Năm 1990, nhà xuất bản Nam Á ở Paris phát hành cuốn ” HCM, Sự thật về thân thế và sự nghiệp “do 9 tác giả đồng soạn, trong đó có 6 người Việt, 2 người Pháp, một người Mỹ.
Cuốn sách được viết và dịch ra 3 thứ tiếng Anh, Pháp, Việt xuất hiện vào lúc tổ chức Văn Hóa Giáo Dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) dự tính vinh danh HCM nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông ta.
Hai tác giả người Pháp là Olivier Tođ và Jean-Francois Revel từng có mặt trong số nhà văn và triết gia ngoại quốc đã can thiệp để UNESCO hủy bỏ ý định. Vì vậy UNESCO chỉ cho CSVN mượn trụ sở để tổ chức văn nghệ nhưng không được nhắc tới ngày sinh của HCM.
7 tác giả còn lại gồm:
- Ralph B. Smith, giáo sư sử học Á Đông tại trường School of Oriental and African Studies (Viện nghiên cứu Á Phi) thuộc đại học Luân Đôn.
- Bùi Xuân Quang, chủ biên, nhà văn, đạo diễn điện ảnh, là người cùng Nguyễn Thế Anh và Huỳnh Bá Yết Dương sáng lập nhóm nghiên cứu và tập san Đường Mới.
- Nguyễn Thế Anh từng là Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon, giáo sư thỉnh giảng đại học Harvard, giám đốc CNRS (Trung tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học, Paris) và là một sử gia có uy tín trong giới sử học quốc tế.
- Tôn Thất Thiện, từng là giáo sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và đại học Vạn Hạnh, Tổng Trưởng Thông Tin VNCH, giáo sư đại học Québec tại Trois Rivières, từng được trao tặng Giải Thưởng Quốc Tế Về Báo Chí (Giải MacSaysay, mang tên tổng thống Phi Luật Tân ) vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa VN.
- Lâm Thanh Liêm, nguyên giáo sư và Trưởng Ban Địa Lý Đại Học Văn khoa Saigon, chuyên gia nghiên cứu CNRS, tác giả nhiều sách về chuyên môn và lịch sử, trong đó có cuốn Từ Saigon đến thành phố HCM, viết chung với Gustave D. Meillon.
- Đinh Trọng Hiếu, chuyên gia nghiên cứu CNRS, giảng sư đại học Paris VII, từng có thời viết cho tập san Đoàn Kết thân cộng.
- Đằng Phương, Nguyễn Ngọc Huy, nguyên giáo sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Saigon, nguyên chuyên gia khảo cứu tại đại học Harvard, tổng thư ký Phong Trào Quốc gia Cấp Tiến.
Cuốn sách là tập hợp những bài viết của 9 tác giả nói trên, mỗi tác giả một bài.
- Ralph B. Smith, giáo sư sử học Á Đông tại trường School of Oriental and African Studies (Viện nghiên cứu Á Phi) thuộc đại học Luân Đôn.
- Bùi Xuân Quang, chủ biên, nhà văn, đạo diễn điện ảnh, là người cùng Nguyễn Thế Anh và Huỳnh Bá Yết Dương sáng lập nhóm nghiên cứu và tập san Đường Mới.
- Nguyễn Thế Anh từng là Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon, giáo sư thỉnh giảng đại học Harvard, giám đốc CNRS (Trung tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học, Paris) và là một sử gia có uy tín trong giới sử học quốc tế.
- Tôn Thất Thiện, từng là giáo sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và đại học Vạn Hạnh, Tổng Trưởng Thông Tin VNCH, giáo sư đại học Québec tại Trois Rivières, từng được trao tặng Giải Thưởng Quốc Tế Về Báo Chí (Giải MacSaysay, mang tên tổng thống Phi Luật Tân ) vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa VN.
- Lâm Thanh Liêm, nguyên giáo sư và Trưởng Ban Địa Lý Đại Học Văn khoa Saigon, chuyên gia nghiên cứu CNRS, tác giả nhiều sách về chuyên môn và lịch sử, trong đó có cuốn Từ Saigon đến thành phố HCM, viết chung với Gustave D. Meillon.
- Đinh Trọng Hiếu, chuyên gia nghiên cứu CNRS, giảng sư đại học Paris VII, từng có thời viết cho tập san Đoàn Kết thân cộng.
- Đằng Phương, Nguyễn Ngọc Huy, nguyên giáo sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Saigon, nguyên chuyên gia khảo cứu tại đại học Harvard, tổng thư ký Phong Trào Quốc gia Cấp Tiến.
Cuốn sách là tập hợp những bài viết của 9 tác giả nói trên, mỗi tác giả một bài.
Trong Lời Nhà Xuất Bản, Mai Trung viết rằng các dân tộc Đông Âu đã ném chủ nghĩa CS vào “thùng rác lịch sử”.
Trong lời mở đầu, Vấn đề HCM, Bùi Xuân Quang viết: “Đời của lãnh tu. CS HCM hoàn toàn giả tạo từ ngày sinh cho đến ngày ông mất….Trong tinh thần đi tìm sự thật, công bằng và nhân ái, chúng ta phải đặt ông HCM vào đúng chỗ của ông: một người đã hoàn toàn sai lầm và phải chịu trách nhiệm với dân tộc, với đất nước.” (1)
Bài thứ nhất, HCM: Lòng yêu nước bị chuyển hướng của Jean-Francois Revel, triết gia, nhà văn và nhà báo, phụ trách mục xã luận các tuần báo Le Point, Giornale và đài Europe I. Tác giả viết: “Đáng lẽ HCM đã là một vị anh hùng tạo lập một nước VN tân tiến và dân chủ. Khốn thay, mục tiêu của ông không phải là nền độc lập của VN mà là việc sáp nhập nước này vào Quốc Tế CS … HCM là một trong những người thực hiện khắt khe nhất phương pháp mà chủ nghĩa CS đã dùng suốt thế kỷ 20. Đó là dùng sức mạnh nằm trong mong muốn tự nhiên của con người như tự do, độc lập, tiến bộ rồi xoay chuyển sức mạnh đó để phục vụ mục đích trái ngược với mục đích mà những người dân bị lợi dụng đã ước mong và theo đuổi…Dựa vào lòng ước mơ tự do để nô lệ hóa, đó là phương pháp của HCM theo đúng phương pháp của Lênin gian ác.”
Với tư cách một triết gia, một nhà tư tưởng, Revel đưa ra định nghĩa của lịch sử rồi căn cứ vào đó và dựa trên kết quả những hành động của HCM để đưa ra lời kết tội, dù chấp nhận trường hợp cho rằng buổi ban đầu đã có ý định hết sức tốt đẹp: “Lịch sử không phải là kết quả do những ý định của người ta mà là kết quả do những hành động của họ. Thế thì những kết quả còn đó: Nô lệ, xương máu, chết chóc và đói khát. Đã trưng dụng cuộc chiến đấu chống thực dân để đưa đến một tình trạng suy sụp như thế thì chẳng còn cách gì chống chế để chạy tội cả. Trái lại, đây là một trường hợp phạm tội gia trọng, một vụ đánh cắp, một vụ lừa bịp không hơn không kém.”
Bài thứ hai, Hành trình chính trị của HCM của Nguyễn Thế Anh. Theo tác giả, những nghi vấn đầy rẫy trong đời HCM đến nay vẫn chưa được giải tỏa. Chỉ riêng về năm sinh đã khá rắc rối.
Năm 1911, HCM ghi mình sinh năm 1892. Một báo cáo khác ghi: sinh năm1894. Trong chiếu khán thông hành cấp năm 1923 ghi sinh ngày 15-1-1895. Ngày sinh được coi như chính thức là 19-5-1890. Về cái tên Nguyễn Ái Quốc, tác giả cho rằng “có thể” là tên chung của nhiều người thường lui tới nhà luật sư Phan Văn Trường ở số 6 Villa des Gobelins. Và, hội Người VN Yêu Nước không phải do HCM lập nên như ghi trong sử liệu của CSVN. Hội này là của hai nhà cách mạng Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường: “Hai chí sĩ ho. Phan đã không nề hà dìu dắt những bước đầu của người thanh niên mà không bao lâu hai ông dành cho độc quyền sử dụng tên Nguyễn Ái Quốc. Biết rằng công an Pháp theo dõi chặt chẽ hành vi của mình, nên hai ông còn giao phó cho anh ta vận mệnh Hội Người VN Yêu Nước, một sự ủy thác mà các sử gia viết tiểu sử HCM lơ đi để lạm gán cho ông ta công lao lập hội này.
Với tư cách tổng thư ký của hội, Nguyễn Ái Quốc được nhận làm hội viên chi nhánh Pháp của Hội Nhân Quyền và Dân Quyền”.
