Dưới đây là
bài phát biểu của Đức Giám Mục Vinh-sơn Nguyễn văn Long OFMConv trong
Hội nghị ‘Rerum Novarum’ năm 2011về đề tài ‘Người Tầm Trú: Có một giải
pháp đúng đắn không?’ tại Hội trường Trung tâm, trường Đại học Công Giáo
Úc tại Melbourne ngày thứ Ba 11 tháng 10 năm 2011.
Thưa các bạn,
Thật
là một vinh dự lớn cho tôi, một “đứa trẻ mới vào nghề”, được phát biểu
trong hội nghị năm 2011, do Ủy ban Công lý và Hòa bình Melbourne tổ
chức, kết hợp với trường Đại học Công giáo Úc và Ủy ban Công Giáo về Di
Dân và Tị Nạn Melbourne. Đối với những ai chưa biết về hội nghị thường
niên này, nó được lấy cảm hứng từ Tông thư hay “bức thư ngỏ” được gọi là
Rerum Novarum có nghĩa là ‘Những Điều Mới’ của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII
vào năm 1891. Bằng cách đối mặt với các vấn đề khẩn cấp của thời đại và
kêu gọi Nhà nước bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, Rerum Novarum
đã đặt nền móng cho giáo huấn hiện đại về xã hội của Giáo hội Công giáo.
Trong thực tế, nó thể hiện quan điểm cho rằng người nghèo có một tình
trạng đặc biệt trong việc xem xét các vấn đề xã hội bởi vì Thiên Chúa ở
về phía người nghèo. Các Đức Giáo Hoàng kế vị đã noi theo hướng dẫn của
Đức Giáo Hoàng Lêô và tiếp tục lên tiếng về các vấn đề công bằng xã hội.
Ví dụ, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã lên tiếng mạnh mẽ trong Tông
huấn đầu tiên của ngài Deus Caritas Est khi ngài tuyên bố “Giáo Hội
không thể và không được phép ở bên lề trong cuộc chiến cho công lý. Giáo
hội phải thủ vai của mình thông qua các tranh luận hợp lý và khơi dậy
năng lực tinh thần, nếu không thì công lý, điều luôn luôn đòi hỏi sự hy
sinh, không thể thành công và phát triển.”
Tối
nay, tôi nói chuyện với các bạn trên cương vị một giám mục. Tôi có ý
tuyên bố một cách không xấu hổ rằng Giáo Hội đứng về phía người nghèo,
cũng như Thiên Chúa luôn đứng về phía họ. Nhưng trên tất cả, tôi nói
chuyện với các bạn như một người mà bản thân đã từng là người tị nạn và
tầm trú. Bằng cách chia sẻ cuộc hành trình cá nhân của tôi, tôi hy vọng
sẽ tạo ra một bầu khí hiểu biết và tình liên đới với những người ra đi
kém may mắn khác mà hành trình cuộc sống của họ cũng xứng đáng không kém
chúng ta là được tôn trọng và có nhân phẩm.Người ta thường nói lịch sử
hay lặp đi lặp lại. Tôi thấy rằng những câu chuyện của nhiều người tị
nạn muốn tìm nơi trú ẩn tại Úc hiện nay tương tự như của chúng tôi,
những người tị nạn Việt Nam trốn thoát khỏi gông cùm và sự khủng bố của
chủ nghĩa Cộng sản trong các thập niên 1970 và 80. Chia sẻ câu chuyện
của tôi với các bạn, tôi muốn tạo cho họ một tiếng nói; bởi vì với vị
trí của tôi, tôi coi đó là một quyền lợi và nghĩa vụ đạo đức để vươn tới
với những người đồng cảnh ngộ tị nạn đang tìm kiếm tự do và các giá trị
nhân bản.
Tôi
xin phép được đưa các bạn trở lại với một chút ký ức – ít nhất là cho
những người lớn tuổi đủ để nhớ lại. Chiến tranh Việt Nam: vâng, một cuộc
chiến hiện thực, đầy bạo lực và kéo dài nhất và đồng thời cũng là cuộc
chiến gây tranh cãi và chia rẽ nhất còn khắc ghi sâu đậm trong tâm trí
chúng ta. Ai có thể quên được những hình ảnh kinh hoàng của cuộc chiến
đó đã được chuyển tiếp tới màn ảnh truyền hình của chúng ta mỗi ngày? Ai
có thể quên được các cuộc biểu tình trên đường phố trong các thành phố
và tại các cơ sở của các trường đại học của chúng ta? Đó là một cuộc
chiến mà chúng ta không thể đương đầu, thậm chí sau nhiều năm tiến hành
và chiến đấu, cuối cùng bị bỏ rơi và sau đó là sự thất bại bi thảm. Đáng
tiếc là những người lính Úc của chúng ta đã mang những vết sẹo về thể
lý và tâm lý cả trong và sau cuộc chiến. Trong nhiều trường hợp, họ đã
trở về không phải chỉ là không được công nhận một cách xứng đáng mà còn
nhận được sự sỉ nhục họ không đáng phải chịu.
