Có một dạo, tuần báo  Sài Gòn Nhỏ (Little Sàigòn), Nam Cali có gây scandal người tù Nguyễn Chí  Thiện đang ở Mỹ là “giả mạo”. Đã có 1 số đông bác bỏ lập luận này. Trong bài viết “Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện”, tác giả Vũ Triều Nghi viết kể lại mọi chuyện rất mạch lạc và cảm động. Đây cũng là thêm bằng cớ rằng, chỉ có một Nguyễn Chí Thiện mà thôi, chứ không phải theo luận cứ “Nguyễn Chí Thiện thật đã chết trong tù, còn Nguyễn Chí Thiện hiện tại là đội lốt giả danh”.
.....................................................
Vận  nước nổi trôi, dòng đời nào khác chi giông bão cùng với nghiệt ngã của  chiến tranh, những bất hạnh dồn dập đến với gia đình chúng tôi.
1945, cậu em trai tôi chào đời  vào năm đói Ất Dậu. Bố Vũ Thế Hùng bị Việt Minh bắt. Mẹ tôi, nào khác  hạt bụi giữa cuồng phong, bỗng một sớm một chiều chấp nhận lầm than, tảo  tần, buôn thúng bán bưng, vất vả đi theo nuôi bố qua bao nhiêu trại tù.  Sau này bố tôi tâm sự “không có mẹ thì bố mất xác đã lâu, còn đâu tới  ngày hôm nay mà gặp các con nữa”.
Không liên hệ gia đình, không là bạn tù, có lẽ mẹ tôi là người biết về Nguyễn Chí Thiện sớm nhất là vì vậy.
Ba anh em chúng tôi lớn lên bằng  tài chánh eo hẹp, lần lượt cô dì này đến chú bác khác cưu mang. Ôi,  những ngày vàng son thuở ấy, một “giấc Nam Kha khá bất bình…”. Năm người  trong gia đình chúng tôi, mỗi người một ngả, thậm chí hơn cả nửa thế kỷ  rồi mà cũng hiếm khi xum họp dưới một mái nhà kể từ khi “đất bằng dậy  sóng” 1945. Ông anh huynh trưởng của tôi, năm 5 tuổi đã nhập học trường  Dòng, anh lớn đi theo tiếng Chúa gọi, nay trở thành Linh mục Mathieu Vũ  Khởi Phụng của biến cố Giáo Xứ Thái Hà, Hà Nội, mà gần đây báo chí đã  tốn khá nhiều giấy mực viết về anh.
Ngày em đi, anh niềm vui Chủng viện,
Buổi em về Linh mục đã phong sương!! 
Nỗi đau còn hằn mãi trong tâm  tưởng, tôi đâu ngờ rằng cậu em trai duy nhất của tôi, một ngày tháng Tư  1975, lại nối gót bố 30 năm xưa cùng với Sài Gòn hấp hối, em tôi trở  thành người tù cải tạo với gần 8 năm dài bóc lịch!
Tôi ư? Một cánh bèo trôi dạt mãi  trên sông, hay phận mình là áng mây phiêu bạt, để rồi, rời quê hương  thật sớm, bỏ lại cậu em trai dãi nắng dầm sương trong quân ngũ, bỏ lại  bố mẹ già ở miền Bắc xa xôi, tôi đâu còn nhớ mặt, ngày ly tan tôi mới  hai tuổi đầu. Bấy giờ một mình vượt Thái Bình Dương :
Đất Mỹ,
Trời Âu xa lắm
Nơi rừng sâu
Người cha rầu rầu
Thường đem ảnh con mình ra ngắm 
Thi sỹ Nguyễn Chí Thiện
Đó là những dòng thơ Nguyễn Chí  Thiện diễn tả về tôi khi thấy bố già ngắm hình đứa con gái. Anh làm quen  với tên T.N. từ đấy, bởi đó là niềm vui của bố và của một anh tù thuở  “mắt trũng chân phù” trong trại tù Phong Quang.