Sự việc trên gợi nhắc trường hợp tương tự sau này khi HCM chiếm dụng danh xưng và danh nghĩa của VN Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) của Hồ Học Lãm để rồi biến thành Mặt Trận Việt Minh của ông ta vào năm 1941.
Tác giả nói HCM đã đến Nga ba lần khi chưa làm chủ tịch vào các thời điểm 1923-1924, 1927-1928, 1934-1938 và phủ nhận tin do HCM bịa rằng đến Nga lần đầu sau khi Lênin đã chết nên không được gặp. Tác giả khẳng định HCM đến Nga lần đầu vào tháng 7-1923, dự đại hội Quốc Tế Nông Dân từ ngày 10 đến 15-10 năm ấy.
Đó là lúc Liên Xô thay đổi sách lược dành cho nông dân một vai trò quan trọng mới. Năm sau HCM lại được dự đại hội V Đệ Tam Quốc Tế từ 17-6 đến 8-7-1924 tại Mạc Tư Khoa. Tác giả cho biết thêm: “Đến khi đại hội chấm dứt, một ủy ban tuyên truyền quốc tế được thành lập, mà trọng trách là tuyên truyền chủ nghĩa CS tại các nước thuộc địa… Quốc (HCM) được chỉ định gia nhập ủy ban này, ngang hàng với các ủy viên Pháp: Marcel Cachin; Ấn Độ: M.N.Roy; Nhật-bản: Sen Katayama; Algérie: Hadjali Abdelkader v.v…”
Tác giả gắn liền việc HCM đến Nga lần thứ 3 từ 1934-1938 với việc Liên Xô thay đổi chiến lược, quay ra thân thiện với Anh – Pháp hòng đối phó với Hitler, chủ trương cần phải liên hệ tốt với họ để “thành lập những mặt trận bình dân, phải liên kết với các đảng phái dân chủ tư sản để chống chủ nghĩa phát xít”. Tại đại hội kỳ 7 (cũng là đại hội chót) của Đệ Tam Quốc Tế, HCM tham dự với tư cách đại diện bô. Đông Phương. Lê Hồng Phong dự với tư cách đại diện của đảng CS Đông Dương. Nguyễn Thế Anh trưng dẫn cuốn Chính giới Pháp và cách mạng VN (tháng 8-12, 1945) của Alain Ruscio để cho rằng “thỏa hiệp 6-3-1946 bao hàm sự duy trì nước VN trong khối Liên Hiệp Pháp”. (2)
Tác giả kết luận:”Huyền thoại này (HCM yêu nước) đã giúp nhiều cho CSVN được bên ngoài cũng như bên trong ủng hộ. Nhưng nó đã che lấp sự kiện chính yếu là nhà lãnh tu. CS đã hiến dâng đời ông nhiều nhất cho sự thắng lợi của Quốc Tế CS, và ông đã hoạt động cho sự giải phóng xứ sở cốt là để đưa một cách hữu hiệu nhất quốc gia ông nhập vào phong trào công
nhân và nông dân quốc tế”.
Bài thứ ba, Cái đúng và cái giả dối về chuyện HCM, của giáo sư Tôn Thất Thiện là một trong hai bài dài nhất (47 trang), viết về chuyến đi lén lút sang Nga của HCM năm 1923 và chuyện bị thất sủng ở Komintern năm 1933-1938. Tác giả là một trong những người đầu tiên nói đến 2 tác phẩm do HCM ngụy trang người khác để kể về mình. Ông cũng nghiên cứu nhiều tác phẩm của các học giả và nhà văn, nhà báo thế giới như Jean Lacouture, Bernard Fall, Michelle Zecchini, Jean Sainteny, Archimedes Patti… và bài phỏng vấn HCM của ký gia? Charles Fourneau. Trong danh mục tài liệu tham khảo còn liệt kê bô. HCM toàn tập, các tác phẩm của Hồng Hà và của ban nghiên cứu lịch sử đảng do tỉnh ủy Nghệ Tĩnh phổ biến. Ngoài ra là các sách viết về HCM của những thủ hạ thân cận như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng … và một số sử gia CS khác. Một bài viết dài trên bốn chục trang mà có tới 60 chú thích dựa trên số lượng tài liệu tham khảo đó đã phản ảnh thái độ hết sức thận trọng của tác giả.
Khác với Nguyễn Thế Anh, giáo sư Tôn Thất Thiện đã dựa theo các tài liệu CS, nhất là của chính HCM, để ghi rằng Nguyễn Ái Quốc đến Nga, sau khi Lênin đã chết và mục đích chuyến đi Nga là dự đại hội kỳ V của Đệ Tam Quốc Tế (năm 1924) chứ không phải dự hội nghị về Nông Dân (năm 1923). Nhưng, sau đó tác giả viết thêm: “…Cũng ghi nhận rằng, một điều lạ lùng là Nguyễn Khắc Huyên, người đã viết một tiểu sử về Hồ, dựa vào tư liệu vững vàng xuất bản năm 1971, cũng nói rằng Hồ đã tham dự đại hội IV của Komintern vào tháng 11-12 năm 1922, trong đại hội đó ông đã gặp Lênin và Stalin, rồi rời nước Nga để trở lại lần nữa vào năm 1923, ông đến thủ đô Xô Viết ít lâu sau cái chết của Lênin.” (3)
Dù vậy, theo tác giả, những điều do Hồng Hà viết trong cuốn Bác Hồ trên đất nước Lênin, với tài liệu lấy từ văn khố Xô Viết cũ là dễ chấp nhận hơn cả. Do đó, tác giả kể một số sự việc theo Hồng Hà như ngay khi đến Berlin, HCM đã đi đến trụ sở của phái bô. Xô Viết số 7 Unter den, Linden, do đã có thỏa thuận trước và tác giả cho rằng theo những gì Hồng Hà tường thuật sau đó thì phải hiểu việc HCM đi Nga đã được Manuilski xếp đặt với đảng CS Pháp để được phái sang Nga dự đại hội kỳ V của Đệ Tam Quốc Tế với tư cách đảng viên CS Pháp.
Tác giả nhận định rằng lúc bấy giờ Manuilski rất cần những ý kiến về Phương Đông và các vấn đề thuộc địa, để thay Lênin (đang ốm nặng) tranh luận với M.N. Roy, lãnh tu. Ấn Cộng, về các vấn đề Phương Đông. Do thế mà HCM trở thành nhân vật quan trọng “được bầu vào chủ tịch đoàn của QT3.” (4) trở thành một thứ Kominternchik – tên gọi của một ủy viên của QT3, một người đã cống hiến hoàn toàn cuộc đời mình để phục vụ cho Quốc Tế CS. Nguyễn Ái Quốc là người như thế đó. (5)
Và tác giả kết luận: “Từ đó Hồ không còn là một chiến sĩ bình thường nữa, mà là một cán bộ quan trọng của bộ máy Komintern.” (6) Tác giả cho biết theo các tài liệu của Huỳnh Kim Khánh, có một thời gian dài “…địa vị của Hồ bị giảm suy bởi vì, ngược lại với các người khác, ông từ chối tuân phục theo ý muốn của Mátxcơva, do ông không phải là “quốc tế vô sản”
nhưng là cách mạng yêu nước.” (7) Nhưng tác giả dựa vào tài liệu của Hồng Hà để quả quyết, HCM vẫn là “một Kominternchik phục vụ cho Komintern và được xem như một ủy viên trưởng thành của đảng CS Đông Dương” (8) Tác giả cũng dẫn lời HCM lên án gắt gao nhóm Tờ-rốt-kít để chứng minh HCM luôn trung thành với đường lối của Stalin: “Hồ làm tất cả để cho các thuộc hạ của mình bám riết chặt chẽ vào đường lối chống Trotsky…Ngay tại nhà ga, trước khi các đại biểu lên xe lửa, lời căn dặn cuối cùng của ông là họ phải chuyển lại cho Lê Hồng Phong mệnh lệnh là bất cứ ở trường hợp nào cũng không được hợp tác với bọn Trotskít.” (9)
Theo tác giả thì người như HCM và ở vào vị trí đó, “không có quyền quyết định về mặt chiến lược, mà phải chứng tỏ là khéo léo về mặt chiến thuật.” Phải chăng quyết định áp dụng đường lối dân tộc là bước chiến thuật để hoàn thành chiến lược cách mạng vô sản quốc tế mà HCM theo đuổi đã có một lúc bị ngờ vực? Để kết luận, tác giả viết: “Ta có quyền nghi ngờ sự khôn ngoan và lòng trung thực của người đó (ý nói ông Hồ) khi ông ta đã chọn con đường đó mà không nói cho họ biết ngay từ đầu một cách minh bạch rõ ràng. Những tai họa kinh hoàng đã dồn dập đè nặng lên dân tộc VN từ cuộc chiến thắng của CS năm 1975 cho phép chúng ta, còn bắt buộc chúng ta nữa, phải chấp nhận một kết luận như thế”.