Nhưng
sự thật có thói quen tiết lộ chính nó trong một nhận thức muộn màng.
Khi vào cuối cuộc chiến, chính xác là ngày 30 tháng Tư năm 1975, hàng
triệu người tị nạn Việt Nam đã đổ xô ra biển để trốn thoát khỏi chế độ
cộng sản, người ta bắt đầu hiểu lý do tại sao cuộc chiến đó đã phải được
chiến đấu và kháng cự. Người Việt Nam là một dân tộc rất tự hào. Chúng
tôi tự hào về di sản của chúng tôi có hơn 4.000 năm lịch sử tích lũy,
chúng tôi tự hào về đất và biển của chúng tôi là một trong những nơi
ngoạn mục nhất ở Á châu. Những ai trong các bạn đã từng đến Việt Nam sẽ
đồng ý với tôi. Cuộc sống và số phận của chúng tôi được bén rễ sâu trong
mảnh đất của chính chúng tôi. Chúng tôi chưa bao giờ được biết đến như
là những người du canh du cư hoặc di dân. Chưa bao giờ trong lịch sử
thăng trầm lâu dài của chúng tôi đã có một cuộc di tản hàng loạt như vậy
ra khỏi mảnh đất của chính mình. Chưa bao giờ, ngay cả khi chúng tôi bị
Trung Quốc xâm chiếm và đặt ách nô lệ trong một ngàn năm, ngay cả khi
người Pháp đô hộ chúng tôi hàng trăm năm hoặc ngay cả khi người Nhật gây
ra nạn đói làm hàng ngàn người chết trong đệ nhị thế chiến. Chế độ cộng
sản đã vượt trên tất cả các chế độ đó với sự cai trị bằng khủng bố, đó
là lý do lớn nhất, bi thảm nhất với cuộc di tản chưa từng có trong lịch
sử của chúng tôi.
Tôi
không ở đây để xem xét lại tất cả các điều tệ hại của chủ nghĩa cộng
sản. Nó đủ để nói rằng cuộc di tản là một minh chứng cho mong muốn bất
khuất được sống trong tự do và nhân phẩm trong mỗi con người. Chúng tôi,
những người tị nạn Việt Nam và là những kẻ sống sót sau sự kiện bi thảm
đó là nhân chứng sống cho tự do và các giá trị cơ bản của con người mà
chúng tôi đã bị từ chối ngay trên đất nước của chúng tôi. Thưa các bạn,
đó là lý do chúng tôi chấp nhận nguy cơ bị các lính canh cộng sản bắn
giết, bị đói khát nhiều ngày, bị hải tặc cướp và hãm hiếp, và cuối cùng
phải bỏ mạng trên đường vượt biển tìm tự do như hàng trăm ngàn đồng bào
của chúng tôi. Chúng tôi muốn nói với thế giới rằng tự do thật đáng giá
để tranh đấu. Chúng tôi muốn bộc lộ sự ngây thơ và gian dối của một điều
không tưởng về cộng sản mà nó chỉ có thể tồn tại trong lý thuyết hay
trong một thế giới cả tin, nhưng đã là một địa ngục thực sự cho chúng
tôi trong thế giới hiện thực. Chúng tôi muốn thừa nhận sự hy sinh và
dũng cảm của các chiến sĩ của chúng tôi. Các cuộc chiến tranh luôn luôn
gây tranh cãi và chia rẽ, nhưng như những gì chúng ta đang quan tâm,
không có gì đáng kính hơn so với sự đấu tranh cho người dân Việt Nam,
cho tương lai của họ thoát khỏi chế độ độc tài, cho công lý và tự do.
Cuộc chiến đó trước đây và hiện nay không bao giờ là vô ích.