Đất Mỹ, trời Âu xa lắm, nổi trôi  mãi chẳng ngừng. Đây những ngày xuân xa xứ, hồn tả tơi tựa những cánh  hoa đào rơi lả chả bên dòng Potomac đẫm rong rêu! Đây trời Arlington  buốt giá, đôi bờ tuyết phủ. Từ mùa hạ Chicago nắng cháy đỏ da, tôi trôi  dạt về chiều El Paso mưa buồn xót mắt. Cứ thế tôi đã đánh mất bao nhiêu  mùa xuân trong đời, rồi tôi dừng lại đây với hơn 18 mùa sương phủ trên  chiếc cầu lạnh giá Cựu Kim Sơn. Để rồi “xin nhận nơi này làm quê hương”.  Một ngày tỉnh mộng nghe tim mình ray rứt thương về mảnh đất hình chữ S.  Mùa xuân 1992, tôi trở về cố quận.
Lòng như cơn bão, giữa rừng  người đứng ở phi trường Tân Sơn Nhất kia, có bố mẹ già còm cõi mà gần  nửa thế kỷ tôi mới được tái ngộ. Có ông anh trịnh trọng trong bộ áo  Dòng, có cậu em trai gầy gò răng rụng, với mái tóc bạc màu tù cải tạo.
Bố đón tôi bằng dòng nước mắt  lăn dài trên khuôn mặt hom hem, bàn tay gầy guộc đặt trên vai tôi. Bố  hỏi “Con có nghe câu thơ này chưa”? Rồi bố đọc chậm rãi :
Thân không trời đất mà mưa gió
Lòng chẳng gươm đao cũng chiến trường 
Thế đó! Là phút giây hội ngộ của gia đình chúng tôi lần đầu tiên trong đời, đủ được 5 người.
Tôi xa Hà Nội không phải “năm em  mười tám khi vừa biết yêu” mà là khi cô bé 11 tuổi phải rời trường  Saint Paul, nay rất gần Tòa Khâm Sứ. Tuổi thơ tôi di cư vào Nam với bao  nỗi nhọc nhằn. Bây giờ Hà Nội xưa của tôi hiện ra trước mắt, sao bỗng  dưng tôi nghe vị mặn ở bờ môi. Một Hà Nội đưa tôi vào lạc lõng, một Hà  Nội của Trịnh Công Sơn với cây cơm nguội vàng và hồn tôi ngỡ ngàng xa  lạ. Tôi đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác khi đặt chân lên thềm  nhà của bố mẹ. Căn nhà nhỏ mốc meo rêu với mùi ẩm mốc khó chịu. Tất cả  hiện ra cảnh nghèo khó tới rợn người. Thế mà bố mẹ tôi hân hoan ra mặt.  Bố cười bảo tôi:
“Con ở ngoại quốc về chắc  thấy chỗ này ghê rợn lắm. Từ ở tù ra gần cả chục năm rồi, bố mẹ sống đạm  bạc đã quen, nhà thờ Hàm Long ngay đầu phố, tiện lắm. Bố muốn con hiểu  rằng, căn nhà nghèo khó này đã từng tiếp đón những người bạn trí thức  tuyệt luân, lại đầy nhân ái và tình người. Bố mẹ yêu những người ấy như  ruột thịt. Con sẽ lần lượt gặp họ, ai cũng muốn gặp con đấy, vì bố đã  nói nhiều về con trong những năm tháng tù đày. Này nhé, nhiều tên tuổi  lừng danh con nên kính phục -Phùng Cung, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang,  Nguyễn Chí Thiện và còn nhiều nữa trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, con có  nghe tên họ chưa”?
* Nghe thì nghe nhiều rồi đó,  nhưng chả bao giờ tôi lại nghĩ rằng, mình may mắn gặp được những nhân  tài này. Rồi bố giới thiệu: Nguyễn Chí Thiện, người bạn tù lâu năm,  người bạn vong niên của bố.
