GS. Vũ Quốc Thúc
(Viết cho Tạp Chí Khai Thác Thị Trường số Tết năm Nhâm Ngọ, 2002, Paris)
Trong một bài xã luận viết hồi đầu tháng 4 vừa qua , nhan đề "Hiểm
họa Bắc thuộc" , chúng tôi đã lưu ý quốc dân là nếu việc lên tiếng mạnh
mẽ để phản đối nhóm cộng sản cầm quyền ở Hà Nội về vụ "cắt đất dâng
biển" cho Trung Quốc là một việc cần phải làm thì đồng bào ta đừng quên
một nguy cơ khác quan trọng hàng vạn, hàng triệu lần hơn nữa : đó là
hiểm họa Bắc thuộc. Dựa trên một khẩu hiệu được Giang Trạch Dân dùng làm
phương châm trong chính sách bang giao với Việt Nam ("láng giềng hũu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai")
chúng tôi đã nói lên ưu tư của chúng tôi khi tìm hiểu ẩn ý của chính
quyền Bắc Kinh, đặc biệt về chủ trương hợp tác toàn diện nói ở khẩu
hiệu.
Phải chăng Bắc Kinh đang tìm cách thực hiện cái mộng nghìn xưa của
Trung Hoa là thiết lập một đế quốc Ðại Hán trong đó Việt Nam sẽ là một
tỉnh nhỏ, hoặc nhiều lắm là một tiểu bang được tự trị phần nào về mặt
hành chính? Những việc xẩy ra trong mấy tháng vừa qua như : quyết nghị
thành lập khu mậu dịch tự do giữa Trung Quốc và các nước ASEAN , việc
Bắc Kinh dự trù xây hàng chục cái đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và
dùng những dự án ấy để uy hiếp các nước ở hạ lưu sông này, việc Hà Nội
xử tù một cách cực kỳ phi lý luật gia Lê Chí Quang chỉ vì nhân vật này
đã cả gan công khai nêu vấn đề "cảnh giác Thiên Triều" và gần đây nhất
là việc bắt giữ rồi khám xét tư gia của cựu đại tá Phạm Quế Dương cùng
học giả Trần Khuê (cả hai nhân vật này đều từng lên tiếng phản đối các
hiệp định Việt Trung về biên giới và lãnh hải trong vịnh Bắc Bộ)... cho
thấy mối lo ngại của chúng tôi là chính đáng.
Cổ nhân có câu: "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách". Một khi biết rõ nguy cơ đang đe dọa dân tộc mà không tìm cách đối
phó, quả thực là bất trung nếu không phải là bất trí. Chính vì thế mà
chúng tôi đưa ra một vài ý kiến thô thiển dưới đây với niềm hy vọng là
có thể giúp ích phần nào cho những ai có khả năng và điều kiện thuận lợi
hơn mình để hành động kịp thời.
* * *
NGOAI VUONG TRONG DE: Sách lược của Tổ tiên đồi với Trung Hoa
Trước hết, cần xét lại sách lược mà tổ tiên chúng ta đã áp dụng trong quá khứ để bảo vệ chủ quyền thực sự của dân tộc cũng như sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia.
Sau khi đã lật đổ chế độ nội thuộc - một chế độ trong đó nước ta bị
coi là một quận của Trung Hoa, trực tiếp do Triều đình Trung Hoa cai
trị qua một vị thái thú (dĩ nhiên là người Trung Hoa do hoàng đế Trung
Hoa bổ nhiệm) - để được yên ổn trị quốc, các vua ta đành chấp nhận đế
quyền của hoàng đế Trung Hoa, coi vua Tầu là Con Trời (Thiên Tử) còn
mình thì chỉ là một quốc vương được Thiên Tử phong chức. Sự phục tòng
được cụ thể hóa bằng chiếc ấn vàng do vua Tầu ban cho cùng với sắc phong
vương : đối lại, cứ bốn năm một lần ta phải cử một sứ bộ mang lễ vật
gồm vàng bạc và sản phẩm quý báu để cống hiến Thiên Tử Tầu. Dưới nhỡn
quan của pháp lý Tây phương thì mối liên hệ này có tính cách thân trạng
(personnelle) nghĩa là có giá trị giữa "con người" của vua ta với "con
người" của vua Tầu.