Cá
nhân tôi là một người tị nạn thế hệ thứ hai. Tôi nói thế vì cha mẹ tôi
đã từng là người tị nạn trước tôi. Năm 1954, sau khi Hiệp định Geneva
chia đôi Việt Nam theo hai ý thức hệ đối kháng, cha mẹ tôi – một cặp vợ
chồng trẻ ở độ tuổi đôi mươi với một đứa con nhỏ, đó là người chị cả của
tôi lúc đó mới 2 tuổi, – nhổ gốc từ ngôi nhà của mình ở gần Hà Nội và
mạo hiểm về phía nam. Họ trốn thoát bằng một chiếc ghe nhỏ và ra đi đến
phần đất mà họ chưa từng biết đến trên đất nước. Tại sao họ, và hơn một
triệu người Việt Nam từ miền Bắc như họ, thực hiện một cuộc hành trình
đầy nguy hiểm về một nơi không rõ ở phía nam? Câu trả lời rất đơn giản:
họ đã nhìn thấy những tội ác của chế độ mới khởi đầu trong các sự kiện
thảm khốc như cái gọi là cải cách ruộng đất, cưỡng bách các nông dân vào
hợp tác xã nông nghiệp, sự đàn áp có hệ thống đối với Kitô giáo, đấu tố
và xử tử công khai hàng ngàn người. Họ đã sống trong sợ hãi và khủng
bố. Trong một bầu khí như vậy, họ đã sẵn sàng đánh đổi mọi sự để có cơ
hội sống trong tự do.
Đó
là một điểm xoay của số phận mà sau này tôi cũng theo bước chân của họ,
chỉ có điều là sau này nó là một cuộc hành trình xa hơn và nhiều rủi ro
hơn. Chúng tôi là một gia đình có bảy người con. Một điều thực tế phổ
biến cho các bậc cha mẹ là để bảo đảm sự an toàn cho các con trai trưởng
thành của mình khỏi bị bắt tham gia vào quân đội Cộng sản Việt Nam lúc
đó đang can dự vào hai cuộc chiến tranh biên giới đồng thời: Trung Quốc ở
phía bắc và Khmer Đỏ ở phía nam. Hai anh trai của tôi thoát đi đầu tiên
và định cư tại Hòa Lan. Tôi trốn thoát bằng thuyền vào năm 1980 với chị
dâu của tôi và hai đứa con nhỏ của chị – một bé trai 18 tháng và một bé
gái chưa đầy 6 tháng. Tôi phải ẵm đứa cháu gái ấy hầu như suốt cuộc
hành trình. Đó là kinh nghiệm đau buồn nhất tôi từng trải qua. Và tôi
không nói về việc thiếu lương thực, nước uống, và phơi mình trong nắng
gió. Nhưng là việc nhìn xem một đứa trẻ bị đau đớn khốn khổ mà mình hoàn
toàn bất lực để làm bất cứ điều gì cho nó. Nhưng kinh nghiệm của tôi là
còn nhẹ so với rất nhiều thuyền nhân khác mà tiếng khóc của họ có thể
xuyên thủng bầu trời. Họ là những người đã bị bắn và giết chết bởi những
người lính biên phòng cộng sản; họ là những người đã bỏ mình trên biển
cả mà không để lại một dấu vết; họ là những người đã bị bọn hải tặc
cướp, hãm hiếp, đánh đập hoặc giết chết. Một số còn sống sót để kể lại
những câu chuyện kinh hoàng của họ, nhưng hàng ngàn hàng vạn người khác
thì không có cơ may. Một nghiên cứu ước tính rằng có đến 500 ngàn trong
số 2 triệu người tị nạn Việt Nam chết trên đường đi tìm tự do. Không có
gì phải nghi ngờ, đây quả là khúc phim đen tối nhất trong lịch sử của
dân tộc Việt Nam.
Đó
là một điều mà chúng tôi sẽ không bao giờ quên.Về điều này, tôi đã ghi
lại trong huy hiệu Giám mục của tôi, hình ảnh của cuộc hành trình đi tìm
tự do. Nó tượng trưng cho cả hai điều, cuộc xuất hành trong tinh thần
mà tôi là một Kitô-hữu được mời gọi thực hiện, và cuộc ra đi tìm kiếm tự
do thật đau đớn mà tôi và vô số các “thuyền nhân” đã thực hiện. Khẩu
hiệu “Duc in Altum” có nghĩa là “hãy ra chỗ nước sâu” có một phần là để
tôn vinh việc tưởng nhớ tới đồng bào tôi những người đã chịu đau khổ và
bỏ mình trong cuộc ra đi tìm kiếm giấc mơ tự do và nhân phẩm. Theo như
tôi biết, tôi là giám mục gốc Việt Nam duy nhất có huy hiệu kết hợp lá
cờ của miền Nam Việt Nam và di sản tị nạn của tôi. Bằng cách làm như
vậy, đó không phải là mong muốn của tôi để tham gia vào chính trị của
quốc gia gốc của tôi hoặc có vấn đề với nhà cầm quyền cộng sản hiện tại ở
đó. Đấy chỉ đơn giản là mong muốn của tôi để làm chứng cho sự thật về
lý do tại sao chúng tôi vượt thoát và tại sao chúng tôi đang ở đây trước
mặt các bạn hôm nay.