Tôi quan sát anh, định cất tiếng  chào “Thưa chú”… nhưng anh gạt đi -”Gọi bằng anh nhé. Chị quên là tôi  gọi bác là bác kia mà, tôi không lớn hơn chị lắm đâu”. Tôi ngồi lắng  nghe bố đọc thơ anh làu làu, rồi hai người say sưa luận bàn thơ phú. Tôi  không quen với thể thơ của Nguyễn Chí Thiện, nên im lặng nghe bố kể:
“Con chưa biết nó đâu, dáng dấp  lừng khừng là thế, lại gầy ốm tong teo như cây sậy, mà can đảm không  lường, bố phục nó, dám một mình vào sứ quán Anh bất chấp nguy hiểm, miễn  sao thơ nó được lọt ra nước ngoài. Còn ở trong tù mà nó dám làm thơ có  thể chết người con ạ. Trong tù, đứa nào cũng đói rã ruột, thế mà đứa nào  cũng tử tế với bố, nhường từng miếng khoai sùng, sắn sượng cho bố vì  thấy bố già nua. Chúng nó là những anh hùng bất chấp gian nan, bố phục  lắm”.
Rồi bố cười: T.N. là đề tài cho  Thiện nó làm thơ đấy. Tôi bắt đầu có chút cảm tình với anh, bỗng anh  ngập ngừng hỏi tôi : “Muốn nhờ chị một điều, không biết chị có nhận lời  không”? Tôi e ngại -”Anh cứ nói”.
“Chị có thể đem tập thơ của tôi ra ngoại quốc được không ? Ít bài thôi”.
Tôi chưa biết trả lời ra sao thì  anh lại tiếp: “Gặp bác và chị thế này, ngoài kia khối con mắt dòm ngó  đấy, nhưng tôi ở tù quen rồi, nên cóc sợ”.
Câu nói của anh làm tôi hoảng  vía, bởi năm 1992 nào phải như bây giờ, bất trắc nào cũng có thể xảy ra,  nên tôi thẳng thắn từ chối :
“Thôi anh ạ, đừng buồn nhé. TN. không dám đem đâu. Xin cho em hai chữ bình an để trở về Mỹ trót lọt”.
Một thoáng thất vọng trong mắt anh : “Thôi, thế này, Trần Nhu chắc là có tập thơ của tôi đấy, chị hỏi hộ ông ấy nhận được chưa”?
 “Vâng, chuyện đó thì được”.
Người kế tiếp tôi gặp là Phùng  Cung, tôi đọc được chút gì trìu mến cho tôi nơi anh. Bằng một mẩu giấy  màu vàng nhàu nát, anh ứng khẩu rồi viết luôn:
Bé Triều Nghi, bé Triều Nghi,
Mắt cười, đọng vẻ phân kỳ ngày xưa. 
Mẩu giấy đó tôi còn giữ mãi.
Người bạn kế tiếp của bố là Nguyễn Hữu Đang. Ông không làm thơ tặng tôi, chỉ bắt tay tôi cười khan rồi nằm dài chửi đổng chế độ.
Ngày từ biệt bố mẹ trở lại Mỹ, bố nhắn với theo:
“Nguyễn Chí Thiện khá lắm. Thằng ấy khí khái anh hùng, con giúp được gì cho nó thì làm, nó hết lòng với bố trong tù đấy”.
Trở về Mỹ, cộng đồng Việt Nam ở  hải ngoại bắt đầu quyên góp để yểm trợ cho anh và tôi thường xuyên có  mặt. Thời gian thấm thoắt, có lẽ thơ anh bắt đầu có tiếng vang bên trời  Âu. Năm anh đến bến bờ tự do, cộng đồng Việt khắp nơi đón rước anh, tên  anh nổi như cồn qua hàng loạt bài diễn văn. Tôi mừng thầm.
Nguyễn Chí Thiện nay đã nổi  tiếng, và tôi tự nhủ: Chắc anh đã quên tôi. Thật cảm động, tôi nghĩ lầm  về anh, cú điện thoại đầu tiên vồn vã: -“T.N. đấy ạ, Thiện đây ! Nhờ  thưa với bác, Thiện tới Mỹ bằng an nhé”!
Một niềm vui lớn lao cho tôi khi  thấy anh toại nguyện. Tôi cười, mừng anh, đồng thời nhắn rằng, T.N. sẽ  không có mặt trong những buổi diễn thuyết của anh, bởi tôi không thích  đám đông và không làm chính trị. Từ đó, mỗi lần về Bắc Cali, dù không  gặp nhau thì vẫn là những lời thăm hỏi chí tình.