Bài thứ tư, Thập niên cuối của cuộc đời HCM của Ralph Smith do Lê Đình Thông chuyển ngữ chỉ nói về hoạt động của HCM trong mười năm cuối đời. Ngay trang đầu, tác giả viết: “Một vài chuyên gia tình báo phương Tây có xu hướng tin rằng cuối đời ông, HCM chỉ còn ngồi làm vì và quyền lãnh đạo đã chuyển sang tay người khác.” (10) Tác giả trưng dẫn tiết lộ của Hoàng Văn Hoan, người bi. Lê Duẩn kết án tử hình vắng mặt, để cho rằng chuyện đó có vẻ đáng tin!
Tuy nhiên, tác giả đã ghi lại sự kiện HCM tiếp đón nhiều phái đoàn quốc tế, chủ trì những hội nghị quan trọng của đảng và nhà nước, cho thấy có thể HCM còn nắm thực quyền – đặc biệt là việc HCM có ảnh hưởng lớn đối với thế giới và luôn luôn cố giữ hòa khí với cả Liên Xô và Trung Cộng để nhận được viện trợ của cả đôi bên càng chứng tỏ điều đó. Do đó, tác giả đã đi đến kết luận ngược lại: “Sự việc này là một bằng chứng tỏ rõ Hồ không phải chỉ là một lãnh tụ hoàn toàn bị động trong tình huống khó xử này.” (11)
Về các phe nhóm tại miền Bắc lúc đó, theo tác giả, Lê Duẩn thân Liên Xộ Còn Trường Chinh và Hoàng Văn Hoan thân Trung Cộng. Nhưng tác giả cho rằng Trung Cộng đã không thành công trong việc gây ảnh hưởng quyết định với Hà Nội do sự việc Lê Duẩn (mà tác giả cho là thân Nga) đã nắm được quyền hành tuyệt đối sau khi HCM chết. Tác giả kết luận: “Nhưng cho tới nay người ta vẫn không biết là quyền hành của Lê Duẩn bắt nguồn từ một quá trình tiệm tiến suốt 4 năm trước đó – theo như Hoàng Văn Hoan đã nêu – hay là xuất phát từ một cuộc đảo chính trong thực tế ngay sau khi HCM từ trần.” Với lời kết luận này, tác giả có vẻ vẫn nghĩ HCM đã nắm trọn thực quyền tới phút cuối trong đời và ngờ vực là đã có một cuộc đảo chính theo một cách nào đó của phe nhóm Lê Duẩn sau cái chết của HCM.
Bài thứ năm của tác gia? Bùi Xuân Quang có tựa đề thật dài, Trải qua một cuộc “bể dâu” Chiến tranh chống Pháp (1945-1946), Những điều trông thấy trong cuộc đời HCM.
Tác giả cũng mở đầu bài viết bằng tình trạng HCM bị lấn át bởi các phe nhóm thủ hạ: “…Ngày nay người ta được biết Hồ đã thường xuyên phải chịu áp lực của các đồng chí chiến đấu, hoặc bằng tình đồng chí, hoặc với kỷ luật đảng”. (12) Tác giả còn cho rằng tình trạng lấn át này đã có từ năm 1946 thể hiện qua việc khai chiến với Pháp. Theo tác giả, khi HCM sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau thì ở trong nước Võ Nguyên Giáp chuẩn bị chiến tranh và “Tổng bộ (Việt Minh) đã chấm dứt nhiệm vụ của Hồ và sẵn sàng đối đầu với Pháp… Thái độ cực đoan nóng lòng của tổng bộ ngày 19-12 (1946) đã dồn Hồ đến chân tường, đưa đến cuộc đảo chính trong nội bộ đảng” Nhưng tác giả nói tình thế cấp bách khiến đám thủ hạ “phải để Hồ khôi phục lại tình thế.” (13) Dù trải qua tình huống thăng trầm nào trong đời hoạt động thì HCM vẫn luôn là kẻ say mê quyền lực bất chấp các thủ đoạn gieo tai rắc họa khi cần thiết. Cho nên, tác giả kết tội HCM đã giết hại người quốc gia không khác nhà Hồ ở thế kỷ 15 chém giết không nương tay các con cháu nhà Trần. (14)
Tác giả trưng dẫn Lucien Laurat kể lại đã có lần HCM thổ lộ: “Tôi luôn đứng về phía quyền lực. Chỉ có bộ phận này mới có thể hậu thuẫn được cho tôi.” Tác giả còn nhắc đến một bức điện văn mà theo tác giả là hết sức kỳ cục, bởi vì bức điện ký tên Nguyễn Ái Quốc gửi cho HCM(!) để nói lên rằng “Hồ được Nguyễn hậu thuẫn”. Một câu nói khác của Hồ cũng được tác giả trích dẫn và cho là không kém kỳ cục:”Thà ngửi phân Tây còn hơn cả đời ăn phân Tàu”. Cuối cùng, tác giả kết án HCM và CSVN đã “cuỗm” lấy danh nghĩa độc lập để làm lợi cho phong trào CSVN, đồng thời “cấm đoán mọi quyền lực có thể xuất phát từ các đối thủ chính trị”.
Bài thứ sáu, Chính sách cải cách ruộng đất của HCM: sai lầm hay tội ác? của Lâm Thanh Liêm gồm 2 phần chính:
1) Các giai đoạn (chuẩn bị và thực hiện)
2) Kết quả.
Tác giả dựa theo những tài liệu chính xác về chiến dịch cải cách ruộng đất của CS tại miền Bắc và dành phần cuối nói rõ về vai trò của HCM. Về kết quả, tác giả trưng dẫn lời của một số cán bộ từng phụ trách công tác Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc những năm 1955-56 mà tác giả được gặp ở Saigon trước khi vượt biên ra nước ngoài: “Một cán bộ ước lượng 120 ngàn người bị giết oan (trong số này có 40 ngàn đảng viên). Một cán bộ thứ nhì ước lượng có khoảng 150 ngàn đến 160 ngàn người bị giết oan (trong đó có khoảng 60 ngàn cán bộ đảng viên). Tác giả dẫn thêm hồi ký của Hoàng Văn Hoan về sự tàn ác dã man trong Cải Cách Ruộng Đất, dù Hoàng Văn Hoan chỉ tả lại một phần nhỏ sự thực. Hoàng Văn Hoan đã viết: “Các đội cải cách đã để cho nông dân xỉ vả người bị gọi là địa chủ, thậm chí để cho nàng dâu xỉ vả mẹ chồng, con xỉ vả bố mẹ, mà người bị gọi là địa chủ cứ phải cúi đầu chịu, không được thanh minh phải trái…” Theo tác giả, Hoàng Văn Hoan xác nhận chính tác phong gia trưởng và ý thức tả khuynh của Trường Chinh “đã đưa đến những sai lầm nghiêm trọng là đánh tràn lan vào trung nông, phú nông và những người có một ít ruộng đất cho thuê, đánh tràn vào cả cơ sở đảng.” Tuy nhiên, tác giả không hoàn toàn chia xẻ cáo giác trên mà nghĩ rằng tác phong của Trường Chinh chỉ chịu một phần nhỏ trách nhiệm thôi, bởi lẽ “đánh tràn lan…. không phải là không có chủ ý. Bởi vì trung nông, phú nông, hay đảng viên nào mà không chịu tuân theo đảng một cách vô điều kiện, còn dám phê bình chống đối hay nghi ngờ đảng, thì bị gán cho tội địa chủ để thủ tiêu cho hết những phần tử đối kháng, hầu sau đó, đảng toàn quyền sinh sát trong mọi vấn đề mà không gặp trở ngại gì. Đó mới là điều quan trọng, và vì thế nên đảng và nhà nước lúc ấy mới tuyên bố Cải Cách Ruộng Đất đã thành công hay thắng lợi. Sửa sai chỉ là phụ, với mục đích xoa dịu sự chống đối, và cũng nhân thể giăng một cái bẫy khác hòng bắt thêm một mớ trí thức, văn nghệ sĩ…”
Tác giả bác bỏ luận điệu của Hoàng Văn Hoan trút hết tội cho Trường Chinh, vì cho rằng Trường Chinh không thể một mình chủ xướng một công việc cực kỳ quan trọng như vậy do trước hết trên đầu Trường Chinh vẫn luôn luôn còn có HCM vừa là chủ tịch đảng, vừa là chủ tịch nhà nước.
Bài thứ bảy, Đất nước mới, con người mới, xã hội mới: mẫu mực cu. Hồ đưa ta về đâu? là bài của Đinh Trọng Hiếu, một chuyên gia về dân tộc thực vật học.