Cơ sở của mối liên hệ là chủ thuyết phong kiến,
theo đó chỉ có một Con Trời là Hoàng đế Trung Hoa còn vua nước ta -
giống như vua các nước nằm trong quỹ đạo của Trung Hoa - đều do Hoàng đế
Trung Hoa phong chức. Chính vì vậy mà mỗi khi có sự thay đổi triều đại ở
nước ta, chẳng hạn chuyển từ nhà Trần sang nhà Hậu Lê, cần đươc sự chấp
thuận, hay đúng hơn: sự thừa nhận của Hoàng Ðế Trung Hoa. Sự phục tòng này có tính cách nguyên tắc và nghi lễ nhiều hơn là thực tế vì trong thực tế các vua nước ta tự quyết mọi việc
, kể cả trong lảnh vực quân sự và lãnh vực ngoại giao (dĩ nhiên trừ
trường hợp ta chấp nhận sự đô hộ hay bảo hộ của một nước khác ngoài
Trung Hoa).
Ta đừng trách tổ tiên quá nhượng bộ Trung Hoa: trong hoàn cảnh lịch
sử chung của toàn thế giới và đặc biệt của Á Ðông trước thế kỷ XIX, một nước nhỏ yếu như nước ta mà giữ vững được bản sắc dân tộc cũng như chủ quyền và lãnh thổ quốc gia, trước khuynh hướng bành trướng tất yếu của một láng giềng khổng lồ như Trung Hoa, phải công nhận là một thành công chiến lược.
Mỗi lần Trung Hoa mưu toan dùng võ lực thôn tính nước ta để tái lập nền
đô hộ, nhân dân ta đã không ngần ngại hy sinh xương máu chống trả cực
kỳ oanh liệt. Nhưng sau khi chiến thắng, các vị lãnh đạo nước ta thời
xưa đã có thái độ rất thực tiễn, biết chế ngự xu hướng tự ái, chịu
nhượng bộ Triều đình Trung Hoa tới một mức nào coi là không làm thương
tổn nền độc lập thực sự của dân tộc ngõ hầu bình thường hóa bang giao
giữa hai nước.
Về phía Trung Hoa, khi xét lại quá khứ, chúng tôi nhận thấy họ đã
áp dụng chính sách sau đây đối với nước ta, một láng giềng họ coi là
"cứng đầu", khó xâm chiếm bằng võ lực. Thay vì áp đặt nền đô hộ một cách
công khai và trực tiếp, họ đã duy trì bá quyền xuyên qua hai lãnh vực văn hóa và tổ chức chính trị.
Về văn hóa, yêu cầu bất biến của họ là ta phải dùng chữ hán trong mọi
công văn, nếu phải dùng chữ nôm thì chỉ để bổ trợ cho chữ hán mà thôi
(chẳng hạn khi không thể dịch những từ Việt ra chữ hán) . Ta cần nhớ
rằng sự thống nhất quốc gia Trung Hoa, ngoài việc tổ chức lãnh thổ thành
tỉnh, huyện đặt dưới sự cai trị của Triều đình, từ xưa đến nay dựa hoàn
toàn trên chữ Hán: Mỗi vùng tuy có tiếng nói riêng của mình, nhưng nhờ
chữ Hán nên vẫn có thể liên lạc với triều đình và các vùng khác. Một khi
An Nam (tên cũ của nước ta) vẫn dùng chữ Hán, thì triều đình Trung Hoa coi ta chẳng khác chi các tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, Vân Nam ...!
Chính vì để thỏa mãn yêu cầu của Triều đình Trung Hoa mà cho tới lúc
Pháp thuộc, nước ta vẫn dùng chữ Hán làm chữ chính thức, mặc dù chữ Nôm
đã được sáng chế từ thời Nhà Trần (thế kỷ XIII) và chữ quốc ngữ từ thời
Trịnh - Nguyễn (thề kỷ XVII) . Dĩ nhiên, cùng với việc phổ bién hán tự
nước ta đã dựa trên Nho Giáo của Trung Hoa để tổ chức nền quốc học: với
chế độ khảo thí phỏng theo kiểu mẫu Trung Hoa, tầng lớp Nho sĩ rõ ràng
đã giữ độc quyền trị nước từ thế hệ này qua thế hệ khác. Khỏi cần nói là
các nhà nho thành thực tin rằng ngoài Trung Hoa, mọi dân tộc khác đều
chưa văn minh: dù chẳng có áp lực nào, các cụ vẫn chấp nhận không chút
dè dặt chủ trương Nho giáo độc tôn và Nho sĩ chuyên chính của Trung Hoa ! Ðiều này cho ta hiểu tại sao từ sau đời Gia Long, triều đình Huế đã thẳng tay đàn áp những gì coi là "bàng môn tả đạo" ...