Nguyễn Chí Thiện, mỗi lần gặp  anh là tôi mường tượng ra lần đầu hội ngộ với anh, với bố già trong căn  nhà nghèo khó ở Hà Nội, và tôi đã từng khuyên anh “cẩn thận nhé. Nay anh  làm dâu trăm họ rồi đấy”, vào năm 95 khi vừa đặt chân trên đất Mỹ.
Nay thì câu nói ấy đã hiệu  nghiệm. Ở một nơi tự do ngôn luận, tự do báo chí trên mảnh đất quá nhiều  tự do này. Tôi biết rằng anh đang gặp dữ nhiều, lành ít. Tôi từ chối  không đọc những bài báo nói không trúng về anh. Hôm qua tình cờ gặp một  nhà thơ cao tuổi, bác Hà Thượng Nhân, bác bảo: “Sao cô không lên tiếng  cho Nguyễn Chí Thiện”. Tôi thiết nghĩ, tôi lên tiếng là đã quá thừa, bởi  nhà văn Phan Nhật Nam, giáo sư Jean Leaby đã viết quá đầy đủ về anh  rồi. Sự thật vẫn là sự thật. Anh Thiện ơi, càng cao danh vọng càng dày  gian nan ! Thôi thì, đó cũng là định luật sống.
Viết những dòng này cho anh, bố  già nay đã miên viễn, Nguyễn Hữu Đang cũng vô thường, mà Phùng Cung thì  đã “hạt bụi nào hóa kiếp thân anh”. Chỉ còn lại một Nguyễn Chí Thiện ở  tuổi hoàng hôn, thế mà cây muốn lặng sao gió không ngừng. T.N. nhớ mãi  lời bố khi giới thiệu anh “Thằng ấy khí khái, anh hùng, con có dịp hãy  đọc thơ nó, bố phục nó lắm”.
Đấy, lời một người bạn tù nằm  xuống chắc đã làm anh vui. Viết những dòng này gửi tới anh khi ngọn gió  đầu đông đón chào mùa xuân trên đất Mỹ, tôi thấy thương bố V.T.H. vô  cùng, thương những người chiến sĩ chiến đấu bằng ngòi bút cho lý tưởng  tự do, trong đó có anh Nguyễn Chí Thiện.
Ta đau trời Phong Quang
Ta giận tràn Vĩnh Phú
Oán hờn một thuở Lao Kai
Từ ta lưu lạc dấu giày
Lời thơ phẫn nộ vẫn say sắc thù
Thương ai ngưỡng cửa ngục tù
Xác thân nghiệt ngã đời hư ảo đời 
Những dòng thơ này xuất phát tự  đáy lòng tôi gửi tới bố V.T.H. và các anh cùng chung chí hướng. Tôi nợ  anh một lời tạ lỗi năm nào đã không dám đưa thơ anh đi. Tôi nợ anh bao  ân tình cho miếng khoai mẩu sắn anh nhường cho bố tôi dạo ấy. Mùa xuân  này xin anh nhận nơi tôi một đóa hồng cho người tôi ngưỡng mộ : nhà thơ  Nguyễn Chí Thiện, người bạn vong niên của bố tôi mà sinh thời, bố từng  thán phục và mến thương.
Tác giả: Triều Nghi (bài do một thân hữu gửi tới)
————————————————
Và sau đây là bài thơ Nguyễn Chí Thiện viết tại trại tù Phong Quang: Bóng Hồng Dương Thế:
BÓNG HỒNG DƯƠNG THẾ
(Tặng Triều Nghi)
Có người thiếu nữ mắt bồ câu
Lưu lạc, ly hương từ độ xuân thì
Đất Mỹ, trời Âu xa lắm
Nơi rừng sâu
Người cha rầu rầu
Thường đem ảnh con mình ra ngắm
Đêm tù
Âm khí âm u
Những chàng trai mắt trũng chân phù
Thơ thẩn cầm nàng trong tay
Cầm cả mùa xuân hạnh phúc
Bóng hồng dương thế xa bay.
NGUYỄN CHÍ THIỆN
 