Người Công giáo chúng ta thường nói “Thiên Chúa làm
việc theo những cách bí ẩn” và điều này là chắc chắn đúng trong trường
hợp của ‘thuyền nhân’ Việt Nam. Khoảng ba mươi năm trước đây, chúng tôi
đến đất nước này với một vài giấy tờ mà chúng tôi được UNHCR (Ủy Hội Tỵ
Nạn Liên Hiệp Quốc) cấp trong các trại rải rác trên các vùng xa xôi của
các quốc gia Đông Nam Á. Chúng tôi đã mất tinh thần, bị lạc hướng và
không có gì chắc chắn về triển vọng của mình trong một đất nước mới.
Trong con mắt của nhiều người Úc, chúng tôi là một gánh nặng, một sự xâm
lấn, một nỗi ô nhục và thậm chí là một mối đe dọa đối với nước Úc mà họ
muốn duy trì. Tôi muốn nhanh chóng cân bằng lại thái độ này với lòng
thiện chí, sự hào phóng, hiếu khách và cảm nhận về sự công bằng mà chúng
tôi đã trải nghiệm từ đa số người dân Úc.
Ở đây với chúng ta có sự hiện
diện của cựu Thủ tướng chính phủ, ngài Malcolm Fraser, ông là người góp
phần chính trong việc đưa những người tị nạn Việt Nam ồ ạt đến Úc. Ước
chi tôi đã là “một con ruồi đậu trên vách” trong các buổi họp của các
đảng phái ở quốc hội hoặc trong vô số các cuộc tranh luận về vấn đề này
giữa các đồng nghiệp của ông về cả hai phía chính trị vào thời điểm đó.
Không cần biết điều gì đã từng được tuyên bố và tranh luận, nước Úc đã
đón tiếp chúng tôi và hậu quả là đã chôn vùi Chính Sách Nước Úc Da
Trắng, ít nhất có thể nói đó là một quốc gia can đảm. Nước Úc không còn
giống như xưa sau khi chúng tôi đến, quả vậy, quốc gia này đã trở nên
tốt hơn trước hoặc tồi tệ hơn trước, thì đây các bạn có thể đổ cho ông
Fraser!
Nói về những thay đổi mang lại do chính sách đa văn hóa và đặc
biệt về sự xuất hiện của người tị nạn Việt Nam và Đông Nam Á, các bạn có
thể xác minh cho chính mình khi ghé thăm các vùng như Footscray và
Springvale ở Melbourne và Cabramatta ở Sydney. Khi tôi đến Springvale 30
năm trước đây, nó là một nơi khá ảm đạm và buồn tẻ. Trung tâm mua sắm
chỉ giới hạn trong khu vực quanh Springvale Road, khá bình thường để ít
nhất có thể nói vậy. Bây giờ nó là một trong những vùng năng động nhất ở
Melbourne. Vì vậy, bây giờ nhiều người Úc không phải gốc Á châu đến đó
mua sắm để được giá rẻ và đặc biệt là để thưởng thức các món ăn ngon.
Thành phố Greater Dandenong thậm chí còn thảo luận về khả năng có một
chiếc xe buýt du lịch cho vùng này với hương vị độc đáo của nó và có lẽ
với một sưu tập lớn nhất về các ngôi chùa Phật giáo hơn bất kỳ vùng nào ở
Úc.
Tại Sydney, các sáng kiến tương tự cho Cabramatta đang được chính
phủ xem xét. Các vùng ngoại ô này và các trung tâm khác của người Việt
trên khắp nước Úc chắc chắn đã đi một chặng đường dài. Có một dạo người
ta sợ đến những nơi này bởi vì có những vấn đề liên quan đến ma túy.
