| 
 Mạc Thiên
 Một phần tư thế kỷ đã trôi qua, kể từ cái ngày  đau đớn ấy. Chẳng một ai sung sướng gì khi nhớ lại, nhắc lại một quá khứ cùng  cực, đắng cay, những nhục hình đày đọa. Có ích gì để nuôi dưỡng mãi trong lòng  một nỗi hận thù vô vọng. Những hận thù đốt cháy lòng ta, những mũi dao đâm thấu  suốt trái tim cùng khổ, để mắt trừng lên uất nghẹn, nhận chìm ta trong oán hờn  quay quắt phận người.
 
 " Đem yêu thương vào nơi oán thù... Đem thứ tha vào  nơi lăng nhục..."
 
 Ôi, lạy Chúa, thật vậy sao?
 
 "Lạy Chúa là cha cả  chí nhân
 Bởi chưng lòng Chúa rộng muôn phần
 Và con cũng bởi lòng yêu  mến
 Yêu mến nên con mới oán hờn!"
 
 Vâng, thì con cũng muốn quên đi,  quên đi hết, nhưng có những điều không thể, những điều mãi nhớ, bởi vì những  điều được nhắc lại, nhớ lại... nó như những niềm - vui - đau - xót, như một chút  an ủi của những đằng đẳng, tối tăm trong những tháng năm nghiệt ngã - để trong  quá khứ mênh mông nhục hình kia còn le lói một vài ánh lửa nồng ấm.
 
 Những  dòng chữ tiếp nối sau đây không hẳn là những trang hồi ký mà chỉ là một chùm ký  ức thế thôi! Một chùm ký ức bất chợt của những đoạn đời không tiếp  nối...
 
 ... Chiếc tầu Sông Hương đưa chúng tôi ra Bắc vào nửa đêm ngày  19/06/1976, với lối 6,700 người lúc nhúc trong hầm tối của khoang tàu. Không một  ai nghĩ rằng chúng tôi đang được chuyển ra Bắc, chỉ đến khoảng 8,9 giờ sáng hôm  sau, khi thấy mặt trời nằm bên tay phải, lúc đó mới biết rằng chúng tôi đang  trực chỉ phương Bắc.
 
 Bữa ăn của chúng tôi là những phiến lương khô của  Trung Quốc được ném xuống từ trên boong tàu, cả nước uống cũng được chuyển xuống  bằng ống cao xu. Cuộc sống gom lại trong bốn khoang tàu chật hẹp. Ở một góc  khuất, tôi nhìn thấy anh Thanh Tâm Tuyền đang ngồi bó gối tư lự, không ai muốn  nói chuyện với ai, tất cả đang đắm chìm trong những riêng tư. Sau này tôi mới  biết một số anh em bên Lôi Hổ, bên 81 Biệt Kích Dù mưu toan đánh cướp con tàu.  Linh mục Nguyễn Quốc Túy nói lại với tôi về việc đó, nhưng nếu điều ấy xẩy ra,  (và bất thành) chắc có lẽ chúng tôi chẳng một ai sống sót.
 
 Chiều xuống,  tối ngày 23/6/76, tàu cập bến Sáu Kho. Chiếc thang giây được đưa xuống, mọi  người rời rã leo lên trước những họng súng dày đặc ở chung quanh. Trước mặt  chúng tôi là thành phố Hải Phòng lác đác những ánh điện vàng võ. Cũng tại nơi  này, tháng 4/1955, tôi đã nhảy xuống dòng sông bơi theo chiếc LST 28 vừa rời  khỏi bến, chiếc tàu cuối cùng đưa những người di cư cuối cùng rời khỏi miền Bắc.  Tôi là người trèo lên tàu cuối cùng của chuyến cuối cùng ấy. Hai mươi mốt năm  sau, tôi trở lại nơi này trong thân phận một người tù. "Là tù mà chẳng được xưng  là tù" như một câu thơ trong "Long Giao Ngâm" của anh Dương Tử Dương Văn Đệ.  Thành phố tiêu điều, hoang vắng hơn 21 năm trước khi tôi rời bỏ nó.
 
 Phía  sau lưng tôi là dòng sông rộng với những chiếc thuyền buồm đảo qua, đảo lại. Có  những con mắt núp lén đang tò mò quan sát chúng tôi từ phía sau cánh buồm của  con thuyền, khiến những bộ đội áp tải phải quơ súng hăm dọa họ mới lảng dần đi.  Người cán bộ, chiếc nón cối và ngôi sao vàng, đứng trên bục cao quát vọng  xuống:
 
 "Các anh đang ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp, đảng và nhân  dân tạo điều kiện để các anh học tập cải tạo tiến bộ thành người lương  thiện..."
 
 Tôi đưa mắt nhìn sang bên kia bờ sông đã phảng phất bóng tối,  nghĩ thầm "đảng và nhân dân, vậy đảng khác, nhân dân khác, đảng không phải là  nhân dân, vậy đảng là gì?..." Tôi mỉm cười với ý nghĩ ngộ nghĩnh trong óc. Tiến  nhìn tôi ngơ ngác hỏi ?: " Cậu cười gì vậy?"
 
 Tôi nhìn thân thể gầy gò của  Tiến đang nằm trên một tấm ván làm băng ca vừa chuyển lên. Tiến bị thương nặng,  nát bấy một chân và một cánh tay, thân thể đầy thương tích, vẻ mặt đầy âu lo và  đau đớn. Tiến bị thương do một trái lựu đạn liệng vào trong "lán" làm một số  chết, một số bị thương, trong đó có Tiến, lại được may mắn được đảng và nhân dân  "ưu ái tạo điều kiện đưa ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp" để tiếp tục cải  tạo. Tôi nhìn Tiến ái ngại...
 
 (Tiến là trưởng khối CTCT của TTHL/ Phù  Cát, Bình Định....Ôi Tiến, giờ này cậu còn sống... không? Nếu có phép mầu nào mà  cậu còn sống ra được nước ngoài, xin liên lạc về tòa soạn...)
 
 "Gắng mà  cười Tiến ạ! Còn cười được thì cứ cười."
 Tiến nhếch môi héo úa và nụ cười méo  xệch, nước mắt lả chả không che dấu được....
 
 ***
 
 Chúng tôi lần lượt rời con tàu Sông Hương. Những  họng súng vây quanh. Một "ông" bộ đội còn rất trẻ, quát lớn:
 
 "Tù hàng  binh! Chúng mày nghe rõ không? Tập trung lại!"
 
 (Ôi, anh Dương Tử, anh  nghe rõ không? Điều anh khao khát một chính danh đã được cậu bé bộ đội quát lên  rồi đấy! Ít ra cậu bé bộ đội kia cũng còn có lần nói thật, phải không  anh?)
 
 Sáng ngày hôm sau, 25/6/76, chúng tôi được dồn lên toa xe lửa chở  súc vật và hàng hóa, tất cả đều bít kín dưới cái nắng chang chang của trời miền  Bắc tháng 6. Tàu đến Yên Bái vào buổi chiều, 1/4 số người bất tỉnh được khiêng  ra, một vài người đã chết.
 
 Chúng tôi được đón tiếp rất "long trọng".  Những nhà bạt bằng vải trắng đã được dựng lên, y tá và bác sĩ, áo blou trắng,  ống nghe và những lọ thuốc được bày ra, và nào là quay phim, nào là chụp ảnh lều  bạt, y tá, bác sĩ và những lọ thuốc trống không, bày ra rồi dẹp đi mau chóng.  Tôi nói ? với Đào Quốc Đương và Hoàng Minh Tiến (không phải Tiến CTCT):
 
 "  Cao cả thay lòng nhân ái của đảng!"
 
 Khi lều trại y tế được dẹp bỏ, rồi  thì một đoàn thiếu niên và dân chúng tiếp đón chúng tôi. Những thiếu nữ thắt  giây lưng, quấn "xà cạp" lăm lăm những khẩu CKC chắn giữa chúng tôi và dân  chúng. Một trận mưa đá đổ lên đầu chúng tôi. Một viên đá ? từ tay một thiếu nữ  ném trúng vào người tôi. Tôi nhìn cô bé, hỏi nhẹ:
 
 "Sao lại ném nhẹ thế!  Phải căm thù mạnh hơn lên mới được, cô bé ạ!"
 
 Cô bé liếc nhìn quanh, nhìn  tôi, cúi đầu nói :
 
 "Cháu xin lỗi! Cháu không muốn thế!"
 
 Cô bé lấy  tay lau nhẹ ngấn nước mắt, len lén lẫn vào đám đông.
 
 Tôi thầm nghĩ: "Cám  ơn cô bé, cô đã cho tôi một trong những điều nhớ mãi..."
 
 Tôi nhìn qua  Tiến, bỗng chợt thấy vẻ cương cường trong khóe mắt Tiến bừng lên, môi Tiến vo  lại huýt một điệu sáo nhẹ theo điệu nhạc..."Ta như nước dâng... dâng ngập có bao  giờ cạn...", và một cán bộ Việt cộng quắc mắt nhìn Tiến, hằn giọng: "Anh kia!  Vui lắm hả?!"
 
 Tiến mỉm cười:
 "Dạ vui!"
 
 Y bực bội quay đi, lẩm  bẩm:
 "Vui... vui con mẹ chúng mày!"
 
 Tiến bảo Đương và tôi:
 "Chúng  muốn đày đọa ta đau khổ, ta không đau khổ, tất nhiên chúng đau khổ! Mày thấy  không?!"
 
 Ngay chiều hôm ấy, chúng tôi đến Bến Ô Lâu. Không hiểu sao tôi  hình dung ra một dòng sông trôi lều bều những chiếc đầu lâu đen xỉn vì nhiễm  độc. Một cụ già khoảng trên 80 tuổi chở đò ngang trên bến sông cột thuyền gần  chỗ chiếc phà đưa chúng tôi sang sông, ái ngại nhìn chúng tôi, nói bâng  quơ:
 
 "Thêm một đoàn tù nữa đi qua đây, bao nhiêu lần đi mà chưa thấy có  người nào trở lại!"
 
 (Về sau này, chúng tôi chuyển trại từ vùng núi rừng  Yên Trấn, Xuân Hồng về Thác Bà, lại đi ngang qua bến phà này, tôi gặp lại cụ già  lần trước. Lần này chúng tôi qua sông bằng những con đò ngang, và ngay trên con  đò bé của cụ. Đôi mắt cụ già ánh lên niềm vui, nói:
 
 "Năm nay lão đã 84  tuổi, chở đò ngang đã 71 năm. Có rất nhiều đoàn tù vượt bến Ô Lâu mà chẳng thấy  một ai trở lại. Núi rừng Việt Bắc thâm u, độc địa lắm, nuốt hết cả! Lần dầu tiên  lão thấy được đoàn tù trở về. Các ông hồng phúc lắm!")
 