Tác giả mở đầu bằng câu danh ngôn của HCM “không có gì quý hơn độc lập tự do” rồi từ tốn nêu ra những vi phạm quyền độc lập và tự do của cái đảng do HCM lãnh đạo. Với tư cách chuyên viên về dân tộc thực vật học, tác giả ghi trong mục “đất nước mới” về công lao HCM cổ võ trồng cây không đúng cách để ngày nay dân chúng trong chế độ do ông lập nên tha hồ phá rừng và phá núi vôi, làm hại môi sinh… Trong mục “con người mới”, tác giả viết: “cách đào tạo con người “mới” của cu. Hồ đã phá sản. Nhưng đó là phá sản tất yếu của ý chí chủ nghĩa, chưa có gì đáng lo. Quan trọng hơn: khi đã coi “chủ nghĩa anh hùng cách mạng” là phương cách chỉ đạo, dùng bạo lực làm phương tiện cốt cán, lấy căm thù làm động cơ hành động, thì dần dà đưa con người cách mạng “mới” vào con đường không lối thoát”. Tác giả trích báo chí trong nước để minh họa tính sa đọa cùng cực của “con người mới”: “Lái xe coi mạng người như ngóe, vì còn quen cách lái dưới bom và dọc đường mòn HCM, coi luật pháp như loài xa xỉ phẩm. Giải quyết những việc hàng ngày, dùng súng, dao găm, lựu đạn vv…là điều hay gặp, báo chí vẫn đăng. Cái dã man đã vào nếp sống: đi đường thấy bà cụ ngã xe không ai đến đỡ (Hà Nội, Bờ Hồ, 30-10-1989); trời mưa lụt lội, thấy một thiếu nữ ngã ướt hết quần áo, cả phố vỗ tay cười (Hà Nội, Kim Liên, 15-10-1989, 13.30 giờ)…Con mất tiền bắt cha thề là không ăn cắp, cha phải thắp hương và chặt ngón tay (đã đăng báo); con cãi mẹ cầm chầy đập vào thái dương, bà cụ chết giãy đành đạch (đầu tháng 9-1989, nhà hàng xóm, nông thôn Bắc bộ) vv và vv…”
Trong mục “xã hội mới”, Đinh Trọng Hiếu trích đăng lại hai câu trong bài tham luận Nguyễn Ái Quốc đọc tại đại hội đảng xã hội Pháp ở Tours, năm 1920, về tự do và 2 vần thơ của HCM để kết luận ông Hồ đã tiên tri, ngày nay xã hội VN y hệt như vậy. Hai câu nói trước đại hội Tours của HCM: “Chúng tôi không có tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền sống hoặc đi du lịch nước ngoài”
Và, 2 vần thơ của HCM:
Thân người chẳng khác thân trâu,
Cái phần no ấm có đâu đến mình.
Cái phần no ấm có đâu đến mình.
Tác giả trích thêm 4 câu thơ khác của HCM:
Sức còn yếu tuổi còn thơ
Mà đã khó nhọc cũng như người già
Có khi lìa mẹ lìa cha
Để làm tôi tớ người ta bên ngoài.
Mà đã khó nhọc cũng như người già
Có khi lìa mẹ lìa cha
Để làm tôi tớ người ta bên ngoài.
Mượn lời một tác giả vô danh thuật truyện, tại kinh đô, đạo Phật mất hết ý nghĩa, chỉ còn những từ ngữ rỗng không, tác giả kết thúc với câu tiên đoán bi thảm về tình trạng xã hội
VN, dưới triều đại HCM: “Miệng Phật nín thinh. Đêm mạt pháp bắt đầu.”
VN, dưới triều đại HCM: “Miệng Phật nín thinh. Đêm mạt pháp bắt đầu.”
Bài thứ tám, Huyền thoại HCM, do Olivier Todd viết và Nguyễn Văn chuyển ngữ. Olivier Tođ là nhà văn, nhà báo Pháp nổi tiếng từng điều khiển 2 tờ tuần báo Le Nouvel Observateur – Người Quan Sát Mới và L’Express – Tin Nhanh. Oliver Todd cũng viết nhiều tác phẩm về VN được hâm mộ, trong đó có Vịt Cà Mâu, Saigon thất thủ, Tháng Tư Đen – Le cruel Avril và tác phẩm mới nhất, Cuộc thương thuyết – La négotiation. Ban đầu Oliver Tođ là người ca ngợi chính nghĩa giải phóng dân tộc của HCM nhưng sau 1975, thái độ của ông đổi hẳn.
Mở đầu bài viết, tác giả nhận xét tổng quát: “Hồ chắc chắn là một lãnh tụ có tầm vóc: ông ta chiếm và giữ quyền hành – với một giá quá đắt… Nhưng lưu danh thơm? Không! Lưu xú thì đúng hơn, đó là người đã đầy đọa dân hơn là giải phóng dân.”
Sau đó tác giả đưa ra những hình ảnh HCM do thủ hạ và những nhà báo thiên tả tô vẽ: Đi dép râu, trong sạch như thánh, khắc khổ, ăn ít, một thứ thánh Phan-xi-cô thành Assise của chủ thuyết Lênin. Đặc biệt là “có thể khóc bất cứ lúc nào (chùi mắt trong khăn tay đỏ)…Người ta có thể tin dễ dàng rằng “bác” dường như mềm dẻo hơn đám thuộc hạ. Bồ câu trong đám diều hâu. Cũng như Staline dưới mắt đại sứ Mỹ trước đệ nhị thế chiến.” (15)
Olivier Todd gọi một loạt tác phẩm “nịnh bợ” HCM của những nhân vật như Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp… là loại thô lỗ, đê tiện. Về phía các tác giả ngoại quốc, Olivier Todd nêu đích danh Wilfred Burchett, một tác gia? CS Úc cùng với Jean Chesneaux, Philippe Devillers và mệnh danh đây là những tên hề của lịch sử, vì không cải chính sau khi đã biết mình sai. Olivier Todd nhắc nhiều đến cuốn Fire in the lake – Lửa trong hồ của bà Frances Fitzgerauld (đã tạ ơn sư phụ là Paul Mus), và đặc biệt là cuốn viết về HCM của Jean Lacouture. Olivier Todd khen cuốn sách viết hay:”Lacouture đã viết bằng sự cuồng nhiệt của ông quan tòa tự ăn năn và cái duyên dáng của một nữ danh ca lỗi lạc.” Nhưng sau đó Olivier Todd dành hơn 10 trang sách phơi bày những sai trái trong cuốn sách của Lacouture. Olivier Todd nêu nhiều cuộc tàn sát thủ tiêu đối lập thuộc đủ mọi phe phái không CS trong khoảng 1945-46 để bác bỏ ý kiến của Lacouture cho rằng HCM không thích bạo động và kết luận: “Trong nhãn giới của J. Lacouture có một khoảng tối om khiến ông ta cũng như lâu la của ông ta không thấy được sự thật.” Tuy vậy, tác giả vẫn mong Lacouture sẽ lên tiếng để góp phần dựng lại bức chân dung chính xác: “Không một Lacouture nào có trách nhiệm trong công cuộc CS hóa VN. Ông ta chỉ có lỗi bóp méo sự thực, tuyên truyền xuyên tạc khoảng 20 năm. Chúng ta mong mỏi Lacouture trở lại vấn đề VN, phá tan huyền thoại HCM. Chưa trễ lắm đâu.”
Trong phần kết luận, tác giả viết về HCM: “Phương trình cá nhân “cách mạng” của Hồ rất đơn giản: Nhu trí (software) sản xuất từ Moscow. Mỗi lần gặp khó khăn trầm trọng, bò về với mấy ông Bolshevik để học hỏi, lãnh chỉ thị. Cương trí (hardware), từ Tàu, Hồ dùng nơi đó làm thí nghiệm và là bàn đạp để chiếm VN. Thêm vốn liếng riêng của cá nhân Hồ, thơ, thuốc, tiếu ngạo chẳng có giá trị gì trong cuộc chơi đã được ấn định sẵn. Hồ có khả năng che đậy tài tình, có tài làm đầu đảng, tính quyết định và tàn ác dị thường.”
Và đây là những dòng cuối bài: “VN quốc gia không cung cấp nổi cho dân mìền Nam một ý thức hệ có khả năng chống chọi với CS của Hồ ở miền Bắc. Phe quốc gia cũng không có một huyền thoại nào có thể đem ra so sánh với Hồ. Ngày nay người ta biết thế nào là Staline. Phải chờ một thời gian nữa để cho bộ mặt thật của Hồ từ huyền thoại đi trở về lịch sử, về với giới trí thức và quần chúng. Chiến thắng cuối cùng của Hồ: Lăng và xác ướp của “Bác” ở Hà Nội. Người đi viếng phải đi rất nhanh: Chết hay sống, chúng ta không có quyền nhìn Hồ quá
lâu, hoặc quá gần.”
Bài cuối cùng, Vị trí HCM trong diễn tiến của tình trạng nhơn quyền tại VN, Nguyễn Ngọc Huy dành 58 trang chứng minh chế đô. CS mà HCM xây dựng ở VN thua cả chế độ quân chủ lẫn chế độ thực dân về đủ mọi phương diện: chính trị, tư pháp, kinh tế, xã hội.