Dĩ nhiên các vua ta đã theo đúng kiểu mẫu quân chủ Trung Hoa trong
sự tổ chức chính trị: đó là một cách để trấn an giới chức quyền Trung
Hoa. Một khi thấy An Nam tổ chức giống hệt Thiên Triều, do đó có thể sáp
nhập dễ dàng vào hệ thống đế quyền Trung Hoa, thì các giới chức này tin
rằng chỉ cần "nắm" vị lãnh đạo tối cao của An Nam qua việc sắc phong vị
này làm An Nam Quốc Vương, là có thể nắm được toàn nước An Nam ! Thật
là giản dị ! Thật là kín đáo ! Mà lại không bị hao binh tổn tướng ! Sự
phân tích vừa rồi cho hiểu tại sao Triều đình Trung Hoa hồi thế kỷ XIX
luôn luôn chủ trương An Nam là một nước chư hầu của mình trong khi, dưới
mắt của mọi người Việt, nước ta đã phục hồi độc lập từ thời Ngô Quyền
(thế kỷ thứ X) . Tiền nhân đã chấp nhận bá
quyền của Trung Quốc trong lãnh vực văn hóa vì cho rằng sự lệ thuộc
tinh thần này không có hại cho dân tộc. Lịch sử chứng minh là các cụ đã
tính lầm: vì nước ta đã bỏ lỡ cơ hội canh tân theo gương Âu Tây như Nhật
Bản đã làm dưới triều Minh Trị Thiên Hoàng. Và rút cục, ta đã bị Pháp
Quốc thôn tính trong hậu bán thế kỷ XIX.
Tóm lại, lịch sử đã cho ta một bài học đắt giá: chủ trương độc tôn
về văn hóa và chế độ độc quyền lãnh đạo của một tầng lớp xã hội có thể
kềm hãm sự tiến bộ của dân tộc và đưa tới nạn mất nước.
* * *
NGÀY NAY: Chính phủ Hanoi đem giây buộc cổ Tổ quốc với thòng lọng Mac Lênin, làm đàn em chư hầu của Đảng Cộng Sản Trung quốc!
Ngày nay, quốc dân đang đứng trước một ngã ba lịch sử: hoặc là tiếp tục theo định hướng xã hội chủ nghĩa kiểu Trung Hoa như nhóm cầm quyền ở Hà Nội đang làm, hoặc là chọn kiểu mẫu dân
chủ tự do Tây phương như nhiều người đề nghị. Trong sự quyết định,
không những chúng ta phải phỏng theo xu hướng tiến hóa chung của thế
giới mà phải luôn luôn lấy quyền lợi tối thượng của dân tộc làm tiêu
chuẩn.
Dĩ nhiên, từ ngày chữ quốc ngữ được phổ biến trong toàn dân, ta
không còn lệ thuộc hán tự như xưa nữa và ta cũng không cần phải qua
trung gian hán văn để tìm hiểu khoa học cũng như kỹ thuật hiện đại. Như
vậy, trên nguyên tắc, Trung Hoa không thể dùng hán tự và hán văn để chi
phối người Việt. Khốn nỗi, nhóm cầm quyền ở Hà Nội đã tự ý đem giây buộc cổ mình: họ đã chọn chủ thuyết Mác Lê-nin làm triết lý độc tôn và chế độ vô sản chuyên chính (hay đúng hơn Cộng sản đảng chuyên chính) làm cơ sở chính trị. Do đó đảng Cộng sản Trung Hoa có thể lợi dụng "giây thòng lọng văn hóa" này để biến nước xã hội chủ nghĩa đàn em Việt Nam thành một chư hầu kiểu mới của nước xã hội chủ nghĩa đàn anh Trung Hoa.
Ai cũng biết là sau khi khối cộng sản Liên Xô tan rã, không còn
nước cộng sản nào khác có đủ khả năng đóng vai đối trọng so với Trung
Hoa: Bắc Kinh đương nhiên trở thành trung tâm quyền lực chi phối những
phần đất còn lại của thế giới cộng sản cũ. Không thiếu gì cán bộ cộng
sản Trung Hoa đang nhớ lại ước mơ "đế quốc
Ðại Hán" của tổ tiên họ thời xưa: tại sao lại không dùng chủ thuyết
Mác-Lê nin làm một lợi khí văn hóa, thay cho Nho giáo, để xây dựng bá
quyền?