 Chúng tôi sang  phà, bên kia sông là một đoàn Molotova chờ đón và mang chúng tôi phân tán vào  núi rừng Việt Bắc, bắt đầu những tháng ngày rét mướt, gian lao, đói khổ, nhục  hình...
 
 Ta dừng chân nơi này
 Núi cao ngửa cổ hát
 Xá chi đời lất  lây
 Môi cười chia tiếng khóc
 
 Ta dừng chân nơi này
 Trăm năm nào xá  kể
 Mây buồn ngang đỉnh cây
 Trôi theo đời bóng xế...
 
 ***
 
 Chúng tôi được đưa đến Trại 4 Xuân Hồng thuộc  đoàn 776 quản lý vào lúc trời đã khuya. Đêm đầu tiên nghe tiếng vượn hú, và sáng  sớm hôm sau, nghe tiếng chim "bắt cô trói cột", không hẹn mà mọi người trong  chúng tôi đều đổi thành "khó khăn khắc phục".
 
 Tổ chúng tôi gồm Linh Mục  Nguyễn Quốc Túy, Linh Mục Lai Chư Khanh, và các anh Đào Quốc Đương, Hoàng Minh  Tiến, Nguyễn Duy Côn, Nguyễn Văn Quý, Hồ Văn Hòa, Luyện, Hiếu và tôi. Đó là tổ  duy nhất không chia phần ăn. Bữa cơm đầu tiên là một rá bắp xay và chén nước  muối. Mỗi người được hai chén lưng, và hết hai chén lưng thì tự ý ngưng lại. Vậy  mà lần nào cũng dư một chén cơm trong rá. Đương cao lớn, nên với hai lưng chén,  giống như muối bỏ bể, nhưng Đương nhất định không chịu ăn chín cơm còn dư. Làm  sao mà "dư" được, đó là chén của cha Khanh để lại nhường cho Đương. Cha nói dối  là no không ăn thêm được.
 
 (Ôi Chúa, Chúa ở trên cao xanh kia có bắt tội  vị linh mục nói dối ấy không? Ước gì tôi bắt chước được cái tội nói dối ấy! Bây  giờ cha đã về với Chúa, cha có còn nhớ cha đã phạm bao nhiêu lần nói dối như  thế?!)
 
 Hàng ngày, chúng tôi chia nhau làm công việc của tổ để thay cha  Khanh ốm yếu ở nhà. Cha Khanh lẩn thẩn nhặt rau rệu, đọt sắn, rau sam... lén lút  nấu nồi canh đợi chúng tôi về. Có lần, rau dền gai, rau tàu bay, rau cải trời  nấu chung cay xộc lên mũi mà vẫn thấy vô cùng ngon, ngon vô cùng mà ứa nước mắt.  Thấy chúng tôi đoàn kết, một hôm đi làm trở về thì thấy Cha Khanh và Cha Túy đã  được chuyển đi lên Trại 10, và anh em chúng tôi thì bị phân tán mỗi người một  tổ. Mấy hôm sau, khoảng 80 người chuyển từ Cần Thơ ra, tôi thoáng thấy thiếu tá  Hinh (Anh Thảo Trường). Thấy anh nhưng không được lại gần, vì bị cấm tiếp xúc.  Tôi nhớ một lần, đi lấy nước, phải qua trại 6, trại 12, tôi gặp Phan Nhật Nam và  Chinh Yên, tay cầm dao, túi quần nhét chiếc găng tay bảo hộ lao động tự chế,  dáng vẫn nghênh ngang, vẫn đùa cợt. Ôi, công tử Lục Tỉnh phiêu lưu ký. Công tử  Lục Tỉnh là chữ của Phan Nhật Nam, còn Chinh Yên mệt mỏi lết phía sau. Dường như  Chinh Yên đã chết ngày ấy...!
 
 Mấy hôm nay trời rét giá, nhiệt độ xuống  dưới hai độ, cái lạnh nhức buốt như kim châm, bào xé thịt da. Gió bấc vật vã  trên sườn núi, cuộn sóng trên mặt hồ bốc khói sương.
 Tấm chăn đơn mỏng và căn  trại giò lùa, không tài nào ngủ được, chúng tôi xúm xít lại với nhau, tựa vào  nhau ngủ ngồi quanh đống lửa. Anh Lê Văn Chương (thiếu tá cảnh sát) đã chết  chiều hôm trước. Cái đói kèm theo cái lạnh khắc nghiệt đến tận cùng.
 
 Thế  nhưng, dẫu trời mưa gió lạnh giá, vẫn không một ngày nghỉ, kể cả ngày Chúa nhật.  Mỗi người phải lấy 1m3 củi cho nhà bếp, đêm đến phải học tập, sinh hoạt, phê  bình, kiểm điểm, bới móc đủ điều. Tiêu chuẩn ăn chỉ còn 9 ký gạo mỗi tháng, song  lại đổi thành sắn tươi, 1 gạo 5 sắn, mỗi ngày chia ra 1,5 kg sắn tươi, chưa bóc  vỏ. Toán nhà bếp xin trại cho đi cải thiện rau rừng để có thêm rau xanh cho bữa  ăn. Rau tàu bay, rau cải trời, lá sắn... đem về nộp cho trại, trại bán lại cho  trại viên 50 xu mỗi ký, trừ béng vào tiền vệ sinh hàng tháng là 3  đồng.
 
 Rau tàu bay cay xé miệng, nước mắt, nước mũi ràn rụa, không biết có  phải cay vì cải trời?
 Cán bộ quản giáo Đội 5 Đặng Quang Ba nói rít qua hàm  răng:
 - Các anh không biết à! 4 ký lá sắn có chất dinh dưỡng bằng một cân  thịt bò!
 
 Đào Quốc Đương ghé sát vào tai tôi nói nhỏ:
 - Thịt bò lăn,  thịt bò càng!
 
 Sương Biên Thùy làm bài thơ ca ngợi sắn, tôi không nhớ được  hết, nhưng đại khái như sau:
 
 Hãy cuốc xuống thật sâu
 Hãy chôn cho thật  kỹ
 Sắn nẩy mầm xanh mơn
 Nứt ra thành củ lớn
 Sáng sắn, trưa sắn, chiều  sắn
 Ôi, những sắn, những sắn
 Sắn sống mãi trong sự nghiệp của chúng  ta."
 
 ***
 
 Tôi nhớ mãi ngày đầu ra Bắc, cán bộ quản giáo,  viên thượng sĩ điểm danh, khệnh khạng lên lớp chúng tôi. Chẳng biết ông ta đánh  vần ra sao mà tên anh Lương Văn Học lại đổi thành Nương Nộc Nắc, và Đào Quốc  Đương thành ra Đào Cuốc Đường, rồi hắn chỉ vào mặt Đương:
 - Phản động! phản  động! Cái tên cũng phản động! "Đã Đào" nại còn Cuốc Đường", đắp mô  lửa"!
 Chúng tôi cố nín cười. Thấy vẻ mặt chúng tôi, y hét lớn:
 - Thế mà tú  tài 1, tú tài 2, tao tú tài mười còn chưa thèm lói lữa nà!
 Có lẽ y nghĩ tú  tài 1, tú tài 2 là lớp một, lớp hai. Từ đó, không biết ai đặt cho y cái tế là A  ni ba ba và con cù nần". Rồi từ đó không ai còn nhớ đến tên thực của y là gì  nữa.
 
 ***
 
 Chúng tôi chỉ còn da bọc xương, nhưng mặt thì  phù lên. Để chống lạnh, chúng tôi được phát hai bộ quần áo trận rằn ri, các túi  được tháo gở may găng tay, vớ đi rừng để chống vắt, nhưng rồi găng lẫn vớ cũng  chỉ vài ngày là rách bươm. Tôi lấy hai chiếc áo may vào làm một, giữa hai lớp áo  là lá chuối khô, nhưng gặp hôm trời mưa thì thật là khốn khổ. Cũng may, ngày đầu  ở Long Giao, tôi lượm được một số bao cát còn lành, gỡ sợi ra làm chỉ, mài giây  điện đồng cho nhọn, đục lỗ thành kim may được hai bộ đồ, quả thật là tiện dụng.  Tôi may cả được cái áo lạnh hai lớp, nhưng chỉ dám mặc bên trong, ấm áp vô  cùng.. Hai bộ quần áo ấy theo tôi suốt mười mấy năm trong đời tù đày. Nó dễ giặt  và mau khô. Ôi bao cát, bao cát sống mãi trong sự nghiệp tù tội của  tôi!
 
 Khuya hôm ấy, trời rét cóng, con trâu già đã chết. Đã bao nhiêu lần  người ta muốn giết nó, bởi vì bất cứ người lính cộng sản nào đội nón cối, mang  súng lại gần nó là nó nổi hung lên, bứt giây, tấn công liền; nhưng ngược lại,  khi chúng tôi lại gần nó, nó lại vô cùng nhu mì và hiền lành, lừ đừ suốt ngày  như một nhà hiền triết về già. Nó làm việc siêng năng. Nó kéo gỗ từ chân núi,  nơi bãi gỗ được phóng từ triền núi cao xuống theo lòng rãnh. Cái rãnh phóng gỗ  ấy, cả đội chúng tôi phải bạt cây, xẻ đá, đóng cọc gỗ, làm đà... để mang những  thân gỗ dài 2,3 mét, có vòng hoành 150 trở lên... Nó kéo gỗ suốt ngày. Gỗ được  chuyển ra bờ hồ, đóng thành bè để bán cho lâm sản lấy tiền bỏ túi cho đảng...  Thế nhưng, khi tiếng kẻng của trại vang lên, là dù đang kéo gỗ, nó nhất định  ngừng lại, được dỗ dành cũng cứ lì ra. Buổi xế chiều, khi tiếng kẻng vang lên  báo giờ lao động, nó lại uể oải đứng lên, không cần ai giục giã. Khi gặp khúc gỗ  lớn, nó ngần ngại, bỏ vào trong bụi nằm. Lúc ấy, anh giữ trâu phải bồi dưỡng cho  nó bằng cỏ non và muối nó mới chịu đi làm. Những lần ấy, anh em dùng cây xeo  giùm nó qua những chỗ gồ ghề. Đôi mắt hiền từ của nó nhìn chúng tôi như biết ơn.  Sau này, chúng tôi bảo nhau không hạ những cây có hoành quá lớn nữa. Hôm nó  chết, cả đội buồn rầu, không đụng đến phần thịt nó. Từ chối một bữa thịt trâu  vào lúc đó, quả thật là một sự hy sinh lớn lao vô bờ bến.
 