Tác giả trích dẫn nhiều sự việc cụ thể đối chiếu với những lời tuyên bố của chính HCM tạo một sức thuyết phục rõ rệt cho mọi ý kiến phê phán. Tác giả còn chứng minh lập luận của mình bằng nhiều điểm tựa dựa trên lý thuyết CS, kinh điển Nho Gia, Pháp Gia, Hàn Phi thời phong kiến, các bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Pháp, bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948 và các bộ luật VN thời quân chủ vv…Ví dụ, tác giả nhắc lại vài thực tế đời sống dưới thời Pháp thuộc: “Về mặt học thuật người VN không còn phải hạn chế sự suy luận trong khuôn khổ của đạo lý lưu hành thời quân chủ. Các học thuyết và tư tưởng Tây phương mọi loại đã du nhập xã hội VN.
Trong số này có cả học thuyết và tư tưởng chống chọi lại ý thức hệ dân chủ tự do lưu hành tại Pháp, như các học thuyết và tư tưởng Phát xít hay Marx-Lênin chẳng hạn.
- Quyền tự do tín ngưỡng được tôn trọng.
- Các báo và sách viết bằng tiếng Pháp được xuất bản tự dọ . Trong đó mọi người được tự do phát biểu ý kiến về mọi vấn đề.
- Một số cơ quan đại diện dân chúng được thành lập như hội đồng tỉnh, thành phố, viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ
- Quyền tự do tín ngưỡng được tôn trọng.
- Các báo và sách viết bằng tiếng Pháp được xuất bản tự dọ . Trong đó mọi người được tự do phát biểu ý kiến về mọi vấn đề.
- Một số cơ quan đại diện dân chúng được thành lập như hội đồng tỉnh, thành phố, viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ
…Các cuộc bầu cử thực sự tự do. Từ 1933 đến 1939, những người theo đệ tứ Quốc Tế thuộc nhóm Tranh Đấu, tuy chống đối Pháp một cách công khai và mạnh mẽ, đã nhiều lần đắc
cử vào hội đồng thành phố Saigon, và năm 1939, liên danh của họ cũng đã đắc cử vào hội đồng quản hạt Nam Kỳ”.
cử vào hội đồng thành phố Saigon, và năm 1939, liên danh của họ cũng đã đắc cử vào hội đồng quản hạt Nam Kỳ”.
Tác giả dẫn chứng CS không chịu ký tên trong bản quốc tế nhân quyền 1948 (mãi thời Gorbachev mới ký muộn) lấy cớ nó chỉ là hình thức. “Nhưng vì chế đô. CS không chấp nhận các nhân quyền Tây phương mà các nhân quyền “có thực chất” của họ lại chỉ thể hiện được trong tương lai xa vời không hạn định – lúc chế đô. CS đã hoàn thành – nên trong thực tế, người dân trong chế đô. CS hoàn toàn không được hưởng nhân quyền nào. Bởi đó, tại VN, về mặt nhân quyền, chế đô. CS đã thoái bộ hơn cả chế độ thực dân lẫn chế độ quân chủ.” (16)
Tác giả mượn ý trong thơ Nguyễn Chí Thiện (còn trong tù CS) để kết thúc bài viết: “Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, một nạn nhân của những vi phạm nhân quyền thời CS lãnh đạo VN, đã bảo rằng phải hàng triệu năm tổ tiên loài người mới tiến từ trạng thái vượn lên trạng thái người, nhưng chế đô. CSVN chỉ trong mấy năm đã đẩy người VN ngày nay lui về trạng thái làm vượn. Khi chủ trương suy tôn HCM, phải chăng các nước hội viên của tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) có ý muốn tuyên dương thành tích hãn hữu này?”
Trong bài viết, tác giả không nêu đích danh HCM mà chỉ nói chung về CSVN, nhưng trước mắt tác giả, CSVN đã được đồng hóa với HCM và vì thế, tất cả tội ác của CSVN cũng chính là tội ác của HCM. CSVN không thể được hiểu là gì khác ngoài sản phẩm do HCM tạo ra theo chỉ thị của Quốc Tế CS nên mọi hành vi của CSVN không thể đặt khỏi vòng trách nhiệm của HCM.
.................................
Chú thích
(01)-(02)-(03)-(04)-(06) SD tr. 13, 45, 65, 72, 73
(05) Ghi chú của Mandelstam được tác giả trích dẫn.
(07)-(08)-(09)-(10)-(11) SD tr. 77-78, 85, 90, 103, 118
(12)-(13)-(14)-(15)-(16) SD tr 154, 157, 161, 278, 345
(05) Ghi chú của Mandelstam được tác giả trích dẫn.
(07)-(08)-(09)-(10)-(11) SD tr. 77-78, 85, 90, 103, 118
(12)-(13)-(14)-(15)-(16) SD tr 154, 157, 161, 278, 345
................................
Thêm tài liệu mới về gia phả Hồ Chí Minh
- Ông nội Hồ Chí Minh là ai?
- Em út của Hồ Chí Minh là ai?
- Đứa con rơi của Hồ Chí Minh là ai?
- Em út của Hồ Chí Minh là ai?
- Đứa con rơi của Hồ Chí Minh là ai?
Số phận con người: Không thể bất công kéo dài đến vậy!
* ông nội thật của Hồ Chí Minh
* Vương Chí Nghĩa là ai?
* Hoa Quốc Phong là con cả Mao Trạch Đông
* quyền sống bình thường của anh Nguyễn Tất Trung
* Vương Chí Nghĩa là ai?
* Hoa Quốc Phong là con cả Mao Trạch Đông
* quyền sống bình thường của anh Nguyễn Tất Trung
Tết Mậu Tý đến gần. Người ta thường nghĩ về quê hương, về người thân, về bà con họ hàng, về mồ mả tổ tiên…Thường vào dịp cuối năm, nhiều người tìm ra họ hàng mới, người thân mới. Những khám phá mới, có khi bất ngờ, đến lạ lùng, có trường hợp thú vị, lại có chuyện pha với đắng cay. Nhất là trong những gia đình dòng họ lớn, có tăm tiếng, đã và đang đi vào lịch sử.
- Ông Hồ Sĩ Tạo là ông nội Hồ Chí Minh: Đây là tin có thật, do nhà văn Hồ Sĩ Sênh, bút danh Trường Lam, hội viên Hội văn nghệ tỉnh Nghệ An, đưa ra, qua một sáng tác được công bố tại trại viết văn của Hội văn nghệ Nghệ An đầu năm 2007. Trường Lam đã sưu tầm tài liệu khá công phu từ những người thật việc thật có quan hệ chặt chẽ với ông phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, còn có tên Nguyễn Sinh Huy, nguyên tri huyện Bình Khê, cha đẻ Nguyễn Sinh Côn (Cung) là ông Hồ Chí Minh sau này, sau khi bị mất chức do tội ngộ sát, đã vào Nam bộ làm nghề thầy lang khám bệnh bốc thuốc.
Điều trên bảo đảm tính chân thật của sự kiện.
Theo tiểu sử chính thức Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Sinh Sắc là con ông Nguyễn Sinh Nhậm quê ở Kim Liên, huyện Nam Đàn.Thật ra ông Nguyễn Sinh Nhậm vợ chết sớm, ốm yếu, nhận lấy cô Hà Thị Hy thường gọi là cô Đèn,” cheo” cô về làm vợ mọn, khi cô đã có mang với ông Hồ Sĩ Tạo; ông Nguyễn Sinh Nhậm đặt tên cho con cô Đèn, sinh vào năm 1863 là Nguyễn Sinh Sắc, nhận là con của mình. Ông Nhậm chết sau đó 3 năm.
Chính ông Hồ Sĩ Tạo mới là người cha huyết thống của ông Nguyễn Sinh Sắc, là ông nội thật sự của ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ Sĩ Tạo sinh năm 1834 mất năm 1907, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, đỗ Gỉải Nguyên khoa Mậu Thìn (1868), làm quan, dạy học, có tiếng văn hay chữ tốt cả một vùng Nghệ Tĩnh, tiếng vang trong Kinh, ngoài Bắc, quan hệ xã hội rất rộng. Ông lại hào hoa phong nhã, thích ngâm thơ vịnh nguyệt, mê ca trù, nhiều vợ đông con. Ông yêu mến cô Hà Thị Hy quê làng Sài huyện Nam Đàn, xinh đẹp hát hay; ông lại dạy học ngay trong nhà cô.
Hồng nhan bạc mệnh, người tình của cô Hy tài hoa bao nhiêu thì chồng danh nghĩa của cô là ông Nguyễn Sinh Nhậm yếu kém nhạt nhẽo bấy nhiêu. Ông chết sau khi lấy bà chừng 3 năm; phận làm mọn thời ấy thật cực nhục, cả họ Nguyễn Sinh khinh thị hắt hủi 2 mẹ con bà; bà phải bỏ nhà, bỏ con ra đi. May là khi bà chết, có người thương xót mang xác bà về quê và chính ông Hồ Sĩ Tạo lại tổ chức chôn cất và đọc lời điếu cho bà.
