Nguyễn Hưng Quốc
Hình: ASSOCIATED PRESS
Không cần biết gì về chính trị và cũng không cần theo dõi
tin tức thường xuyên, bất cứ người nào có chút lương tri cũng đều biết sự uy
hiếp lớn nhất, nặng nề nhất và nguy hiểm nhất mà Việt Nam hiện đã, đang và sẽ
đối diện đều đến từ Trung Quốc. Bất chấp những lời lẽ ngọt ngào trong các văn
kiện chính trị hay các bản thông báo chung, bất chấp những cái bắt tay lịch sự
hay khúm núm (bằng cả hai tay!) của giới lãnh đạo hai nước, cuộc chiến tranh
sắp tới của Việt Nam, nếu có, chắc chắn sẽ xuất phát từ một địa điểm: phía Bắc.
Mối đe dọa từ phía Bắc nguy hiểm vì nhiều lý do. Thứ nhất,
so với Việt Nam, Trung Quốc hiện nay rất mạnh, hơn nữa, càng ngày càng mạnh.
Nếu chiến sự giữa hai nước bùng nổ, hy vọng một chiến thắng như năm 1979, về
phía Việt Nam, chỉ là một ảo tưởng. Thứ hai, thế trận của Trung Quốc đối với
Việt Nam phải nói là dày đặc. Trùng trùng điệp điệp. Về quân sự, không phải chỉ
trên bộ mà còn trên biển. Và dĩ nhiên, phải kể trên không nữa, với lực lượng
không quân của Trung Quốc càng ngày càng bỏ xa, cực kỳ xa, Việt Nam. Nhưng
không phải chỉ có quân sự. Còn có mặt trận kinh tế với sự hiện diện của vô số
công ty và đường dây thương mại Trung Quốc trên khắp hang cùng ngõ hẻm Việt
Nam. Khi có chiến tranh, toàn bộ những đầu mối làm ăn ấy biến thành một con
thuồng luồng khổng lồ siết chặt cái cơ thể ốm yếu gầy còm và quặt quẹo của Việt
Nam khiến không ai có thể thở được.
Nhưng thứ ba, quan trọng hơn hết, là ảnh
hưởng của Trung Quốc trên bàn cờ chính trị Việt Nam. Khác với những lần đối
diện với nguy cơ ngoại xâm khác trước đây, lần này, thái độ của giới lãnh đạo
cũng như giới chức các cấp của Việt Nam, từ trung ương xuống địa phương, không
thể không làm mọi người nghĩ ngợi: Hoặc họ ủng hộ Trung Quốc hoặc họ hoàn toàn
thơ ơ trước sự đe dọa đến từ Trung Quốc. Nhiều người nêu lên khả năng: Họ bị
mua chuộc. Khó có thể tìm được chứng cứ; nhưng nhìn thái độ hờ hững của họ,
người ta không thể không đặt thành nghi vấn.
Có điều, với tư cách một nước, dù muốn hay không, Việt Nam
cũng cố tìm cách tháo gỡ các thế trận do Trung Quốc bày ra. Từ một hai năm nay,
thế trận của Việt Nam càng ngày càng lộ rõ. Có thể tóm tắt thế trận ấy thành
hai điểm chính: Một, tìm cách dập tắt các sự phẫn nộ của dân chúng, để, một
phần, khỏi làm phiền lòng Trung Quốc; phần khác, khỏi dẫn đến việc phê phán, đả
kích, và từ đó, chống đối lại chính quyền Việt Nam. Hai, tìm cách thoát khỏi
thế đứng cô lập và yếu ớt trong cuộc đương đầu với Trung Quốc.
Ngày trước, trong cuộc chiến tranh với Mỹ, miền Bắc có đến
bốn đồng minh lớn: Trung Quốc, Liên Xô, khối Đông Âu và một số quốc gia trung
lập (trong đó, nổi bật nhất là Ấn Độ). Sau, trong cuộc chiến tranh với Cam Bốt
và Trung Quốc vào những năm 1978 và 1979, Việt Nam cũng nhận được sự giúp đỡ
tận tình của Liên Xô và Đông Âu. Còn bây giờ, đối diện với Trung Quốc lần này,
họ hoàn toàn cô đơn. Dù là thành viên của khối ASEAN, Việt Nam cũng không thể
sử dụng sức mạnh của các nước Đông Nam Á được, một phần vì một số nước, kể cả
Campuchia, nước láng giềng và thân cận nhất của Việt Nam, sẵn sàng theo hùa với
Trung Quốc hơn là ủng hộ Việt Nam; phần khác, hầu hết đều sợ Trung Quốc: Không
ai muốn đụng đến Trung Quốc nếu Trung Quốc không thực sự xâm phạm hay uy hiếp
họ.
Thành ra, để tránh thế cô lập, Việt Nam phải tìm đồng minh ở
những nơi khác.