 ***
 
 Tôi vẫn thường tự nhủ, những nhục hình, đày ải,  chẳng nên nhớ lại làm gì, ví dầu có nhớ lại, có nói ra... cũng chẳng bao giờ nhớ  và nói cho hết, cho đủ; nó chỉ làm đau đớn, u uất thêm cho cuộc sống vốn đã  chẳng có được niềm vui, mà chỉ toàn là những bất hạnh trùng trùng cho đến tận  lúc này, và có lẽ cho đến ngày nhắm mắt.
 Những ngày buốt giá ấy, ông T. vẫn  ngồi đấy, bên đống lửa, vẫn bộ quần áo rách mướp, nhưng lần này khác hơn, là ông  đứng lên chào chúng tôi - tôi và Q - khi chúng tôi ghé vào chỗ ông ngồi đan  lát.
 Tôi hỏi như không chú ý:
 - Trời rét quá, sao bác không mặc chiếc áo  dạ vào?
 Ông cười:
 - Chiếc áo đẹp quá, em để dành khi chết mang theo, xuống  âm phủ không tủi thân như anh em đã chết năm xưa. Vả nại, mặc chiếc áo ấy, khốn  khổ chứ chẳng không!
 Từ hôm ấy, tôi và Q mang tặng gia đình ông bất cứ thứ gì  mà chúng tôi không dùng: quần áo "quần si, quần tẹc" từ khi ra đi vẫn nằm yên  trong ba lô.
 Tôi bảo ông:
 - Những gì dùng được thì cứ để dùng, nếu bán  được thì coi như chúng tôi giúp gia đình bác.
 
 Vợ chồng ông cảm động không  nói thành lời. Từ đấy, tôi bảo ông mua thuốc lào, đường, kẹo... để tôi giúp đổi  cho ông những thứ gì ông có thể bán được có giá. Đôi lần, ông mua cho chúng tôi  thứ này, thứ khác, nhưng tôi và Q nhất định không nhận, có khi tôi phải gắt lên  ông mới chịu nghe, nhưng bù lại, chỉ tiêu của tôi và Q luôn luôn được ông T. lo  liệu trước. Ông T. có 4 người con, hai người con trai lớn đã lấy vợ, làm công  nhân ở Yên Bái, chẳng dư giả gì để giúp đỡ gia đình. Cô con gái thứ ba tên Mận,  chừng trên 20, và cậu con út 19. Mận được giao làm dịch vụ" mang hàng" ra Yên  Bái cho người anh trai lớn đổi chác, mua bán. Cậu con út, một tay cày bừa, trồng  trọt mấy sào ruộng khai hoang ven chân núi. Chính cậu em út đã giúp chúng tôi  thực hiện chỉ tiêu để sẵn. Chúng tôi nói hoài cũng không chịu nghe.
 
 Năm  ấy, ông T. giỗ bố tươm tất hơn tất cả, cố nài chúng tôi đến ngày hôm sau. Tôi  thoái thác. Ông T. và cả nhà mang cỗ" lên trên núi, dọn quang khoảng đất dưới  tàn một cây cổ thụ, nơi khuất vắng, ít ai lai vãng đến. Mận đón chúng tôi ở  ngoài cửa núi. Mận không đẹp, cũng chẳng xấu, nhưng lại có duyên ngầm những lúc  nàng e thẹn. Dấu tích vất vả, cực nhọc hằn trên đôi bàn tay thô xạm. Mận biết  tay mình không được đẹp, nên mỗi lần nàng nói chuyện có mặt của Q, Mận luống  cuống che dấu đôi bàn tay.
 Hôm ấy, sáu người ngồi chung trên chiếc chiếu cói,  ông T. và gia đình đứng lên đón hai người chúng tôi:
 - Thưa hai ông, sở dĩ  năm nay nhà em có được bữa giỗ tươm tất như thế lày, cũng nà do hai ông đem nại  cho, đành mạo muội cúng thần rừng, thần lúi", mời hai ông dùng chén rượu nhạt  gọi nà, xin hai ông chiếu cố cho!
 Tôi hết sức cảm động, còn Q lơ đãng nhìn  tàn cây phủ bóng rợp. Tôi nói:
 - Ông bà bày vẽ làm gì! Nhưng ông bà đã cho  thì phải nhận, có phải không cô Mận?
 Nói xong, tôi kéo Q ngồi xuống. Ông T.  và cả nhà ngồi chung quanh. Ông T. ngồi cạnh tôi, Q ngồi bên trái, kế đó là cậu  Bưởi, đến Mận và bà T.. Ông T. rót rượu ra chung, chiếc chung bằng men sứ cổ, và  hai ly thủy tinh không đều nhau, cũ kỹ. Q cười:
 - Ông bà tha thứ, tôi không  uống rượu được!
 Ông T. có ý không vui, tôi đỡ lời:
 - Thằng này lái máy  bay, giặc lái không biết uống rượu, bởi vậy, đến nay nó vẫn còn ế vợ! Thôi, để  tôi uống thay vậy!
 Tôi chập hai ly, mời và chúc ông bà T. và gia đình, ngửa  cổ uống cạn cả hai. Bà T. cười móm mém:
 - Chắc ông nái xe tăng?
 Quí chen  vào:
 - Y là giặc viết, giặc mồm!
 Cả nhà ngớ ra, Q cười rũ người  xuống.
 Ông T. suy nghĩ một lúc, rồi à lên:
 - Thôi em biết rồi! Ông đây nà  chiến tranh tâm ný, chúng nó gọi như vậy. Ông nà nhà báo, nhà văn?
 Q cười vỗ  vai tôi:
 - Đúng rồi! Y là nhà báo cô, báo đời, văng mạng!
 Cả nhà lây cái  không khí vui vẻ của Q. Ông T. rót ly rượu mời, tôi đỡ lấy:
 - Tôi uống chung  này nữa thôi nhé, tam bôi tửu, nói vậy chứ, đây là quốc cấm, họ mà biết tôi uống  rượu ở đây với ông bà thì khổ cả lũ!
 Chúng tôi chẳng khách khứa gì, ăn sạch  trơn mọi thứ, no ứ đến cổ mà miệng vẫn còn thèm. Cô Mận đã dọn dẹp bát đũa vào  chiếc thúng, đậy tấm vĩ cói. Ông T. bảo con:
 Đấu vào một chỗ, tối em mày nó  đem xuống!
 Tôi đưa cho Mận 5 chiếc lon Guigoz. Mận nói:
 - Thưa ông, hôm  trước, 3 chiếc lon Guigoz cháu đổi được 3 con gà, 12 phong An Thái và 1 bịch kẹo  vừng.
 Tôi bảo:
 - Gà kệ cô! Tôi chỉ lấy 6 phong An Thái và bịch kẹo  vừng.
 Cô Mận phản đối:
 - Vậy đâu có được! Sao ông lấy ít thế!
 Q cướp  lời:
 - Ít sao được mà ít, mỗi phong An Thái 20 gram, chỉ cần 1 lon một phong  An Thái là chúng nó mừng húm!
 Bưởi hỏi Q:
 - Chú Q lái tầu bay gì? Có ra  Bắc đánh không?
 Tôi đỡ lời:
 - Thằng cha này nhát chết mẹ! Sợ phòng không  mà chỉ huy một phi đoàn đến mấy chục chiếc!
 Ông T. có chút rượu, vui lên thấy  rõ:
 - U con mày không biết đâu. Hai ông đây nà Quan Lăm, còn lớn hơn Ba Tay  Ông" xếp ngày xưa của tao đến hai cấp. Ông Quan Ba khạc ra khói, uy quyền ghê  gớm nắm, bây giờ các ông đây nỡ vận, vận nước, vận non... mà khổ đến thế lày,  đâu có như trung tá của bọn vẹm, nếch thếch như quân ăn mày!
 Tôi cản ông  T.:
 - Chuyện cũ bỏ qua đi, quên đi ông T. ạ!
 Bà T. buồn bã:
 - Thầy nó  ạ! Nhắc nại nàm gì, mang vạ, khổ cho mấy ông đây nữa!
 Tôi nhìn thấy cô Mận  núp sau lưng bà mẹ, qua vai áo, tôi thấy đôi mắt cô long lanh đang đăm đăm nhìn  Q; Q vô tình, mãi nói chuyện với Bưởi không để ý. Bỗng dưng lòng tôi chìm ngập  lòng thương xót.
 Buổi chiều, trên đường về, tôi hỏi Q:
 - Cậu thấy cô Mận  thế nào?
 Q nhìn tôi đăm đăm:
 - Thế nào?
 Tôi nhìn thẳng vào mắt Q:
 -  Cậu không để ý ánh mắt cô bé nhìn cậu lúc sáng này hay sao?
 Q cười:
 - Cậu  đúng là lẩm cẩm, hay tưởng tượng vớ vẩn!
 Tuy nói vậy, nhưng trên đường về, Q  có vẻ bần thần, nghĩ ngợi.
 Hôm sau, chúng tôi lên khu rừng nứa của tôi", đã  thấy một đống nứa chặt sẵn, một lon Guizoz trà, một bịch kẹo vừng, loại kẹo Q  thường khen ngon, và chiếc lon Guizoz Q để quê trong rừng bữa trước. Lon Guizoz  trà còn nóng ấm.
 Q ngồi thừ người, dựa vào thân cây. Một lúc lâu, Q cầm lon  Guizoz uống một hớp, y nhăn mặt, vì đúng là trà quặn" đậm đặc. Q nói giọng bùi  ngùi:
 - Không phải lỗi tại tôi, tôi đã tránh hết sức!
 Tôi thở  dài:
 -Tình yêu như cuộc rượt đuổi bóng hình. Tôi có nói là lỗi ở cậu đâu nào!  Chỉ có điều tội nghiệp. Cậu phải thật khéo léo. Tình yêu đầu đời của người con  gái mãnh liệt và liều lĩnh!
 Giọng Q trầm xuống:
 - Tôi đâu phải hạng người  ấy!
 - Sao cậu lại tự trách mình thế, tình yêu là biên giới giữa thiên đàng và  địa ngục, sự thất vọng của đền đáp biến thành tai họa của địa ngục.
 - Tôi  hiểu lòng tốt của cậu. Tôi sẽ cố gắng tế nhị, nhưng cậu đừng cho ai biết!
 -  Tại sao cậu phải dặn dò như thế?!
 Q thở dài:
 - Xin lỗi!... Biết ra sao  phận mình!
 
 Từ hôm ấy, Q cố tránh gặp mặt Mận. Tôi cũng cố tránh nhìn vào  khuôn mặt âm thầm và buồn trĩu của nàng. Mận giữ ý, không hỏi tôi về Q, tôi càng  tội nghiệp nàng hơn.
 Tôi nói cho Q biết điều ấy. Lúc này, dường như gia đình  ông T. đã có chút vốn. Ông T. mua một cặp heo và hai bầy gà con, 4, 5 con gà mái  đẻ và một con gà trống.
 Một hôm tôi bắt gặp Q và Mận nói chuyện với nhau. Hai  người không thấy tôi. Tôi đến nơi khuất vắng này bằng một con dường riêng mà chỉ  có tôi và Q biết được, luồn lách qua những bụi giang uốn cong như một nhà vòm,  rồi mới đến được thánh địa" của chúng tôi, xuống dưới một thung lũng, rồi bò lên  cao dần, nơi rừng trúc của tôi có một doi đất phẳng, che khuất bởi đám cây săng  đá thẳng như cột nhà.
 