Nhưng sự nghi ngại như vậy bây giờ chỉ còn trong ký ức xa xôi, và những
nơi này đã chuyển mình thành những nơi sinh động, các trung tâm an toàn
và đầy màu sắc và là những thí dụ nổi bật của một nước Úc đa văn
hóa.Thiên Chúa thậm chí còn thực hiện nhiều điều kỳ bí hơn khi xét tới
vai trò của người Công giáo Việt Nam trong Giáo Hội Úc. Tha thứ cho tôi
nếu tôi nói có vẻ hơi khoe khoang. Nhưng có bằng chứng rõ ràng rằng
những người Công giáo Việt Nam là một trong các nhóm sinh động nhất mà
Giáo hội Công giáo tại đất nước này đã từng chứng kiến. Trong lễ thụ
phong Giám mục của tôi, tôi đã nhận xét một cách hóm hỉnh rằng chúng tôi
là “Ái-nhĩ-lan Mới” và tôi nghĩ rằng điều đó đúng về nhiều mặt. Trong
một thời gian dài, Ái-nhĩ-lan đã có số linh mục thặng dư và nhiều người
trong số họ đã đến đây để lấp đầy số thiếu hụt ở Úc. Bây giờ, thay vào
đó là người Việt Nam đã giúp làm giảm bớt tình trạng thiếu giáo sĩ và
làm thay đổi bộ mặt của Giáo Hội Công Giáo ở đây. Các con số nói lên
điều đó. Hiện có đến 150 linh mục Việt Nam tại Úc – một con số cao bất
cân xứng so với tỷ lệ phần trăm nhỏ hơn nhiều của người Công giáo Việt
Nam ở đây.
Tương tự như vậy, các chủng viện và các dòng tu trên khắp đất
nước cũng thường có kinh nghiệm về hiện tượng tương tự. Cả những giáo
dân Công giáo Việt Nam bình thường cũng đang làm cho sự hiện diện của họ
dễ nhận ra. Không phải là họ chỉ hoạt động tại các trung tâm của họ rải
rác khắp đất nước, người Công giáo Việt Nam tham gia trong tất cả mọi
cách khác nhau vì lợi ích của Giáo Hội. Bất cứ nơi nào họ hiện diện, đều
có sự tham gia tích cực và năng động hơn các nhóm khác. Tôi đoán là các
bạn cũng có thể nói như vậy về người Phi Luật Tân, Mau-ri, Đông Timor
và các nhóm khác, những người được biết đến vì lòng đạo đức của họ. Điều
nổi bật nhất của những người Công giáo Việt Nam là kinh nghiệm về việc
họ bị buộc phải rời khỏi đất nước của họ trong một trạng huống rất đau
buồn.Với sự tôn trọng dành cho người Do Thái, tôi muốn nhấn mạnh để vẽ
ra sự tương ứng giữa kinh nghiệm của họ về lưu vong và kinh nghiệm của
người tị nạn chúng tôi.
Giống như họ, chúng tôi có kinh nghiệm kinh
hoàng và đáng xấu hổ về việc tách khỏi cội nguồn. Cũng như họ, chúng tôi
khao khát việc giải phóng và khôi phục lại đất nước chúng tôi. Giống
như họ, chúng tôi khẳng định việc xây dựng lại cuộc sống của chúng tôi
và cảm nhận của chúng tôi về bản sắc của mình. Và cuối cùng cũng như họ,
chúng tôi có một ý thức trách nhiệm liên quan đến vị trí của chúng tôi
trong xã hội mới và giáo hội địa phương. Nhiệm vụ đó bao gồm trong việc
làm nhân chứng của chúng tôi cho tự do, đức tin và các giá trị cốt lõi
của con người. Một câu thánh vịnh thật có ý nghĩa đối với chúng tôi:
“Tảng đá bị thợ xây loại bỏ, đã trở nên đá tảng góc tường.” Cuộc hành
trình của chúng tôi đi từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ ngục tù đến tự do,
từ tình trạng bị bứng gốc đến chỗ có cảm giác thuộc về mới mẻ, từ bên lề
đến hội nhập. Chúng tôi có thể chưa hoàn thành đầy đủ cuộc hành trình
này. Tuy nhiên, kinh nghiệm của chúng tôi cho chúng tôi một sự đánh giá
độc đáo về các giá trị và các cơ hội mà những người khác chỉ phỏng đoán.