Vẫn biết, ngày nay không ai có thể làm sống lại các nghi lễ "phong sắc" và "triều cống" của thời phong kiến nhưng việc Hồ Cẩm Ðào đích thân cầm đầu một phái đoàn hùng hậu tới dự Ðại Hội IX của đảng Cộng Sản Việt Nam để "chứng kiến" việc bầu tân Tổng Bí Thư Nông Ðức Mạnh có khác gì một hình thức thừa nhận?
Cuộc xuất ngoại chính thức đầu tiên của Tân Tổng Bí Thư họ Nông là dẫn
một phái đoàn không kém hùng hậu sang Bắc Kinh để viếng thăm "hữu nghị"
các lãnh đạo cộng sản Trung Hoa. Nếu những cuộc viếng thăm hữu nghị giữa
hai chính đảng đồng mầu sắc ở hai nước khác nhau là chuyện thông thường
thì những cuộc viếng thăm chính thức này có một tầm quan trọng đặc biệt
khi hiến pháp dành cho đảng Cộng sản, ở nước ta cũng như ở Trung Hoa,
độc quyền lãnh đạo đất nước!
Ta cũng nên biết rằng, trong điều
kiện của thế giới hiện đại, bá quyền của Trung Hoa có thể vượt khỏi lãnh
vực văn hóa để lan tràn sang nhiều lãnh vực khác, do đó nó có thể gây
rất nhiều tai hại. Về mặt kinh tế chẳng hạn, làm sao
Việt Nam có thể ngăn chặn hàng hóa Trung Hoa vừa rẻ vừa tốt tràn ngập
thị trường quốc nội, bóp nghẹt những kỹ nghệ non yếu của ta ? Làm sao
Việt Nam có thể cạnh tranh với những khu vực kinh tế đặc biệt ở Trung
Hoa như Thượng Hải, Quảng Châu, Thẩm Quyến ... để thu hút vốn đầu tư
ngoại lai ? Việc thiết lập "Vùng mậu dịch tự do Á Châu"
dù chỉ hoàn thành trong 10 năm nữa nhưng cũng vẫn khiến cho tư bản Âu
Mỹ ngay từ bây giờ ưa chuộng lục địa Trung Hoa hơn là các nước Ðông
Dương... Về mặt quốc phòng, khỏi cần nói là Trung Hoa đang
kiểm soát thượng nguồn Cửu Long Giang và khi hữu sự có thể uy hiếp các
nước ở hạ lưu sông này như: Thái Lan, Lào Quốc, Kampuchia và Việt Nam.
Ðó là chưa nói tới việc hải quân Trung Hoa có
thể phong tỏa Việt Nam một khi tầu chiến của họ làm chủ Ðông Hải, suốt
từ Vịnh Bắc Bộ tới vùng quần đảo Trường Sa ...
Kẻ viết bài này không có tinh thần bài ngoại, đặc biệt đối với Trung Hoa
là một nước lớn có nhiều sắc thái. Tuy nhiên cái lô gích của sự chênh
lệch giữa các quốc gia trên trường quốc tế, khiến cho những nước nhỏ,
nghèo, yếu kém phải luôn luôn đề phòng. Ðừng nên để cho sự chênh lệch
đưa tới tình trạng lệ thuộc khiến cho ta mất dần chủ quyền rồi tới bản
sắc dân tộc, cơ hồ bị đại cường láng giềng hoàn toàn đồng hóa. Sự phân
tích kể trên đưa chúng tôi tới kết luận:
Muốn giải trừ hiểm họa Bắc
Thuộc việc đầu tiên phải làm là chấm dứt tình trạng chủ nghĩa Mác-Lê nin
giữ địa vị độc tôn về tư tưởng và Ðảng Cộng Sản Việt Nam giữ độc quyền
về chính trị.
Nói khác phải có tự do tư tưởng, tự do thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do giáo dục con em... Lại phải tôn trọng mọi quyền tự do của người công dân như ở những nước thực sự dân chủ.
Chúng tôi tin rằng một khi người dân Việt được tự do như vậy, thì
qua các cuộc tuyển cử và đầu phiếu trung thực, nhân dân sẽ có những
quyết định hợp lý, hợp tình để đối phó với mọi nguy cơ ngoại thuộc. Lúc
đó những người yêu nước sẽ không còn lo ngại là vận mệnh của dân tộc
hoàn toàn tùy thuộc vào sự quyết định thầm kín của một nhóm người bị
ngoại bang chi phối./.
Paris, tháng Chạp năm Nhâm NgọGS Vũ Quốc Thúc, Paris 2002