 Hai người ngồi cách xa nhau, tôi nhìn thấy đôi mắt  của Mận đầm đìa nước mắt, giọng của Q trầm, nhỏ nhẹ. Bỗng Q cầm tay Mận, nàng  chùn tay ngượng ngập, nhưng lại để yên trong tay Q, đôi mắt nàng vụt long lanh  một niềm vui, hai má đỏ hồng e thẹn.
 
 Tôi biết Q chân chính, tôi âm thầm  lùi xa và bỏ đi. Đến chiều, lúc vát nứa xuống núi, vẻ mặt Q hơi khác lạ. Tôi  cũng chẳng đề cập gì đến việc tôi đã bắt gặp họ trong rừng. Khi xuống tới chân  núi, chúng tôi dừng lại nghỉ, Q ngồi xuống bên tôi, khẽ nói:
 - Trưa nay nàng  tìm gặp tôi.
 Tôi giả vờ hỏi:
 - Có chuyện gì không?
 - Cậu cứ tin ở tôi,  tôi xắp xếp tốt đẹp cả, tôi không làm điều gì tệ hại...
 Tôi vỗ đầu Q và  cười:
 - Tôi biết, tôi tin ở cậu! Chỉ cầm tay chút xíu thôi!
 Q trợn  mắt:
 - Cậu thấy à! Tại sao bỏ đi không đến nói chuyện?
 Tôi cười, nhìn vào  mắt Q:
 - Tôi có thấy gì đâu! Trưa nay nằm ngủ bên hốc cây, nằm mơ vậy  mà!
 
 Q nghĩ là tôi nói giỡn, giọng Q chân thành:
 Tôi viết thư cho bà  cụ, nhờ Mận ra Yên Bái lấy địa chỉ người anh, gửi thư cho bà cụ. Tôi cố giúp cho  Mận, cho gia đình này, gọi là chút đền đáp...
 
 Mùa hè năm 1977, T3 tăng  cường 5 đội chủ lực làm công tác gánh gạch cho đoàn T76 để xây cất ngôi trường  trung học phổ thông. Lò gạch cách nơi tập trung 2 km. Mỗi trại viên được giao  120 viên gạch cho mỗi ngày, riêng ngày Chúa nhật, chỉ tiêu là một nửa. Công việc  thoạt ai cũng cho là không đáng kể, nhưng tôi, tôi không nghĩ như thế, quả thật,  cho đến khi nhìn thấy viên gạch là một khối đất nung đặc cứng, không có lổ như  những viên gạch ống, 24 cm chiều dài, 12 cm chiều rộng và 6 cm chiều dày, gạch  đã bị thầm nước nặng không dưới 2kg mỗi viên, và chặng đi về mỗi chuyến trên 4  km.
 Chuyến đầu tiên, anh Tường Duy Lợi, võ sư đệ ngũ đẳng huyền đai nhu đạo,  người có trái tim bên phải, đã phải hạ từ 36 viên chuyến đầu tiên xuống chỉ còn  24 viên cho chuyến thứ nhì., và chúng tôi cố gắng đến quặn xương, cũng chỉ có  thể lê lết 20 viên mỗi chuyến. Q mồ hôi nhễ nhại, xiêu vẹo, thở dốc, lê lết mỗi  chuyến chỉ được 16 viên. Năng xuất mỗi ngày một giảm xuống, quản giáo gào thét  hăm dọa, cũng không làm sao đạt nổi chỉ tiêu ấn định. Cuối cùng, biện pháp "chế  thực" được áp đặt, nghĩa là chỉ phát cơm chiều cho những ai hoàn thành chỉ tiêu.  Trông Q hốc hác hẳn đi, tôi bảo Q:
 
 - Cậu đừng mất công mỗi chuyến mỗi  xếp, cứ đổ chung một đống với tôi, để tôi xếp cho!
 Q cười như mếu:
 - Xếp  trước sau gì chẳng thế, quan trọng là có đủ 120 viên hay không!
 Tôi lừ  mắt:
 - Thì cứ xếp 8 viên và cao 15 lớp là đủ!
 Q văng tục:
 - Nói như cục  C, có gì khác, tám viên nhân 15 thì dễ thường 100 viên à?
 Tôi nói nhỏ:
 -  Cậu cứ cố gắng có được 100 viên, còn bao nhiêu để tôi phụ cho!
 Vẻ cảm động  hiện trong đôi mắt, Q lắc đầu:
 - Không được, cậu cố gắng hết sức còn chưa đủ,  làm sao phụ cho tôi được? Với lại, tôi không thể ỷ vào cậu được!
 Tôi cười,  nháy mắt:
 - Tôi phụ xếp cho cậu, hai đứa 200 viên là đủ, nghe rõ chưa thằng  ngốc?! Q đờ mặt ra, một lúc sau cười toét miệng:
 - Rỗng ruột à?
 - Vớ vẩn!  Rỗng đâu mà rỗng! Có điều không được đặc!
 
 Từ hôm ấy, chỉ phải gánh 6  chuyến là đủ, chúng tôi dậy thật sớm, "tranh thủ" tránh cái nắng như đổ lửa buổi  trưa, 25 km đường dài cho một ngày đi về. Dù không đến nỗi bết bát, nhưng bọn  tôi cũng phải cày cho đến lúc mặt trời lặn mới xong được chỉ tiêu. Nguyên tắc  gánh nặng thì phải chạy, đòn gánh phải dẻo, nhún nhẩy lên xuống, sức nặng do đó  giảm đị Chỉ tội cho hai bắp chân và đôi vai còm cõi. Đoạn đường chỉ hơn 2 km mà  chúng tôi phải nghỉ từ 3 đến 4 lần suốt dọc đường.
 
 Một hôm, hai đứa tôi  nghĩ cạnh một ngôi nhà lụp xụp, dưới một tàn cây, để tránh cái nắng như đổ lửa,  mồ hôi nhễ nhại, miệng khô đắng vì quá khát. Tôi bảo Q:
 - Cậu ngồi đây, tôi  vào xin miếng nước.
 Q cản:
 - Không được đâu! Họ cấm không được liên lạc  với dân, vả lại, chắc gì họ cho.
 Tôi cười:
 - Bộ cậu không nhìn thấy cặp  mắt họ nhìn chúng ta à?
 - Mắt làm sao?
 Tôi cười chế nhạo:
 - Tớ chẳng  hiểu sao cậu lại mang đến lon trung tá được, chỉ ở tầm binh nhất là cùng!
 -  Sao vậy? Dễ còn cậu ngang tầm tướng lãnh chắc! Mà ăn thua gì đến con mắt?
 -  Tớ ấy à! Tớ chỉ ngang tầm cở Từ Hải, hoặc giả hơn Khổng Minh chút đỉnh!
 Q bật  cười:
 - Thằng này dốc tổ mẹ, nhưng con măt thì sao?
 - Cậu không nhìn thấy  ánh mắt ái ngại, thương xót của họ nhìn chúng ta à?! Q chun mũi:
 - Thôi được,  để xem, tớ liều theo cậu một chuyến...
 
 Người đàn bà cằn cỗi nhìn chúng  tôi ngạc nhiên, và khi tôi lên tiếng xin bà cụ một miếng nước uống, từ ánh mắt  ấy chợt bùng lế lửa giận, bà đứng bật dậy, chỉ tay vào mặt chúng tôi, xỉa  xói:
 - À, quân mặt dày, quân mặt mo, chúng mày còn dám vác mặt và đây xin  nước uống nữa à! Q mặt tái mét, toan chạy. Tôi giữa tay Q lại, nhìn thẳng vào  ánh mắt nóng giận nhưng không một chút căm thù của người đàn bà. Chúng tôi đứng  im nghe bà già nói mà không đoán được tuổi tác bà; có thể bà cụ chừng 70, mà  cũng có thể chỉ cỡ tuổi 50:
 - ...Tao tưởng chúng mày vào Nam làm vương làm  tướng gì, hóa ra chỉ là bọn ăn hại đái nát, tham ô, móc ngoặc, tranh danh, đoạt  lợi. Bà đặt hy vọng vào chúng mày, suốt bao năm trông đợi, bây giờ bà tuyệt  vọng, cha tổ bố....
 
 Giọng bà nghẹn đi, nước mắt ứa ra, khuôn mặt co rúm  lại vì đau xót... và hốt nhiên, cả tôi lẫn Q đều nước mắt chan hòa, cúi đầu xót  xa. Giọng bà trầm xuống sau một lúc im lặng:
 - Đã đến dường này, thôi thì  cũng là số mệnh, bọn này nó tàn ác lắm, ráng nhẫn nhịn mà chịu đựng để có ngày  về với vợ, với con...
 Bà cụ kéo chúng tôi vào nhà, gian nhà tối om, bà bảo  chúng tôi ngồi xuống tấm phản, rồi bà mang từ trong bếp ra một rổ khoai đã luộc,  và một "siêu" nước:
 - Các em ăn đi! Chị nghèo lắm! Chẳng có gì hơn thế này,  đừng giận chị, ráng cắn răng mà chịu đựng...
 Và bà chép miệng, lắc đầu thở  dài.
 
 Từ hôm ấy, dưới tàng cây, khuất trong bụi rậm, thường xuyên có một  vò nước, và đôi khi có củ khoai, củ sắn bọc trong một mảnh lá chuối.
 Không  chỉ riêng T3 phải tăng cường gánh gạch mà còn nhiều trại khác, nhưng đảm trách  từng lò gạch khác nhau. Tôi găp lại một số bạn bè cũ như Tôn Thất Trai, Nguyễn  Văn Lộc... Tôi không hiểu làm thế nào Trai có thể kham nổi 120 viên gạch mỗi  ngày với đôi chân Trai bị gẫy vào "Mùa Hè đỏ lửa " 1972. Nhìn Trai xơ xác, còm  cõi, xanh xao mà lòng tôi quặn thắt. Lộc thì hàm răng cửa không còn lấy một cái.  Chúng tôi đứng nhìn nhau, trao đổi bằng ánh mắt rồi quay đi như người không quen  biết. Nội qui của trại gồm 39 điều qui định và 20 điều về "nếp sống văn hóa  mới". Một trong 39 điều nội qui mà chúng tôi phải thuộc làu... là là trại viên  không được xưng hô với nhau theo những liên hệ cũ, cho dù là cha, con, chú,  bác... Tất cả chỉ có anh và tôi. Và đó cũng chính là "nếp sống văn hóa mới" của  chế độ. Bao nhiêu điều tự hỏi, nhưng không biết trả lời thế nào!
 