Chính ông Hồ Sĩ Tạo đã chăm lo bồi dưỡng cho ” đứa con hoang” của mình thành danh, qua gửi gắm ở những học trò cũ của mình đã thành thầy giỏi và quan chức có thanh thế trong triều đình, như ông Cao Xuân Dục. Ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng năm Tân Sửu (1901), sau đó vào Huế nhận chức Thừa biện bộ Lễ.
- Vương Chí Nghĩa: em út của Hồ Chí Minh. Năm 1907, ông Sắc được bổ nhiệm Tri huyện Bình Khê, đến 1911 ông tự gây nạn lớn, khi trong cơn nát rượu, ông ra lệnh đánh một số nông dân chậm nộp thuế, làm một người chết. Ông bị kết trọng tội, suýt mất đầu. Tuyệt vọng, bị sỉ nhục, ông rời bỏ kinh đô và quê nhà, đi biệt vào phương Nam, tít vùng sâu Đồng tháp – Cao lãnh, tự xưng là Cụ Vương, làm nghề bắt mạch, bốc thuốc.
Một lão nông tên là Mai Nhuận, có cả gia đình hàm ơn cụ Vương cứu mạng trong nạn dịch lớn, tự nguyện gả cô con gái út cho cụ Vương để đỡ đần cụ trong tuổi già cô đơn mà cô gái cũng đỡ vất vả. Mối tình vùng sông nước giữa cụ Vương và cô gái họ Mai đã tạo nên một cậu con trai kháu khỉnh mang tên Vương Chí Nghĩa, sinh năm 1927. Đây là người em út chưa từng biết của ông Hồ Chí Minh.
Vương Chí Nghĩa dời nơi ở lên vùng Tây Nguyên, sống mai danh ẩn tích để giữ an toàn cho dòng họ khi đất nước chưa độc lập, lại chia đôi và chiến tranh. Vương Chí Nghĩa có 2 con trai: Vương Chí Hùng và Vương Chí Việt (sinh tháng 12-1959), cùng 5 con gái, trong đó một người mang tên Hồ Thị Minh Nguyệt đã cùng em là Vương Chí Việt xuất gia đi tu từ năm 1980. Vương Chí Việt mang pháp danh Thượng tọa Thích Chân Quang, hiện chủ trì chùa Phật Quang ở Bà rịa – Vũng tàu, đã tốt nghiệp khoa ngoại ngữ tiếng Anh. Mới đây năm 2007, Thượng tọa đã ra Nghệ An thăm viếng các làng xã quê hương ở Quỳnh Lưu và Nam Đàn, nhận họ hàng với chú bác, anh chị em, con cháu…Tuy nhiên về ông thày tu này đang có những nhận định khác nhau từ trong nước…
- Chuyện bên Tàu: Hoa Quốc Phong là con cả của Mao Trạch Đông Lại bắt sang chuyện Tàu. Trước đây vài năm, báo chí Hồng công lên tiếng nhiều lần cho rằng Hoa Quốc Phong từng là Thủ tướng Quốc vụ viện Trung quốc, rồi Chủ tịch Đảng CS Trung quốc là con trai ngoài giá thú của Mao Trạch Đông. Từ đó nhiều người bán tín bán nghi, vì trong các triều đình cộng sản, thật với giả, giả với thật cứ lộn nhèo với nhau, nhiều chuyện khó tin nhất có khi lại là thật, có chuyện ngỡ là của thiệt lại là của giả, của dỏm.
Gần đây báo chí Hồng công khẳng định chuyện trên đây là sự thật 100 phần trăm, và in hẳn cuốn sách nhỏ phát hành nửa công khai trên lục địa, kể đầu đuôi câu chuyện này. Talawas vừa đưa lên mạng.
Chuyện rằng năm 1920 khi Mao Trạch Đông 27 tuổi, xây dựng Tổ Thanh niên Cộng sản ở Trường Sa (thủ phủ tỉnh Hồ Nam), có quan hệ với một cô gái họ Diêu. Bố cô gái buôn thuốc lá. Mao và cô gái họ Diêu sinh ra một bé trai ngoài giá thú năm 1921 đặt tên là Hoa Quang Tổ; sau 2 năm cô gái họ Diêu ốm chết. Hoa Quang Tổ được một số gia đình thay nhau nhận nuôi, đổi tên là Hoa Thành Vũ, sau đó là Hoa Quốc Phong. [Một năm sau Mao mới gặp Dương Khải Tuệ và sinh ra con chính thức Mao Ngạn Anh].
Ngoài Mao ra, một số lãnh đạo cao nhất của đảng CS Trung quốc như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình …đều biết chuyện này và chú ý đào tạo, nâng đỡ quá trình trưởng thành của Hoa Quốc Phong. Năm 1950 Mao điều Hoa từ tỉnh Sơn Tây về tỉnh Hồ Nam quê nhà, với chức bí thư địa ủy của địa khu Tương Đàm (địa khu là cấp trên của huyện, cấp dưới của tỉnh). Hoa được đưa lên làm Trưởng ban Văn giáo tỉnh, Trưởng ban Mặt trận tỉnh,và đến 1968 vào ban chấp hành trung ương, là Bí thư thứ nhất tỉnh ủy Hồ Nam. Mọi việc đều giữ kín, không cho Hoa biết thân thế thật của mình.
Cho đến đầu năm 1966, Mao chỉ thị cho Chu Ân Lai nói rõ cho Hoa biết Hoa là con trai cả theo huyết thống của Mao và chỉ phổ biến trong nhóm lãnh đạo cao nhất, đồng thời chỉ thị cho Hoa ”cứ giữ lý lịch như cũ, không thay đổi quan hệ vốn có với Mao, vì lợi ích toàn cục của đảng”. Hoa đã phải ký vào văn bản cam kết như thế.
Sau khi Lâm Bưu làm phản tháng 9-1971, Mao điều Hoa Quốc Phong về Bắc Kinh, đưa vào Bộ chính trị, chức vụ là phó thủ tướng, khi Hoa vừa 50 tuổi.
Sau khi Mao chết tháng 9-1976, Hoa Quốc Phong được đưa vọt lên là Chủ tịch ban chấp hành trung ương đảng kiêm Chủ tịch Ủy ban quân sự Trung ương vào tháng 7-1977, cho đến tháng 6-1981 thì bị đưa xuống Phó chủ tịch, Hồ Diệu Bang lên làm Chủ tịch, đến Đại hội XII (9-1982) Hoa ra khỏi trung ương, rồi về hưu sau đó ở Hồ Nam.
Hoa Quốc Phong nhiều lần khẩn khoản xin được bạch hóa lý lịch thật, đổi sang họ Mao, nhưng đều bị từ chối, với lý do phải ”bảo vệ danh dự của lãnh tụ và của đảng ”.
Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Hoa Quốc Phong nay 86 tuổi vẫn quan hệ chặt chẽ với Mao Lina, em gái út của mình, nay đã 67 tuổi, con của Mao và Giang Thanh; Hoa hiện sống ở Thiều Sơn, Hồ Nam quê của Mao và tự mình xử sự như người tiếp nối tự nhiên của dòng họ Mao.
- Phải đối xử công bằng với anh Nguyễn Tất Trung: Trên đây nói về ông Hồ Sĩ Tạo là người ông nội thật sự của ông Hồ Chí Minh, về Vương Chí Nghĩa là em út cùng cha khác mẹ với ông Hồ Chí Minh, về Thượng tọa Thích Chân Quang (Vương Chí Việt) là cháu gọi ông Hồ Chí Minh là bác ruột, về cả chuyện ông Hoa Quốc Phong nay được biết rõ là con cả theo huyết thống của Mao Trạch Đông… chỉ để nói đến trường hợp anh Nguyễn Tất Trung.
Tất cả những sự thật trên đây đều bị chế độ cộng sản phủ nhận, đi với những sự giả dối và bịa đặt bị cưỡng bức là sự thật. Chế độ độc quyền đảng trị ép mọi người phải hiểu rằng ông nội của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Nhậm chứ không phải là Hồ Sĩ Tạo, rằng ông Hồ chỉ có chị cả là cô Thanh, có bí danh là Bạch Liên, người anh là ông Nguyễn Tất Khiêm, còn gọi là ông Khơm, và em út là Xin chết sớm sau khi sinh vào năm 1904 (Mậu Tuất), chứ không có anh chị em nào khác.