Hầu như ai cũng biết đồng minh duy nhất có thể giúp Việt Nam
trong cuộc đối đầu với Trung Quốc không có ai khác ngoài Mỹ. Chỉ có Mỹ mới đủ
sức mạnh và động cơ để làm được điều đó. Nhưng quan hệ với Mỹ, dù có ít nhiều
tiến triển trong những năm vừa qua, hoàn toàn chưa đủ để làm hai nước trở thành
đồng minh của nhau. Thứ nhất là do thiếu niềm tin. Như là một di sản nặng nề
của quá khứ xung đột kéo dài cả nửa thế kỷ, Việt Nam không tin Mỹ, và ngược
lại, Mỹ cũng chả tin gì Việt Nam. Thứ hai, giữa hai nước chưa có những điểm
chung cần thiết để xây đắp một tình hữu nghị vững chắc. Về kinh tế: chưa có và
có lẽ sẽ không bao giờ có. Mối lợi của Mỹ đến từ Việt Nam chắc chắn không thể
sánh được với những gì đến từ Trung Quốc, một nước đông dân gấp mười mấy lần
Việt Nam.
Nhưng sự khác biệt quan trọng nhất là các niềm tin và bảng giá trị
được xã hội chấp nhận: người Mỹ, từ chính quyền đến Quốc Hội và dân chúng, luôn
luôn phê phán Việt Nam về các chính sách phi dân chủ và chà đạp lên nhân quyền.
Sự phê phán từ phía chính quyền có thể chỉ là những lời nói suông; nhưng sự phê
phán từ phía dân chúng thì lại là sức mạnh: nó chi phối lá phiếu của họ trong
các cuộc bầu cử. Lời nói suông của chính quyền, do đó, một lúc nào đó, dù muốn
hay không cũng thành sự thực. Cuối cùng, Trung Quốc sẽ không bao giờ cho phép
quan hệ đồng minh giữa Việt Nam và Mỹ biến thành thực tế. Họ sẽ chống đối đến
cùng, và nếu cần, có thể tấn công Việt Nam trước khi Việt Nam và Mỹ chính thức
bắt tay với nhau. Bởi vậy, ở đây có một nghịch lý: Việt Nam chỉ có thể được bảo
vệ bởi Mỹ; nhưng bất cứ dấu hiệu khơi mào cho sự bảo vệ ấy đều sẽ châm ngòi cho
một cuộc chiến tranh mà Việt Nam không thể thắng được với Trung Quốc.
Không thể đi với Mỹ, Việt Nam chỉ còn một lựa chọn duy nhất:
liên minh với một số cường quốc hạng trung trong khu vực. Cho đến nay, ba nước
được Việt Nam lựa chọn liên kết là: Nhật Bản, Ấn Độ và Úc.
Quan hệ giữa Việt Nam với Nhật Bản và nhất là với Ấn Độ đã
có từ lâu, nhưng kể từ sau năm 1975, phần lớn chỉ giới hạn trong phạm vi kinh
tế. Gần đây, từ chuyện kinh tế, các bên dần dần đi đến những sự hợp tác mang ý
nghĩa chính trị, đặc biệt qua hiệp ước khai thác dầu khí trên Biển Đông giữa
Việt Nam và Ấn Độ: Đó là vùng đang tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các
quan chức trong Bộ quốc phòng Việt Nam cũng lần lượt đến thăm Ấn Độ để bàn về
các dự án hợp tác song phương trong lãnh vực quốc phòng, trong đó, Ấn Độ nhận
trách nhiệm giúp trang bị vũ khí và thiết bị cho ngành hải quân Việt Nam, rèn
luyện cán bộ quân sự trong hai kỹ năng chính: tiếng Anh và tin học. Hai bên
cũng bàn đến các cuộc tập huấn chung.
Đáng kể nhất là quan hệ giữa Việt Nam và Úc: Một cuộc thảo
luận chiến lược đầu tiên về các vấn đề ngoại giao và quốc phòng cấp thứ trưởng
đã được tổ chức vào cuối tháng 2 vừa qua. Một số hiệp ước song phương cũng đã
được ký kết. Trước mắt, Úc đang và sẽ giúp huấn luyện giới chức quân sự Việt
Nam. Giới quan sát quốc tế hy vọng mối quan hệ giữa hai nước sẽ càng ngày càng
sâu đậm và cụ thể.
Người ta không thể không tự hỏi: Tại sao Việt Nam lại chọn
các cường quốc hạng trung như vậy làm liên minh chiến lược?
Trong bài “Vietnam Eyes Middle Powers”, đăng trên báo The
Diplomat ngày 5 tháng 3 năm 2012, Le Hong Hiep giải thích: chọn các đối
tác như vậy, Việt Nam sẽ tránh được những phản ứng nhạy cảm của Trung Quốc.
Trung Quốc chỉ sợ Mỹ và chỉ muốn Việt Nam đứng xa Mỹ. Nhưng họ không thể ra mặt
ngăn chận các quan hệ giữa Việt Nam với các nước khác. Hơn nữa, qua các nước
trong khu vực, hầu hết là các đồng minh chiến lược của Mỹ, Việt Nam có thể
tranh thủ được sự giúp đỡ của Mỹ trong hoàn cảnh Việt Nam phải lâm vào thế đối
đầu với Trung Quốc.
Có thể nói, chiến lược của Việt Nam là cầu cạnh sự giúp đỡ
của Mỹ. Nhưng phải đi qua một con đường vòng.
Một con đường vòng rất xa. Và có thể sẽ không bao giờ tới.