 Ngày tôi  gặp lại Trai là ngày Chúa Nhật ở chợ phiên. Tuy gọi là chợ phiên, cả một vùng  rộng lớn 15 ngày mới có một phiên chợ, vậy mà chỉ lác đác vài chục người, hàng  quán thì đơn sơ. Trong buổi chợ ấy, chúng tôi gặp Mận. Tôi thấy Mận đầu tiên và  chỉ cho Q, vì chúng tôi ở sân trường, nơi những viên gạch được xếp thành từng  hàng, cách nơi họp chợ vài chục mét. Mận ôm con gà, đứng nhìn về phía sân  trường, vẻ mặt ngơ ngác, tìm kiếm. Khi nhìn thấy Q, Mận xăm xăm bước đến. Gã bộ  đội ôm súng ngồi ở hiên trường, nhận ra Mận, gọi lớn:
 - Con Mận, mày đi chợ  đấy à!
 Mận giật mình đứng lại. Gã bộ đội xách súng đi tới, cợt nhả:
 - Mày  bán gà à? Bán chịu cho tao, sang năm tao trả cả vốn lẫn lời!
 Mận hậm hực,  chua ngoa:
 - Có tiền thì mua, không có tiền thì nhịn!
 Gã bộ đội cười hềnh  hệch, đểu cáng:
 - Ông thèm gà của mày rớt cả nước dãi!
 Mận quắc mắt nhìn  gã, nhổ nước miếng, bỏ đi. Gã bộ đội bẽ mặt nói vọng theo:
 - Con chó phét!  Ông lại bóp... cho vãi đái ra ấy chứ lị...!
 Chúng tôi vội vã tản ra. Gã quát  lớn thị uy:
 - Chúng mày nhìn cái gì? Muốn chống đối phỏng!
 
 Chẳng ai  trong chúng tôi ngạc nhiên về "nếp sống văn hóa mới" ấy. Thực tình mà nói, không  phải tất cả bộ đội cộng sản đều như thế cả, họa hoằn chúng tôi cũng gặp được vài  người tốt, song không một ai dám tỏ vẻ thân cận, hỏi han chúng tôi nếu có từ 2  người trở lên. Họ giữ miếng nhau từng chút.
 Tôi còn nhớ, có một gã bộ đội còn  rất trẻ; gã thường ngồi một mình, rất ít nói, rất ít khi quát nạt. Một hôm gặp  gã ngồi thơ thẩn dưới tàng cây gần chân núi, thấy tôi một mình vát nứa đi xuống,  nhìn quanh không thấy ai, gã nhỏ nhẹ:
 - Ngồi xuống đây nghỉ một lát  đã!
 
 Tôi mỉm cười nhìn gã e dè, đứng lại, cách xa trên 6 bước. Chúng tôi  không được phép lại gần cán bộ, vì họ có thể bắn chết rồi vu cho là tấn công,  cướp súng, phản loạn. Đã có ít nhất là hai trại viên bị bắn chết trong trường  hợp như thế., vì khi được gọi tới, họ đã vô tình đến quá gần mà trong tay còn  cầm dụng cụ, cuốc xẻng... Nếu được gọi đích tên, trại viên phải bỏ cuốc, xẻng,  dao, rựa xuống, đến cách xa cán bộ trên 6 mét, bỏ mũ xuống, đứng nghiêm. Do đó,  khi thấy tôi đứng cách xa gã trên 6 mét, gã hiểu ý, nhỏ nhẹ:
 - Chú ngồi xuống  đi!
 
 Tôi ngạc nhiên vô cùng khi nghe được tiếng chú từ miệng một cán bộ bộ  đội - thay vì chỉ duy nhất tiếng anh, hoặc mày, tao... được dùng, dù rằng người  đó có là một ông già đáng tuổi ông nội.
 Tôi ngồi xuống, ngó lơ chỗ khác. Tôi  càng ngạc nhiên hơn khi gã nói với tôi:
 - Cháu biết các chú khổ lắm. Mẹ cháu  thường dặn cháu không được hỗn láo. Gia đình cháu cũng người Công giáo. Họ biên  chế cháu lên đây để theo dõi thái độ của cháu, chẳng phải ai cũng hung ác hết cả  đâu. Thôi chú ngồi nghỉ nhé!
 Nói xong, y bỏ đi, vậy mà khi có người khác, y  làm như không hề đã nói chuyện với tôi một lần như thế.
 
 ***
 
 Mùa đông năm 1977, nhiệt độ được thông báo là  1.7 độ, mặt hồ se lại như muốn đóng băng, chúng tôi vẫn phải đi lao động bình  thường, lương thực, thực phẩm vẫn chỉ là sắn luộc và canh sắn ( sắn được luộc  cho nhừ, quậy ra cho nát, cho chút muối, nên gọi là canh sắn thực phẩm). Ngày ấy  tôi mới thấm thía được ý nghĩa câu thơ "nỗi cơ cháy ruột, nỗi hàn xé  da".
 
 Đêm lạnh cóng, chúng tôi không thể nào ngủ được, ngồi quây nhau  quanh đóng lửa giữa lán, tựa vào nhau mà ngủ. Gió rít qua phên nứa, ào ào trên  tàng cây. Có những lúc có một sự thèm muốn mơ hồ là được nằm im trong lòng đất  ... ấm. Mùa đông năm ấy, 7 người trong chúng tôi đã ra đi, đã được giải thoát  trong lòng đất...
 
 Thực tình, tôi không muốn nhớ lại những thống khổ của  những năm tháng đã qua. Mọi điều, dẫu khốn cùng thế nào chăng nữa thì đoạn đường  chông gai đã vượt qua, khi nhớ lại, bỗng dưng trở thành những kỷ niệm thân  thiết. Vậy mà 9 năm trên đất Bắc, kỷ niệm trở thành nỗi kinh hoàng trong những  giấc mơ vùi đã trở thành nỗi ám ảnh trong suốt một đời người còn lại.
 
 Cho  đến tận bây giờ, khi nhìn thấy củ sắn, cả người tôi bỗng dưng nổi gai ốc. Trận  say sắn, đã 21 năm trôi qua, vẫn còn nguyên cảm giác cũ.
 Tôi đã từng đọc  "Người tù khổ sai" của Henry Charière, song so với chúng tôi, với những ngày lưu  đày trên đất Bắc, Henry quả nhiên vẫn còn tốt phước hơn lũ chúng tôi nhiều lắm,  bởi ngoài những nhục hình đày ải về thể xác, chúng tôi còn phải chịu đựng những  đàn áp khốn nhục ở cả tinh thần.
 
 Gánh gạch đúng một tuần lễ, chúng tôi  được trả về trại. Chuyến cuối cùng của những viên gạch cuối cùng, tôi đi ngang  qua căn nhà lụp xụp của người đàn bà già nua, đã đặt biết bao nhiêu hy vọng vào  đoàn quân trở về giải phóng miền Bắc, và sự tuyệt vọng của không chỉ một mình  bà, tôi nhìn thấy bà ngồi trên thềm cửa ngơ ngác nhìn theo. Trong suốt bao nhiêu  năm trời, không lúc nào tôi quên được hình ảnh đó. Cho đến tận hôm nay, trên  mảnh đất tự do này, hình ảnh đau khổ, xỉa xói, mắng chửi của người đàn bà tuyệt  vọng ấy không lúc nào nguôi ngoai trong lòng tôi.
 
 Q bị chuyển trại một  cách đột ngột, vội vã và vị ngăn cấm tiếp xúc với các trại viên khác, khiến cả  trại xôn xao. Dường như chúnng tôi bị phát giác là đã liên hệ với ông TỮ, nhưng  sao chi có mình Q mà không có biện pháp gì đối với tôi, hay là chỉ mình Q đối  với mối giây liên hệ với Mận mà tên quản chế bị Mận khinh bỉ hôm chợ phiên đã  khiến y theo dõi để trả thù? Nhưng tại sao không điều tra tôi về những việc làm  của Q? Cũng may là khi về đến trại, hoặc ở chỗ đông người, chúng tôi đã giả tảng  như không hề thân thiết. Nhưngh dẫu lý luận thế nào, tôi cũng đã hết sức cảnh  giác, nhất là tôi nhìn thấy ánh mắt lấm lét của tên Bẩy, đội trưởng đội 6, tên  mà chúng tôi đặt là "Bẩy xe lửa" vì suốt ngày y thường la hét đội viên để lấy  điểm với quản giáo.
 
 Tôi nằm giữa hai người, anh Nguyễn Ngọc Hồ và Phan  Đệ. Chiều hôm đó, thừa lúc vắng người, Đệ nói nhanh với tôi:
 - Anh phải cẩn  thận, quản giáo Ba ra lệnh cho em và anh Hồ phải theo dõi anh từng chút đấy! Tôi  có hai người bạn thân, Đương và Tiến từ hôm xuống tàu "Sông Hương" ra Bắc ngày  11.06.1976. Chúng tôi luôn ở bên nhau, từ trại T4 Xuân Hồng đến T3 Yên Bái,  nhưng được ba tháng, kể từ khi về T3 AH. 800, chúng tôi bị tách rời, tôi đội 6,  Tiến đội 4 và Đương đội 5 rau xanh. Tiến và Dương tính tình trầm tĩnh, giàu nghị  lực, kiên trì và cương mãnh, rất chí tình với anh em, tận tụy với mọi người. Tôi  thì xốc nổi và bất chấp, nên đôi lúc thiếu sự cẩn trọng. Đương cao lớn, mà tiêu  chuẩn trại giam cấp chỉ đủ cấp cho một đứa trẻ lên 10 sống vất vưởng. Tuy nhiên,  bên cạnh Đương còn có Hiến, hiền hòa và rất mực yêu thương Đương (cho đến tận  hôm nay). Đó là ba người duy nhất trong trại mà tôi dám thổ lộ tâm sự.
 - Mày  vớ vẩn bỏ mẹ! Quyển sổ nhỏ của mày sao chưa đốt mẹ nó đi, còn giữ làm gì trong  người? Mày chép cục c... gì trong đó vậy? Không phải là kế hoạch Bravo của chúng  ta chứ?!
 
 Tôi nhỏ nhẹ đáp lại cơn bực bội của Tiến:
 - Đời nào tao lại  ghi cái đó! Chỉ có mấy bài thơ!
 Tiến gắt:
 - Thơ cái con c...! Thơ là linh  hồn lẩm cẩm của mày! Thôi đưa cái linh hồn ấy cho tao giữ!
 Tiến toét miệng  cười.
 Tôi giao cho Tiến cuốn sổ, Tiến cười:
 - Tao phải dấu thơ mày dưới  háng!
 
