôi. Tôi đồng ý ngay từ đầu rằng Chính phủ
Mỹ nên tham gia đàm phán bí mật với Hà Nội. Kissinger nói tôi sẽ luôn
luôn được thông báo. Đúng, tôi đã được thông báo. Tôi được nghe những gì
ông ta chọn để nói với tôi. Nhưng tôi tin đồng minh của tôi sẽ không
bao giờ lừa gạt tôi, dàn xếp thỏa thuận trên đầu tôi và bí mật bán đất
nước tôi.
Nhưng, anh có thể tưởng tượng được không, chỉ bốn ngày trước khi ông ta ra Bắc Việt vào tháng 10 năm 1972, ông ta đưa tôi bản dự thảo hiệp định sẽ được ký tắt tại Paris bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải thẩm tra bản thảo bằng tiếng Anh từng điểm một.
Và bản thảo không phải được đưa ra bởi Nam Việt Nam và Hoa Kỳ mà là bởi Bắc Việt và Hoa Kỳ. Anh có tưởng tượng nỗi điều đó không? Theo logic thông thường Nam Việt Nam và Hoa Kỳ phải thỏa thuận về những điều kiện của dàn xếp hòa bình trước và sau đó Kissinger quay lại với chúng tôi nếu Bắc Việt đưa ra bất kỳ đề xuất trái ngược nào. Nhưng ông ta đã không làm như thế.
Thay vào đó, ông ta soạn thảo những điều khoản của hiệp định chung với Bắc Việt và đưa cho tôi xem bằng tiếng Anh. Hiệp định hoà bình sẽ quyết định số phận chúng tôi. Anh có tưởng tượng được tôi cảm thấy như thế nào khi chúng tôi thậm chí không thể nhìn thấy nguyên bản bằng chính ngôn ngữ của chúng tôi?
Nhưng, anh có thể tưởng tượng được không, chỉ bốn ngày trước khi ông ta ra Bắc Việt vào tháng 10 năm 1972, ông ta đưa tôi bản dự thảo hiệp định sẽ được ký tắt tại Paris bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải thẩm tra bản thảo bằng tiếng Anh từng điểm một.
Và bản thảo không phải được đưa ra bởi Nam Việt Nam và Hoa Kỳ mà là bởi Bắc Việt và Hoa Kỳ. Anh có tưởng tượng nỗi điều đó không? Theo logic thông thường Nam Việt Nam và Hoa Kỳ phải thỏa thuận về những điều kiện của dàn xếp hòa bình trước và sau đó Kissinger quay lại với chúng tôi nếu Bắc Việt đưa ra bất kỳ đề xuất trái ngược nào. Nhưng ông ta đã không làm như thế.
Thay vào đó, ông ta soạn thảo những điều khoản của hiệp định chung với Bắc Việt và đưa cho tôi xem bằng tiếng Anh. Hiệp định hoà bình sẽ quyết định số phận chúng tôi. Anh có tưởng tượng được tôi cảm thấy như thế nào khi chúng tôi thậm chí không thể nhìn thấy nguyên bản bằng chính ngôn ngữ của chúng tôi?
Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng nhận được bản tiếng Việt?
Ông Thiệu:
Chúng tôi khăng khăng đòi hỏi, đòi hỏi và đòi hỏi và cuối cùng ông ta
đồng ý, dù tất nhiên là miễn cưỡng. Và chúng tôi đã phát hiện ra nhiều
cạm bẫy. Tôi hỏi Tiến sĩ Kissinger và Đại sứ Bunker “Ai đưa ra bản tiếng
Việt?” Họ trả lời “một người Mỹ rất giỏi từ trường Đại học Ngôn ngữ học
Quốc tế tại Hoa Kỳ cộng tác với Bắc Việt”. Nhưng không người Mỹ nào có
thể hiểu và viết tiếng Việt tốt hơn một người Việt Nam. Và không người
Mỹ nào có thể làm việc với Cộng Sản Việt Nam bằng tiếng Việt giỏi hơn
chúng tôi. Liệu đó có phải là cách ứng xử danh dự và ngay thẳng của phía
đồng minh?
Spiegel: Các
giới chức cấp cao tại Mỹ nói đã từng nghĩ rằng tất cả những gì mà
Kissinger theo đuổi là một khoảng thời gian hợp lý giữa việc rút quân Mỹ
và sự sụp đổ cuối cùng của Sài Gòn. Kissinger nói trong cuốn sách của
mình là điều đó không đúng. Ông nghĩ thế nào?