Một trong những nạn nhân bi thảm kéo dài nhất của kiểu lừa dối trên đây là anh Nguyễn Tất Trung, con của ông Hồ Chí Minh và cô Nông Thị Xuân, một cô gái Tày quê ở làng Nà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao bằng. Cô được Trần Đăng Ninh, chủ nhiệm hậu cần quân đội chọn rồi đưa về Hànội nhằm ”phục vụ” ông Hồ. Cô được bộ công an của Trần Quốc Hoàn quản lý, dấu tại ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông thợ nhuộm, để hàng tuần đưa vào phục vụ ông Hồ 1, 2 đêm. Mối quan hệ ấy đưa đến kết quả là cô Xuân cho ra đời vào cuối năm 1956 một cháu bé được ông Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung theo họ cũ của mình (Nguyễn Tất Thành).
Trần Quốc Hoàn nổi tiếng dâm loạn đã nhiều lần cưỡng hiếp cô Xuân, bị cô chống lại quyết liệt, có cô Vàng là em họ ở cùng phòng với cô Xuân biết rõ. Nhiều lần con quỷ râu xanh này trói cô Xuân vào giường để cưỡng hiếp, hắn còn đe dọa 2 cô không được hé môi nói với ai, nhất là không được bẩm báo ông Hồ. Hoàn còn dương súng ngắn đe nẹt 2 cô rằng :” chúng mày liệu hồn, đến ông Hồ cũng nằm trong tay tao đây, hiểu chưa?”. Thế rồi sau một cuộc cưỡng hiếp cực kỳ thô bạo, tên Hoàn sợ rằng cô Xuân sẽ báo với ông Hồ, Hoàn liền dựng lên một tai nạn xe ô tô trên đường đê gần làng Chèm vào tờ mờ sáng để thủ tiêu cô. Ông Nguyễn Minh Cần lúc ấy là phó chủ tịch uỷ ban nhân dân Hà nội đã biết rõ vụ án mạng này, với những biên bản khám mổ tử thi của bệnh viện Việt – Đức. Sau đó cô Vàng bị đuổi về Cao bằng và ”chết đuối” trong một nghi án trên sông Bằng Giang; chồng chưa cưới của cô Vàng khẳng định hung thủ là tay chân của Trần Quốc Hoàn, kẻ sát nhân muốn bịt hết kẽ hở về tội ác của mình.
- Những nạn nhân một cuộc án mạng giữa cung đình: Cô Xuân, cô Vàng, anh thương binh nặng chồng chưa cưới của cô Vàng đều là những nạn nhân của chế độ toàn trị giả đạo đức, hiện còn ngậm đắng nuốt cay dưới suối vàng vì nỗi oan khiên của họ vẫn chưa được làm sáng tỏ; bọn tội phạm bất nhân của một chính quyền đàn áp lấy công an làm nòng cốt vẫn còn lộng hành.
Ở đây, lúc này, toàn xã hội ta cần đặc biệt chú trọng đến số phận, đến nỗi oan khiên đeo đẳng một con người còn sống và gia đình anh, đó là anh Nguyễn Tất Trung, đứa con không được thừa nhận của ông Hồ Chí Minh và cô Nông Thị Xuân.
Đã 51 năm nay, hơn nửa thế kỷ, anh Trung sống lay lắt về mặt pháp lý, không có giấy khai sinh thật, không được nhận cha đẻ của mình, không được nhận mẹ đẻ của mình,chưa được một lần thăm mộ và thắp hương trên mộ mẹ; anh không được về quê hương bản quán quê nội cũng như quê ngoại để nhận bà con họ hàng, không được biết, và dù biết cũng không được nhận ai là ông bà, chú bác, anh chị em, con cháu ruột thịt của mình.
Cả cuộc đời anh và đời vợ và con anh bị đặt trong thế bất công và phi lý, không có một văn bản pháp lý nào quy định, sống không có căn cước thật, bị xô đẩy, đưa qua chuyển lại tùy tiện theo ngẫu hứng của giòng đời. Trung chỉ được yên ấm trong lòng mẹ Xuân và trong vòng tay êm ái của dì Vàng có vài tháng ngắn ngủi, để rồi côi cút, cô đơn, không hiểu gì cho rõ về cuộc đời mình. Ông Sao Đỏ – Nguyễn Lương Bằng đưa bé Trung về gia đình được vài tháng trong năm 1957, rồi giao lại cho gia đình tướng Chu Văn Tấn trên Thái Nguyên vài năm. Sau đó, các bà Hội phụ nữ cứu quốc trung ương đưa chú bé vào trại mồ côi của Hội, rồi vào trường Nguyễn Văn Trỗi dành cho con liệt sỹ. Vào những năm 1967 – 1968, cậu bé Trung thông minh, nhanh nhẹn, bắt đầu tìm hiểu thế giới xung quanh, cũng bắt đầu tò mò về căn cước thật của mình, thì 2 đợt ốm nặng ập đến, có lúc tưởng như không qua khỏi. Bóng đen của tên “lưu manh xứ Nghệ” trở thành trùm công an cộng sản – quỷ dâm ô Trần Quốc Hoàn lại hiện ra. Tên này lo sợ bị lật tẩy, đã dùng thủ thuật an ninh cộng sản được thày Tàu tiếp tay, cho cậu bé uống và tiêm nhiều lần thuốc độc, thuốc lú, gây thần kinh hỗn loạn, khi quên khi nhớ, có lúc như ngớ ngẩn, có khi ngồi thừ vô cảm hàng buổi, mất hẳn sinh khí, như kẻ vô hồn. Ông Hồ mất vào tháng 9-1969 khi cậu Trung vừa ra khỏi cơn ốm dài. Trước khi mất, ông chỉ mong được đi gặp Cụ Mác cụ Lê, quên khuấy còn có đứa con bị bỏ rơi đang băn khoăn về lý lịch thật của mình.
Cái may cho cậu Trung là sau khi ông Hồ mất, ông Vũ Kỳ, thư ký riêng lâu năm (từ năm 1948) của ông Hồ đón Trung về gia đình, nhận Trung làm con nuôi, coi như con đẻ của mình, đi học trường phổ thông Chu Văn An cạnh Hồ Tây cùng 2 con ông là Vũ Quang và Vũ Vinh, cùng độ tuổi với Trung. Đây là thời kỳ ổn định, ấm cúng nhất của anh Trung, nhưng bệnh đau đầu dai dẳng không cho anh vào được trường Đại học. Ông Vũ Kỳ còn quan tâm đến việc lập gia đình cho Trung, và đám cưới được tổ chức khi anh 32 tuổi, vào năm 1988, với cô Lưu Thị Duyên, thuộc một gia đình bình thường. Anh chị có một cháu trai kháu khỉnh, sinh năm 1992, đặt họ và tên là Vũ Thanh, sau đổi là Nguyễn Thanh Trung, vì tuy Trung rất quý ông Vũ Kỳ, nhưng vẫn nuôi ý muốn tìm trở về gốc gác thật của mình.
Trong xã hội Việt nam suốt nửa thế kỷ qua, không có một con người nào sống trong tình trạng cay đắng đặc biệt như anh Trung. Anh bị mất quyền được là mình. Anh luôn phải đeo chiếc mặt nạ. Anh không có cha thật, mẹ thật, anh chị em thật của mình. Anh là người công dân lương thiện cực hiếm trong xã hội không có căn cước thật. Anh không hề có một tội nào dù là nhỏ nhất. Thắc mắc về cội nguồn, anh có chăng? biết hỏi ai cho ra lẽ? Anh tự biết, nếu hỏi với người cai quản anh, có khi mang vạ vào thân. Vì anh có thể lờ mờ hiểu rằng người đẻ ra anh có liên quan đến nhiều vụ án mạng kinh khủng. Anh ngại, anh sợ. Nhiều người biết, và họ thấy ở anh luôn có sự không bình thường; bệnh trầm cảm, phẫn chí, lầm lỳ, tâm thần bất định…luôn bám chặt anh.
- Thời minh bạch và hội nhập, sự giải thoát: Chúng ta hãy tưởng tượng nỗi hận đời trong lòng anh Nguyễn Tất Trung, khi tâm trí anh đã trở lại gần như bình thường 5, 6 năm nay, như một số anh em trong nước cho biết, sau khi “thuốc lú” độc ác đã tiêu tan với thời gian. Bao nhiêu câu hỏi “vì sao?”, ” vì sao? ” gậm nhấm tâm hồn anh. Vì sao anh lại phải sống u ẩn, trong bóng tối mãi thế này? Vì sao mình lại không được là mình? phải mang mặt nạ kỳ quặc mãi thế này? Cái quý nhất của con người là căn cước riêng biệt để phân biệt với mọi người khác đã bị tịch thu vĩnh viễn. Quyền cao quý nhất là quyền được làm một con người, được là chính mình đã bị tước đoạt. Một điều phi lý bất công anh có vẻ không sao hiểu và chịu nổi.