 Quyển sổ mỏng nhỏ tôi viết chữ li ti như con kiến vào những lúc  lang thang một mình trên núi cao với mẫu bút chì còn dấu được. Đương thì bảo  tôi:
 
 - Cậu là cái đinh của Đặng Quang Ba, cậu phải hết sức cẩn thận, ráng  nhẫn nhịn! Đặng Quang Ba là tên quản giáo cực kỳ gian ác. Ngày hôm sau cũng  không thấy gì, ngày sau nữa thì cả trại được lệnh sửa soạn chuyển trại, lệnh rất  chi tiết, căn dặn trại viên đừng bỏ sót đồ đạc, vì khi ra khỏi trại thì không  thể trở vào khi trại đã bàn giao cho ban chỉ huy mới của một trại di chuyển từ  Thanh Hóa đến, vì..... Tôi suy nghĩ rất lung, chưa bao giờ chúng tôi được báo  trước bất cứ một cuộc chuyển trại nào, vậy thì họ muốn gì, do đó, tôi chỉ sửa  soạn mang theo số đồ đạc cần dùng. Quả thật, ngày hôm sau, từng đội ra khỏi  trại, đến từng nơi khác nhau, và bắt đầu cuộc kiểm nghiệm. Tất cả cởi bỏ hết  quần áo, xổ tung hết đồ đạc, xét từng miếng giấy thuốc lá, từng đường tơ kẻ  tóc... và vì thế, tập thơ mỏng của tôi lọt vào tay quản giáo đội 4.
 
 Tất  cả trở về trại, sinh hoạt bình thường. Khi bị cật vấn, tuy Tiến khai là lượm  được, nhưng rồi họ cũng tìm ra chủ nhân. Hai ngày trôi qua, đến lúc này có lo  lắng cũng vô ích, tôi bình thản chờ đợi... Qua ngày thứ ba, tôi được lệnh ở nhà  " làm việc", hai chữ "làm việc" hiền hòa, thế mà bất cứ ai bị truyền đạt đều  không khỏi lo âu. Người "làm việc" với tôi khoảng trên 40 tuổi. Y chắc chắn là  một cán bộ cấp cao của Đoàn 776, đang cắm cúi xem tập thơ mỏng của tôi, làm như  cố ý không biết tôi đã vào phòng. Một lúc sau, y ngửng đầu lên, nhìn tôi trừng  trừng. Không hiểu sao tôi bỗng toét miệng cười. Gương mặt y xám lại khi thấy tôi  lại dám cười, nghĩa là không sợ hãi; đúng ra thì tôi cũng đổ lỳ, đến đâu thì  đến. Y đập bàn quát:
 
 - A! Anh lại còn cười được à! Anh là thằng phản  động, phản động trong tư tưởng, trong lời nói, phản động trong mắt nhìn, phản  động trong cả nụ cười! Hừ! Chuyên chính sẽ nghiền nát anh như cám bụi! Tôi nhìn  thẳng vào mắt y, vẫn giữ nụ cười:
 
 - Vâng, thưa ông! Cám ơn ông! Nghiền  làm đôi cũng biến thành cát bụi, thậm chí không cần nghiền cũng biến thành cát  bụi. Nghiền nát ra mất công lắm! Tôi chờ đợi sự phẩn nộ của y, quát nạt của y,  nhưng bỗng dưng tôi thấy y thoáng bối rối trong mắt, cơn phẫn nộ của y đột ngột  giảm xuống, khuôn mặt y trở lại bình thường, nếu không nói là nhu hòa; giọng y  nhỏ nhẹ:
 
 - Anh ngồi đi!
 Y chỉ chiếc ghế đặt xa chiếc bàn làm  việc:
 - Nào, ta làm việc chứ!
 
 Y hỏi thăm tôi về gia đình, tôi nói tôi  không nhận được tin tức gì về gia đình cả. Y cười:
 - Chắc thư anh viết ướt át  quá, vi phạm nội qui qui định nên không được gởi đi. Chúng tôi cũng là con  người, chúng tôi cũng có những cảm xúc giống như anh, nhưng lúc này, anh phải  gạt bỏ mọi tình cảm cá nhân mà dồn nỗ lực vào "sự nghiệp" cải tạo bản thân, và  chính sự lao động, rèn luyện trên mọi khía cạnh là thước đo sự tiến bộ của con  người, và cũng chính đó, và chỉ duy nhứt điều đó anh mới sớm được trở về đoàn tụ  với gia đình. Y bóc gói thuốc Thăng Long mời tôi. Tôi từ chối.
 
 - Thuốc  Thăng Long là thuốc ngon nhất của ta đấy, sao anh không hút?
 - Chính vì ngon  nhất nên tôi không dám hút!
 - À! Anh sợ ghiền nó à! Tôi có thì hút, không thì  thôi, vả lại lâu lâu mới được tiêu chuẩn. Anh hút thuốc lào chứ?
 - Thưa  vâng!
 - Thuốc An Thái cũng khá, phải không?
 - Thưa, với chúng tôi thì sao  cũng ngon cả!
 - Ái chà! "Hút tàn hơi thuốc, gục đầu say! Âm thầm bố dấu đôi  dòng lệ. Giây phút thần tiên buổi sáng đây." Anh hay khóc lắm à?
 - Vâng, vì  nhớ con. Vả lại cũng tùy lúc.
 - Chỉ thế thôi sao?
 - Vâng! Chỉ thế!
 -  Tôi cũng mong là như thế! Chỉ như thế không thôi anh cũng đã bị coi là không  tiến bộ rồi đấy! À này, cái lão TỮ phản động ấy, anh thấy thế nào? Cái lão ngồi  đan lát lối bên bờ rừng ấy!
 - À, thưa có phải cái lão già loắt choắt im lìm  như chiếc bóng ấy? Chả bao giờ y nói năng gì, đến cả nhìn chúng tôi y cũng chẳng  nhìn, chắc lão ta căm thù chúng tôi lắm?
 
 - Ừ, thì hầu hết nhân dân đều  căm thù các anh, trừ những tên phản động. Không đợi tôi trả lời, y cầm "tập thơ"  của tôi giơ lên, nhứ nhứ trước mặt tôi. Tôi cũng giả bộ vui mừng được nhìn thấy  nó. Y nhìn tôi đăm đăm:
 - Anh nhận ra nó chứ?
 - Thưa vâng! Tôi đánh rơi  hơn nửa tháng, tôi tìm mãi mà không thấy.
 - Những bài thơ này anh nghĩ thế  nào?
 - Thưa ông...
 Y giơ tay:
 - Gọi tôi là cán bộ!
 - Vâng, thưa ông  cán bộ...
 Y vừa thoáng vẻ hài lòng, vừa làm ra vẻ khó chịu:
 - Thôi được,  anh nói tiếp đi!
 
 - Tôi vẫn phải được đánh giá là phải cải tạo để trở  thành con người. Vậy thì tôi đang tiến bộ, vì chỉ con người mới biết đau buồn,  thương nhớ. Nụ cười, tiếng khóc là nét đặc thù mà chỉ con người mới có  được!
 - Được, nhưng anh phải nhớ rằng anh đang là ai! Thương thương, nhớ nhớ,  vợ vợ, con con... là tiêu tan ý chí cải tạo. Nếu chúng tôi cũng nhớ thương, rên  rỉ... thì làm sao đánh đuổi được hai đế quốc sừng sỏ...
 Tôi chen vào:
 -  Thưa ba đế quốc đấy ạ!
 Y nhìn tôi đăm đăm:
 - Đế quốc nào nữa?
 - Đế quốc  Tàu phù!
 Y cau mày. Tôi chịu đựng cái nhìn của y. Bất chợt y hỏi:
 - Anh  biết điều gì? Ai cho anh biết?
 - Tôi có biết gì đâu! Với tôi, từ quá khứ,  hiện tại và tương lai, bọn Tầu luôn luôn là một tên đế quốc, chẳng bao giờ chúng  từ bỏ ý đồ xâm lược đất nước ta.
 Y nhắm mắt lại, rất lâu, dường như y suy  nghĩ lung lắm, một lát, y mở mắt và đầu se sẽ gật gù:
 - Hôm nay anh có thể  về. Anh báo với cán bộ quản giáo cho anh nghỉ ba ngày để làm việc, bảo tôi nói  thế.
 
 Những ngày sau, cường độ gay gắt của y đột nhiên giảm xuống, tôi  không hiểu tại sao, mãi sau này tôi mới hiểu ra rằng thời điểm mà tôi trả lời  viên cán bộ đó, đúng vào lúc biên giới Hoa Việt đang ở trong tình trạng căng  thẳng. Buối chiều ngày thứ ba, vừa trọn ba ngày "làm việc" với tôi, thái độ của  y hoàn toàn thay đổi. Tôi không thể tin vào nhận xét của mình về thái độ của y."  Đừng bao giờ nhận xét người qua hiện tượng mà phải xét vào bản chất", tôi luôn  luôn, và cho đến bây giờ, vẫn nhớ câu nói này của những người cộng  sản.
 
 Thấy tôi vẫn dè chừng, y mỉm cười quan sát:
 - Anh giữ thái độ dè  chừng ấy là đúng. Với chúng tôi, những người cộng sản, không bao giờ tin vào  những hiện tượng, nhưng bản chất thì không bao giờ thay đổi, hay nói đúng hơn,  phải luôn luôn cảnh giác trước mọi hiện tượng. Xum xoe, xu nịnh, bợ đỡ... chỉ là  những hiện tượng hầu đánh lừa người khác, làm sao chúng tôi có thể tin được  những hạng người như thế, những người nói một đàng, làm một nẻo. Cải tạo chỉ là  cách nói, chúng tôi biết thừa đi rằng chẳng bao giờ có thể cải tạo nổi các anh,  thế nhưng chúng tôi vẫn xử dụng nó, một thứ trả thù, đày đọa, tiêu diệt dần mòn  được che đậy bằng ngôn từ. Mọi người đều nói giống nhau rằng "tôi hoàn toàn tin  tưởng vào đường lối lãnh đạo của đảng và chính sách khoan hồng của nhà nước".  Thế nhưng có bao nhiêu người tin như thế - không một ai - kể cả những người khởi  xướng việc áp đặt niềm tin ấy. Chỉ có anh, anh sống thật với ý nghĩ của mình,  thực chất, đó là điều tốt. Thế nhưng, tôi khuyên anh một điều, muốn tồn tại dưới  chế độ này, anh phải nói như thật những điều anh biết là không thật, và giả tin  vào những điều anh không hề hề tin. Anh có quyền tự do suy nghĩ, vì chẳng ai  thần thánh gì mà đọc được ý nghĩ riêng tư của anh, nhưng anh không được phép nói  lên những ý nghĩ ấy với bất cứ ai, ngay cả với chính mình!
 
 - Vậy thì hóa  ra tất cả đều lừa người và dối mình?
 - Thì đúng như vậy! Và đó là con đường  để tồn tại.
 Tôi cau mày hỏi y:
 - Vậy thì làm sao ông dám nói thật với tôi  ý nghĩ của chính ông?
 - Có gì lạ đâu anh bạn! Vì tôi biết anh không dám nói  lại với bất cứa ai điều này, nhất là lại nói về tôi, một đại tá quân đội nhân  dân, một đảng viên đảng CSVN hơn 20 tuổi đảng, một người khét tiếng về mặt  chuyên chính vô sản, một chính ủy có toàn quyền mọi quyết định về mặt chính trị.  Anh hiểu rồi chứ?
 