Ông Thiệu: Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của Chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.
Spiegel: Kissinger đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy điều đó không đúng.
Ông Thiệu:
Người Mỹ cố gắng ép buộc chúng tôi đồng ý bản hiệp định. Nếu chúng tôi
đồng ý, họ có thể hãnh diện là đã giải quyết mọi việc bằng một “thoả
thuận danh dự”. Họ có thể nói với dân chúng tại nhà rằng: “Chúng tôi
đang rút quân, chúng tôi đảm bảo tù binh sẽ được phóng thích”. Và có thể
nói với phần còn lại của thế giới rằng: “Chúng tôi đã mang lại hoà bình
cho Nam Việt Nam. Bây giờ thì tuỳ thuộc vào người dân Nam Việt Nam. Nếu
chính phủ liên hiệp có bị Cộng Sản chi phối thì đó là vấn đề của họ.
Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự.”
Spiegel: Kissinger viết: “Chúng tôi có một nguyên tắc trong đàm phán đó là người Mỹ không phản bội những người bạn của mình”.
Ông Thiệu:
Thôi được, vậy hãy nhìn vào vị thế hiện nay tại Nam Việt Nam, Campuchia
và tất cả Đông Dương. Khi chúng tôi đàm phán thỏa thuận hòa bình với
những đại diện của Chính phủ Mỹ, chúng tôi thường có cảm giác họ không
chỉ chơi trò xỏ lá mà họ còn thật sự là người đáng bị lên án trong hành
động.
Spiegel:
Ông có bao giờ cảm thấy biết ơn về những gì mà người Mỹ đã giúp đỡ cho
đất nước ông? Kissinger nói trong cuốn sách của mình: “đáng giá cao về
những gì được giúp đỡ không phải là một đặc điểm của người Việt Nam”.
Ông Thiệu:
[Cười] Về những gì mà Kissinger viết trong sách, tôi nghĩ chỉ có người
với một tinh thần bị méo mó mới có thể nghĩ như vậy, chỉ có thể xảy ra
với một người có tính khí không bình thường. Ông ta ám chỉ trong cuốn
sách của mình rằng ông ta sợ người Việt Nam sẽ trả thù những người Mỹ
còn ở lại sau khi Washington đã bỏ rơi chúng tôi. Bây giờ và không bao
giờ chúng tôi làm điều đó.
Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy biết ơn gì không?
Ông Thiệu:
Tôi có thể nói một cách thành thật rằng nếu Chính phủ Mỹ không phản bội
chúng tôi và không đâm sau lưng chúng tôi, người dân Việt Nam sẽ cảm
thấy rất biết ơn. Sau khi chúng tôi có một cuộc bàn luận căng thẳng với
Kissinger về từ ngữ của hiệp định hòa bình, vài thành viên của chính phủ
tôi nói rằng sẽ là một ngày may mắn cho chúng tôi nếu Kissinger làm cho
Nam Việt Nam bằng như những gì mà ông ta đã làm cho Bắc Việt. Tôi nói
với họ nếu ông ta đàm phán một nền hoà bình đích thực với Bắc Việt, ông
ta sẽ có cho riêng mình một đài kỷ niệm tại Nam Việt Nam giống như tượng
của tướng McArthur tại Nam Hàn. Tiếc thay mọi chuyện đã không diễn ra
như vậy.
Về hậu quả của hòa bình, tôi nghĩ tốt nhất là để tự người Mỹ phán quyết về những gì mà Kissinger đã làm cho Nam Việt Nam: những trại tập trung, nạn đói kém, hành hạ tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân mất tích trên Thái Bình Dương và nạn diệt chủng còn khủng khiếp và được tiến hành có hệ thống hơn cả nạn diệt chủng tại Campuchia. Kissinger không có lý do gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ta đã mang đến. Đó là mồ chôn của hòa bình.
Về hậu quả của hòa bình, tôi nghĩ tốt nhất là để tự người Mỹ phán quyết về những gì mà Kissinger đã làm cho Nam Việt Nam: những trại tập trung, nạn đói kém, hành hạ tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân mất tích trên Thái Bình Dương và nạn diệt chủng còn khủng khiếp và được tiến hành có hệ thống hơn cả nạn diệt chủng tại Campuchia. Kissinger không có lý do gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ta đã mang đến. Đó là mồ chôn của hòa bình.
SPIEGEL: Cảm ơn ông Thiệu đã giành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Nguồn nguyên tác: "Die Amerikaner haben uns verraten!"