Vẫn chưa hết. Câu hỏi ai oán nhất làm anh đau xót là về mẹ anh. Anh chỉ có một bức ảnh hơi mờ ảo về người mẹ xinh đẹp và hiền hậu của anh, đôi mắt sáng mà dịu, hàm răng hé trắng, mái tóc bồng, áo len cụt tay tự đan, ảnh quý chụp năm 1956 ngay sau khi sinh anh; nhưng còn thiếu cháy bỏng những di vật có thể còn,- bộ quần áo, chiếc gương, lược – , những hiểu biết về ông bà ngoại, về họ hàng thân thuộc ở Nà Mạ hiện còn là những ai để ngày nào đó anh sẽ đưa vợ con anh lên thăm.
Nỗi ám ảnh lớn là cái chết bi thảm của người mẹ yêu quý của anh đã diễn ra như thế nào vào sáng 12-2-1957 ấy, vì sao? ai là thủ phạm? Mộ mẹ anh ở đâu sau khi mổ tử thi ở bệnh viện Việt – Đức thì người ta mang chôn nơi nào? có ai chăm sóc nấm mộ thiêng ấy, bao giờ anh và vợ con anh được thăm viếng? Lại còn cái chết bi đát của dì Vàng, mà vòng tay đã ôm ấp anh từ những ngày trứng nước, có phải đã bị giết ngày 2-11-1957 rồi quẳng xuống sông Bằng Giang? Phải chăng như có người biết, anh vẫn gìn giữ một phiên bản lá thư của anh thương binh chồng chưa cưới của cô Vàng gửi ông Nguyễn Hữu Thọ Chủ tịch Quốc hội (đề ngày 29-7-1983) để quyết tìm hiểu cho ra sự thật. Bức thư tuyệt mệnh này đã được gửi ra hải ngoại và một bản sao đã được một người bạn chuyển cho anh. Có lần anh đã mạnh dạn tìm đến nhà tướng Ngô Thế Nùng, em rể ông Hoàng Minh Chính để cố hỏi dò về cái chết bi thảm của mẹ anh.
Việc thông tin công khai, nói lên đầy đủ sự thật về Nguyễn Tất Trung nay đặt ra là đã chín muồi. Nỗi hận ấp ủ nửa thế kỷ đến hồi phải được giải tỏa. Vì đất nước đang trong quá trình đổi mới không ai cưỡng lại nổi, tính trong sáng, minh bạch đã được cam kết trước toàn dân và thế giới.
- Chia sẻ yêu thương: Trước hết những người có lương tâm và tình người trong xã hội ta dễ thông cảm với anh Nguyễn Tất Trung và lòng khao khát của anh tìm hiểu sự thật về mình, vượt lên số phận bất công phi lý do hoàn cảnh khe khắt tạo nên, và sẵn sàng khuyến khích, tiếp sức cho anh bước vào cuộc đời mới, có căn cước thật, được là chính mình.
Được biết anh Trung thường ngồi suy tư hàng giờ, và từng nói với bạn rằng anh đã khóc cạn nước mắt về người mẹ quý yêu, rằng cuộc đời anh chìm nổi tưởng là chết nhiều lần rồi, nay thì phải sống để biết những điều cần biết …
Tôi cùng một số bạn mạnh dạn đưa câu chuyện về anh Trung và gia đình vì thông cảm sâu sắc với hoàn cảnh của anh, trên trách nhiệm con người đối với con người, không ai có quyền dửng dưng với một số phận éo le, cô đơn, có vẻ bế tắc như thế, để tiếp sức nghị lực cho anh đứng dậy là chính mình giữa thanh thiên bạch nhật. Anh rất ham tin tức trên đời, hằng ngày đọc các bản tin trên mạng. Anh thông minh, tư duy đã hồi phục, tự mình biết cách ”ra công khai” như thế nào và từ đó làm chủ đời mình, không cần ai chỉ vẽ, o ép.
Thật ra tôi đã có lòng cảm mến anh thanh niên Nguyễn Tất Trung từ gần 20 năm nay. Vào năm 1989 tôi hay ghé qua nhà ông Vũ Kỳ, khi ấy đang là Giám đốc bảo tàng Hồ Chí Minh. Ông Kỳ và tôi lúc ấy rất không hài lòng khi thấy họ xóa bỏ 3 đoạn của di chúc ông Hồ Chí Minh, các đoạn nói về: mở ngay cuộc kiểm điểm sau toàn thắng để phòng ngừa bệnh kiêu ngạo; giảm một năm thuế nông nghiệp để ”thư dân”; làm ”hỏa thiêu”. Tôi đặt và đăng bài viết của ông Vũ Kỳ trên báo ”Nhân dân Chủ nhật” phơi bày 3 điểm ấy, buộc họ phải đưa ra Quốc hội, công bố lại ” toàn bộ di chúc ”, đưa công khai bản chụp nguyên si cả tập di chúc, ra nghị quyết giảm thuế nông ngiệp 50% trong 2 năm. Ông Kỳ và tôi bị ban bí thư lên án là vô kỷ luật, bị triệu tập đến ”làm việc với lãnh đạo” ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân, cứ như một phiên tòa. Sau đó tôi hay ghé chơi nhà ông Kỳ, và gặp cả 3 cháu Quang, Vinh và Trung ở đó. Quang và Vinh người mập mạp như ông Kỳ, còn Trung thì gầy, cao, rất xinh trai. Vợ Trung là cô Duyên cũng xinh, trắng, giản dị; 2 vợ chồng đã ở riêng, đang cố chữa bệnh để mong có con. Hai vợ chồng vẫn thường về thăm ông Vũ kỳ và gia đình.
Tôi cũng được biết tháng 4-2005, khi ông Vũ Kỳ ốm nặng nằm trong bệnh viện Việt-Xô sát bờ sông Hồng, Trung luôn thay phiên với Quang và Vinh túc trực bên cạnh bố; khi ông Kỳ mất, Trung cũng mặc áo xô, chống gậy, đội mũ rơm trong lễ tang.
Vì bị bệnh, học không đến nơi đến chốn, nên Trung khó kiếm việc làm. Có lúc làm giữ kho, bảo vệ công xưởng. Khi sức khỏe khá, 2 vợ chồng mở quán cà-phê, ở sau ga Hàng Cỏ – Hà nội, rồi dời về cổng trường Đại học Bách khoa. Có lúc gia đình anh ở số nhà 31 phố Lê Thanh Nghị, có lúc ở tại Phòng 102- Khu tập thể Ủy ban khoa học nhà nước trong ngõ Thịnh Hào 1 . Lâu nay anh được tự do tiếp bè bạn hơn trước, không khí chung của xã hội dễ thở hơn, tính công khai minh bạch và quyền tự do công dân được khẳng định dần.
Trước đây, thế lực an ninh luôn vây bủa, kiềm chế cuộc sống của gia đình Trung, kiểm tra mọi mối quan hệ, vừa đe dọa vừa mua chuộc. Gần dây, kinh tế khá lên, họ cấp cho nhà khá rộng, rồi phong lên là sỹ quan trong danh sách, nhận lương cấp ”thượng tá, cốt để vợ chồng tránh những quan hệ xã hội rộng rãi khó kiểm soát.
Nhưng không gì quý hơn tự do, nhân phẩm của một con người. Con người luôn nhận trách nhiệm với chính bản thân mình trước hết.
Khi cuộc sống anh Nguyễn Tất Trung khá lên, tiền không thiếu, có xe cộ khá sang thì anh lại càng có vẻ băn khoăn thao thức; thì ra tiền không mua được sự yên tĩnh của tâm hồn, anh có vẻ bứt rứt: tại sao cuộc đời che dấu, mang mặt nạ mãi của anh lại không đến lúc chấm dứt, để anh được là anh với căn cước chân thực đàng hoàng, sống tự do, thoải mái, hồn nhiên trong quãng đời còn lại của mình.
Cả đại gia đình người Việt trong và ngoài nước sẽ hết lòng chia sẻ yêu thương với anh và chị Duyên cùng gia đình và tận lực giúp anh, che chở anh khi cần.
Có kẻ sẽ lại vu cáo tôi là nói xấu chế độ, có âm mưu lật đổ và phá hoại.
Tôi chỉ có lòng dạ ngay thật, trọn vẹn với nhân dân, kiên định niềm tin vững chãi rằng sự thật, chỉ có sự thật mới cứu vãn được đất nước này khỏi sự dối trá, đạo đức giả và tội ác, xây dựng mối quan hệ ngừơi với người là bạn, là anh chị em trên tình nghĩa đồng bào thân thiết.
Không có bí mật quốc gia nào, không có danh dự của một phe đảng nào có thể viện ra để chà đạp nhân thân, thủ tiêu căn cước thật, quyền làm người trọn vẹn của một công dân sinh ra đã bình đẳng tuyệt đối với mọi con người khác dưới ánh mặt trời.
Bùi Tín
Giáp Tết Mậu Tý 2008.
Giáp Tết Mậu Tý 2008.