 Tôi cúi đầu im lặng, vì không biết nói gì nữa, không  dám nói gì nữa. Tiếng nói của y bỗng nhỏ hơn:
 - Tôi đọc thơ của anh, quả thật  những vần thơ đã làm tôi xúc động, những vần thơ đích thực là thơ mà đã hơn 30  năm tôi không được đọc, những vần thơ mang tính người đích thực. Tuy thế, tôi  không thể trả lại anh tập thơ này, vì nó sẽ trở thành tai họa cho anh. Tôi tin  rằng anh có thừa trí nhớ để viết thơ trong óc của chính anh.
 Y đưa bao Thăng  Long mời tôi:
 - Anh hãy dùng điếu thuốc này, của một con người mời một con  người.
 Tôi đỡ lấy điếu thuốc lá và châm lửa từ chiếc bật lửa của y. Hơi thuốc  thấm vào người tôi ngọt ngào hay là bởi những điều khác? Tôi thầm  hỏi.
 
 Điếu thuốc vừa tàn, gương mặt y trở lại lạnh lùng:
 - Anh có thể  về đội, tiếp tục lao động. Đảng luôn luôn khoan dung đối với những người lầm  đường như anh, biết tội lỗi, phấn đấu cải tạo để sớm trở thành công dân lương  thiện.
 Y giơ tay xiết chặc tay tôi, bàn tay ấm nóng, nhưng khuôn mặt và đôi  mắt lạnh lẽo như gió bấc.
 Tôi không chào y, lặng lẽ bước ra khỏi cửa, lần từ  bậc thềm, đếm được 39 bậc, một sự trùng hợp ngẫu nhiên với con số 39 điều nội  qui qui định của trại mà chúng tôi phải học thuộc lòng.
 
 ***
 
 Mấy ngày nay trời đã bắt đầu lác đác những trận  mưa đầu mùa, nhưng trận mưa buổi sáng hôm nay quá lớn. Nước từ núi cao tràn  xuống ào ào như thác vỡ, mực nước hồ Thác Bà dâng lên cao tràn vào cả sân trại,  ngập đến gần đầu gối. Cả trại được nghỉ, nhưng được triển khai thành buổi sinh  hoạt học tập. Khởi đầu buổi sinh hoạt nào cũng giống nhau: quản giáo chủ tọa,  đội trưởng khai mạc buổi sinh hoạt bằng ba bài hát của tập thể đội do một anh  trại viên được chỉ định "cầm càng" (chữ của thiếu úy quản giáo Đặng Quang Ba:  "Anh Ích đứng dậy cầm càng cho tập thể đội làm vài bài..."). Sau này, không biết  do ai khởi xướng mà "làm vài bài" đã biến thành "làm vài bãi..." Sinh hoạt đội  có nghĩa là phê bình, bới móc nhau, rồi tự bới móc mình, nhận khuyết điểm, ưu  điểm, tự đánh giá thái độ cải tạo, đồng thời hạ quyết tâm định "phương hướng  tới". Tôi được Đặng Quang Ba chỉ định phát biểu đầu tiên:
 
 - Thưa cán bộ,  thưa tập thể đội, tuần vừa qua, tôi phạm nhiều khuyết điểm, một là tôi đã làm  thơ ủy mị khiến cán bộ trên đoàn phải xuống "làm việc". Cán bộ đoàn đã chỉ vẽ  cho tôi những sai phạm. Tôi hoàn toàn thành khẩn nhận lỗi và được cán bộ ghi  nhận những nhận thức mới của tôi là có tiến bộ. Khuyết điểm thứ hai là phải nghỉ  mất ba ngày để "làm việc", nên không đảm bảo ngày công trong tháng, trong tuần.  Tôi thành khẩn nhận khuyết điểm trước đội và rút kinh nghiệm để sửa chữa. Tôi  xin hết!" Đặng Quang Ba can thiệp liền:
 
 - Không được nhận khuyết điểm  chung chung như vậy! Thơ phải đọc lên, chỉ rõ những nhận thức sai trái của mình  trước đội, có như thế mới nhận ra những sai lầm. Riêng phần kỷ luật là do trên  quyết định sau.
 Tôi nhẫn nhịn:
 - Vâng, tôi cũng muốn đọc lên, nhận khuyết  điểm trước cán bộ và tập thể, nhưng vị cán bộ đoàn cấm tôi không được nhớ, không  được đọc những bài thơ sai trái đó, giờ quản giáo ra lệnh, tôi xin tuân  theo!
 Đặng Quang Ba nghe tôi nói như vậy, vội vã giơ tay ngăn:
 - Thôi,  đồng chí cán bộ cấp trên đã chỉ thị như thế thì chúng ta phải tuân hành thông  qua, các anh đồng ý không?
 
 Như những chiếc máy, 50 cái miệng gào lên thật  lớn: "Đồng ý!" để khỏi bị bắt gào đi, gào lại mấy lần.
 Cũng chiều hôm ấy, tôi  lên cơn sốt, có lẽ vì thấm mưa chiều hôm trước, và do hơi đất ngột ngạt bốc lên.  Cũng tối hôm đó, tối thứ 5, toàn trại phải lên hội trường học hát, trời vẫn mưa  lác đác, nước rút đi để trơ lại bùn lầy, tôi cáo bệnh, xin đội trưởng ở lại  láng. Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, trại có lệnh cho tất cả phải lên hội trường,  dẫu đau ốm, miễn là còn sống. Tôi thấy Đặng Quang Ba gọi "Bẩy Xe Lửa" và Lữ Văn  S, tổ trưởng tổ 3, và đội phó Nguyễn Văn X ra nhỏ to, chắc là có chỉ thị gì đặc  biệt.
 
 Đến 9 giờ 30 tối, tất cả về láng, láng tối đen và lầy lội những  bùn. Bỗng có 7 người bỗng dưng hô hoán là mất đồ để trên "dàn giá ba lô". Cuộc  điều tra khởi đầu ngay tức khắc, phát hiện ra 7 chiếc ba lô"quân từ trang" của 7  anh em bị mất. Hàng rào tre nứa bị vẹt ra, vết giày ba ta còn in trên nền đất.  Kết luận được đưa ra là nhân lúc toàn đội lên học hát, kẻ gian đã xâm nhập, ăn  cắp đồ của trại viên. Tất cả thật rõ ràng. Sáng hôm sau, đội trưởng, đội phó và  5 tổ trưởng được lệnh ở lại trại để "sinh hoạt lãnh đạo đội." Tối hôm đó, trời  lại đổ mưa, sinh hoạt đội được triển khai rất sớm. Dưới ánh đèn dầu tù mù, mọi  thủ tục được lập lại, Đặng Quang Ba đứng giữa láng, vẻ mặt gian ác. Trong láng  không một tiếng động, chỉ còn lại âm thanh của những giọt mưa gõ trên mái nứa.  Gã nhìn từng người, ánh mắt chứa đựng vẻ uy hiếp và cất cao giọng, hai hàm răng  xít lại làm tôi nhớ đến tấm bia trên bãi tác xạ ngày mới vào quân  trường:
 
 - Sự cố xẩy ra tối hôm qua, bẩy trại viên đã bị "âm mưu đen tối  của thế lực thù địch" ăn cắp với mưu đồ nghiêm trọng. Làm thế nào người ngoài  biết được trong các ba lô để trên "sự nghiệp dàn giá ba lô" chứa quần "gan",  quần "tẹc", vậy thì phải có sự tiếp tay "nội bộ tổ chức", ý đồ thâm độc là móc  ngoặc với dân để "âm mưu trốn trại". Sự việc ấy đã rõ ràng. Hôm nay ta phải tìm  ra kẻ địch "trong lòng dân tộc, tổ chức" để "ngăn chận kịp thời âm mưu đen tối  phát sinh từ những ý đồ xấu xa." Ban chỉ huy trại và hội đồng cán bộ dưới ánh  sáng vinh quang của đảng, đã tìm ra kẻ đó là ai. Tuy nhiên, để thực hiện tính  dân chủ, tổ chức đội lấy biểu quyết, nếu quá bán thì kẻ đó có tội và bị thi hành  kỷ luật, nếu không đủ quá bán, kẻ đó vô tội. Thủ phạm gian tham phản động hôm  nay được đưa ra trước tòa án của tập thể đội, đó chính là tên "Mạc Thiên", và  hắn phải đền tội.
 
 Tôi đã dự đoán được âm mưu này, vì chiều nay, ánh mắt  của tên Bẩy nhìn tôi khác lạ. Tôi biết số mạng của tôi đã được quyết định thông  qua bàn tay của anh em. Tôi giơ tay xin phát biểu. Đặng Quang Ba chặn lại:
 -  Không cho phép mày phát biểu!
 Tôi phản ứng quyết liệt:
 - Tôi xin phát biểu  để thể hiện tính dân chủ mà cán bộ vừa nói!
 Tôi nhìn thẳng vào mắt y, y có vẻ  bối rối:
 - Cho phép mày nói 5 phút!
 - Tôi chỉ cần 2 phút!
 - Được, cho  phép!
 
 Tôi vẫn ngồi im tại chỗ, nhìn khắp lượt anh em. Nhiều  người cúi đầu hoặc rút vào bóng tối. Giọng tôi đanh lại nhưng chứa đầy tình cảm.  Tôi biết sự sống chết của tôi là lúc này: 
 - Thưa anh em toàn đội! Các anh, tất cả chúng ta  đều có học, biết phán đoán đúng, sai. Tôi chấp nhận sự phán quyết của anh em, và  sinh mạng tôi đặt trong tay anh em. Các anh phán quyết tôi theo lương tâm của  mình. "Các ngươi đong cho ai bằng đấu nào, ta sẽ đong cho các ngươi bằng đấu  đó!" Lời của Thượng Đế đã phán truyền, máu của kẻ vô tội sẽ chảy trên đầu con  cái chúng ta. Tôi xin hết!
 
 Cuộc biểu quyết lập đi lập lại câu hỏi "ai cho  rằng tên Mạc Thiên có tội hãy giơ tay biểu quyết! Cả đội im phăng phắc. Một vài  cánh tay ngập ngừng rồi bỏ xuống, trừ tên Bẩy, tên Xuân là giơ thẳng cánh. Đặng  Quang Ba tím mặt, giọng hắn rít lên:
 - Ai cho thằng Thiên không có tội, giơ  tay lên!
 Tất cả những cánh tay giơ cao, trừ hai tên Bẩy và tên Xuân.
 Tên  quản giáo hùng hổ hét lớn:
 - À, thì ra chúng mày toa rập! Ông cho mục xương,  mục xương!
 Nói xong, y vội vã bước ra khỏi lán.
 Bỗng dưng tôi cảm thấy một khoảng không mở ra trong  lòng tôi, một cơn mệt lạ lùng dìm tôi xuống trong một cảm giác mơ hồ.
 Cùng lúc đó, ngoài trời đêm, nhiều ánh đuốc bập  bùng, một đoàn người khá đông tiến vaòo trại áp giải theo một người bị trói thúc  ké, thủ phạm ăn cắp đã bị bắt ở chợ, khi y đem quần áo, tư trang ăn cắp của 7  trại viên ra chợ bán và bị công an tóm giải về trại.
 
 Hắn chính là tên bộ  đội quản chế trêu chọc Mận hôm trước, và hắn cũng chính là tên gác đêm hôm qua  lúc chúng tôi lên hội trường học hát. Sự việc vỡ lở, cả trại xôn xao, ban chỉ  huy trại không thể dấu nhẹm được. Ba ngày sau, tên Bẩy bỗng thổ huyết. Ôi, "Chúa  có bàn tay của Chúa!"...
 
 Lần đầu tiên tôi nếm mùi "kỷ luật" cũng do một  bài thơ. Để chào mừng "quốc khánh" 2975, tất cả mọi trại viên phải tham gia  "viết báo tường" với chủ đề "học tập tốt, lao động tốt". Thời hạn nộp bài là ba  ngày. Ngày ấy mới vào Long Giao, lao động chỉ quẩn quanh trong khu vực doanh  trại, dọn dẹp vệ sinh, tu sửa nơi ăn chốn ở, làm cỏ và trồng tỉa. Mùa mưa đã đến  được trên ba tháng, đám lau sậy đã cao hơn đầu người, mà cuốc xẻng chỉ là những  cọc sắt đập dẹp đầu và uốn cong lại, do đó, những bàn tay phồng rộp, xây xát, cả  đội cũng đã khẩn hoang được một khu đất rộng gần chừng một mẫu, chia cho 5 tổ  đảm trách việc trồng trọt, ai muốn trồng gì cũng được, miễn là cho kín khu đất.  Từ cảm hứng ngậm ngùi ấy, tôi đã viết bài thơ "Một ngày lao động tốt":
 
 Này luống khoai xanh, luống đất hồng
 Đây vòm sắn mượt cụm rau non
 Mồ hôi nhỏ xuống từng vuông cỏ
 Ý đất, lòng khai có biết không?
 Mạch sống nhen theo mạch núi rừng
 Chòm cây lối  cỏ nhớ sương trong
 Mưa nguồn chớp bể đêm qua đó
 Chắc hẳn chưa tàn nụ  hướng dương.
 Nhát cuốc ta phăng bụi cỏ này
 Ngại gì không mạnh  sức đôi tay
 Mai kia nắng dạt chiều đông xám
 Và gió hừng đông lả bóng  cây.
 
 Ôi, đó đời ta, mảnh đất này
 Bụi cà chen chúc cụm rau đay
 Vui buồn trộn lẫn vài công đất
 Ý lá, lòng hoa, hương cỏ may.
 
 Bẩy ngày kỷ luật hưởng theo tiêu chuẩn trại  giam. "Trại giam" là một cái thùng conex được chôn trong lòng đất, chằng chịt  kẽm gai bao quanh. Trời nắng thì van trời, đêm mưa thì lạy đất.
 
 ***
 
 Lần thứ hai, tai họa đến từ buổi học tập "nền  kinh tế xã hội chủ nghĩa là ưu việt". Mọi người phải phát biểu ý kiến, triển  khai ca ngợi đảng và xã hội chủ nghĩa, sau đó viết bài thu hoạch. Tôi ngồi khuất  vào góc phòng, lơ đãng nghe anh em moi óc tìm cho ra những từ ngữ có thể tìm  được để ca tụng "xã hội chủ nghĩa ưu việt". Vẻ lơ đảng của tôi lọt vào mắt cú vọ  của tên quản giáo Đặng Quang Ba, và hắn yêu cầu tôi đứng lên phát biểu. Hắn bảo:
 
 - Anh hãy nhận xét những ưu và khuyết điểm của nền kinh tế ưu việt của  xã hội chủ nghĩa!
 Không lẽ tôi lập lại những "lời hay ý đẹp" mà anh em trong  đội nặn óc nghĩ ra, và sẽ bị đánh giá là không chịu động não, là chung chung, là  thiếu sâu sắc. Thôi vậy, tôi phải nói những điều tôi đã nghĩ, đã được đọc:
 
 - Thưa cán bộ quản giáo, thưa anh em, trong tác phẩm vĩ đại "Công cuộc  cách mạng nhân dân" của "cụ" Tổng Bí Thư Lê Duẩn, trang 506, dòng 14 có một đoạn  viết rằng, "nhân một lần về thăm một xã nghèo thuộc tỉnh Nam Hà, "cụ" Tổng Bí  Thư đã nói với lãnh đạo của xã ấy như sau:
 
 "Nếu xã viên không có trên 3  sào ruộng đất, thì không nên vào hợp tác xã, cứ để cho họ làm ăn riêng lẻ, như  vậy thành quả sẽ cao hơn, mới đủ sống." Tại sao như thế? Tại sao làm ăn riêng lẻ  lại có kết quả tốt hơn vào hợp tác xã? Chúng ta vẫn thường nghe các cụ, tổ tiên  chúng ta nhắc đi nhắc lại câu nói "cha chung không ai khóc", vì vào hợp tác xã,  chẳng ai muốn tận lực ra sức làm việc, do dó thành quả sẽ thấp hơn canh tác cá  nhân. Chẳng ai vạ gì đổ mồ hôi tận lực, trong khi nhũng người khác lơ là, làm  chiếu lệ. Tuy nhiên, tôi được biết, chủ tịch HCM đã nói: "Muốn xây dựng xã hội  chủ nghĩa, phải xây dựng con người chủ nghĩa xã hội." Cái khuyết điểm về yếu tố  tâm lý dựa dẫm ấy, đã được Hồ Chủ Tịch nhìn thấy, nên mới quan tâm đến nhân sự,  đến "con người chủ nghĩa xã hội". Do đó, tôi xét thấy rằng nền kinh tế xã hội  chủ nghĩa cũng có mặt hạn chế của nó!"
 
 Gương mặt tên quản giáo xạm lại,  mọi người nín thở, và tôi tự trách mình dại dột, dù đã mang hai nhân vật "vĩ  đại" ra làm cái khiên che chắn, thế nhưng, chỉ ba ngày sau, tôi lại phải vào  trại kỷ luật.
 
 Chưa đầy hai năm, kể từ lần cùm đầu tiên, lần này là lần  thứ ba, và cũng như lần đầu, tai họa đến từ những vần thơ. Theo tử vi, cặp văn  xương, văn khúc, gọi tắt là văn khúc, là cát tinh riêng đối với tôi, nó đúng là  hung tinh số một (và 14 năm sau, tôi lại bị "hạn" xương khúc lần nữa, và lần này  nặng hơn nhiều.)
 
 Lần thứ 3 xẩy ra hơn một tháng sau ngày chấm dứt buổi  "làm việc" với viên đại tá. Không một ai trong trại biết tôi bị kỷ luật. Lần này  không hề đọc lệnh bắt giam, lệnh thi hành kỷ luật đối với trại viên phạm lỗi,  bởi vì cái tội của tôi khó viết thành văn tự.
 
 "Con ạ, từ khi bố vắng nhà
 Đến nay, thắm thoát mấy năm qua
 Khi đi con hãy còn măng sữa
 Thơ dại  nào hay buổi thiếu cha
 Người ta bảo bố phải yên lòng
 Hài tội mình ra  giữa đám đông
 Con ơi, tội bố nhiều ghê lắm
 Nặng nhất là vì tội nhớ con!
 ...
 Tôi bị cùm hai chân trong nhà ngục chìm một nửa  trong lòng đất, tường xây bằng đá tảng với muối, không một chút ánh sáng, buổi  trưa ngày nắng dội, trong ngục cũng chỉ lờ mờ một thứ ánh sáng như đêm trăng  suông. Hai bên bệ xi măng cao chừng 30 cm (hoàn toàn giống như một ngôi mộ) là  hai trụ đá, xuyên qua hai trụ đá là một thanh sắt lớn. Hai chiếc cùm chữ U lồng  vào hai cổ chân, và thanh sắt dài xuyên qua hai vòng khuy của mỗi thanh sắt chữ  U, xiết hai cổ chân rồi xuyên qua bức tường khóa cứng ở bên ngoài.
 
 Viên  cán bộ có cặp chân mày sâu róm và ánh mắt hung bạo lấy làm thú vị khi hai thanh  sắt chữ U nịt chặc lấy cổ chân của tôi. Y cười gằn, vung vẫy chùm chìa khóa:
 
 - Chết cha mày nghe con, đây là mồ chôn của mày, mày sẽ cạp cứt mà chết,  chuyên chính sẽ nghiền nát mày như cám bụi!
 
 Nói xong, y vung chùm chìa  khóa quật vào mặt tôi, cũng may, tôi tránh kịp, nhưng tôi lại không thể tránh  được những cú đạp túi bụi vào người, tôi phải gồng mình lên mà chịu đựng. Khi  cửa hầm sập lại, văn hầm tối đen. Tôi ngồi im trong bóng tối mịt mùng, đầu óc  trống rỗng. Bầy muỗi đói ào ra, trong im lìm, tiếng muỗi bay lớn dị thường. Cũng  may, bộ đồ tù tôi mặc trên người là bộ đồ trận của Biệt Động Quân, tuy thế, cũng  không cản được những cái vòi như kim châm của bầy muỗi đói. Đó là ngày  19/5/1977, ngày sinh của ông Hồ (?). Đó là ngày thứ nhất và ngày sau cùng, làm  sao biết được là bao giờ, vì lần này không có lệnh kỷ luật, nên không có thời  hạn.
 
 Tôi ngồi im như thế không biết là bao lâu. Khi hai nhượng chân gác  đè lên thanh sắt, đôi chân từ cảm giác tê dại đã chuyển thành nhức buốt. Cũng  may, đôi dép râu của tôi y đã quên không tịch thu, do đó, tôi dùng nó đỡ cho hai  gót chân hổng lên, để khỏi đè lên thanh sắt. Cũng nhờ thế mà sau này tôi còn đi  lại được. (Ôi, đôi dép sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!)
 
 Dẫu trong  hoàn cảnh nào cũng phải sửa soạn cho cuộc đầy ải, bằng tất cả những gì có thể có  được. Tôi cởi áo lót trùm kín lên đầu, xé chiếc quần đùi đang mặc bao lấy đôi  bàn chân, phòng thủ cuộc tấn công hung bạo của bầy muỗi. Tôi ngả lưng xuống và  thiếp đi...
 |