Thật vậy, sự khởi đầu khiêm tốn của chúng tôi đã trở thành gia sản của
chúng tôi. “Tảng đá bị loại bỏ” đã trở thành “đá tảng góc tường”. Điều
này không phải là để nói rằng chúng tôi có một cảm giác về bản sắc và sứ
mệnh cao quý. Không phải vậy. Chúng tôi không đặc biệt hơn bất cứ ai
khác. Thay vào đó, chúng tôi tin rằng Thiên Chúa sử dụng chúng tôi với
kinh nghiệm độc đáo của chúng tôi cho mục đích riêng của Ngài trong Giáo
Hội và trong xã hội mà chúng tôi đang sống. Chúng tôi hy vọng sống trọn
theo sứ mệnh mà Chúa đã trao phó cho chúng tôi.
Từ đầu đến giờ, như các
bạn thấy, tôi đã không nói bất cứ điều gì cụ thể về vấn đề người tầm trú
mà đó lại là chủ đề chính của cuộc thảo luận của chúng ta tối nay. Đấy
mới chỉ là việc “đập quanh bụi rậm” mà các bạn có thể không đồng ý.
Nhưng tôi đã cố đóng khung lý luận của tôi theo cách này. Những gì tôi
đã minh chứng từ đầu đến đây đó là những người dễ bị tổn thương muốn có
một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và con cái của họ không nên bị
nhìn một cách đơn giản là một gánh nặng và trách nhiệm đối với xã hội
của chúng ta. Họ có thể trở thành những người đóng góp và kiến tạo vĩ
đại cho quốc gia này. Kinh nghiệm của những người tị nạn Việt Nam là
bằng chứng rõ ràng rằng thậm chí nhóm bị tổn thương nhất và nghèo nhất
cũng có thể được hội nhập trong xã hội đa văn hóa của chúng ta và có thể
tạo ra những đóng góp tích cực. Nỗi sợ hãi rằng sự gắn kết xã hội của
chúng ta có thể bị suy yếu hoặc là trong tương lai chúng ta có thể bị
tổn hại vì một “cuộc xâm lăng của Á châu” – cụm từ về sự sợ hãi phổ biến
được rao truyền – đã được chứng minh là vô căn cứ. Hôm nay, những người
Úc gốc Á châu đã tham gia cùng với nhóm chính mạch trong mọi khía cạnh
của xã hội chúng ta. Ngay cả những người hoài nghi về chính sách đa văn
hóa cũng thừa nhận rằng nước Úc đã phát triển để trở thành một nơi năng
động, đa dạng và thú vị hơn nhiều.Việc tranh cãi vẫn có thể có, sự xuất
hiện của người tị nạn Việt Nam hoặc di dân Á châu chỉ là một phần của
tấm thảm đa dạng về kết cấu của quốc gia chúng ta. Họ không phải là nhóm
duy nhất đã phải đấu tranh khó khăn cho việc được chấp nhận và hội
nhập. Mỗi thế hệ kế tiếp của người di dân đã phải vượt qua muôn vàn khó
khăn trong việc thích nghi với cuộc sống mới tại Úc. Những người tị nạn
sau chiến tranh và những di dân từ châu Âu – đặc biệt là những người có
ngôn ngữ gốc không phải là tiếng Anh – đã chịu đau khổ không kém vì
những khó khăn, nghịch cảnh và thậm chí bị phân biệt đối xử. Họ là những
lực lượng nòng cốt của nền kinh tế, thường làm việc cho các dự án to
lớn về cơ sở hạ tầng cung cấp nền tảng cho một nước Úc thịnh vượng mà
chúng ta thừa hưởng ngày hôm nay. Cùng một tinh thần quyết tâm và làm
việc chăm chỉ là đặc trưng cho các thế hệ di dân trước đây. Họ đã và
đang tiếp tục đóng góp vào nền kinh tế và xã hội của chúng ta. Chắc hẳn
rằng mỗi nhóm đưa ra thách thức riêng của mình cho nước Úc và quốc gia
này đã liên tục trỗi dậy đương đầu với thách thức và kết quả là đã trở
nên phong phú hơn. Tôi cho rằng chúng ta sẽ không sống đúng truyền thống
của chúng ta và tự làm nghèo đi chính mình khi chúng ta áp dụng chính
sách khắc nghiệt và sai nguyên tắc đối với người tị nạn. Là
một cựu thuyền nhân, tôi co rúm và rùng mình với nỗi kinh hoàng mỗi khi
tôi nghe câu thần chú “Chận đứng thuyền ghe!” Như thể chúng ta sẽ bị
tràn ngập bởi những phần tử không mong muốn này, những người sẽ lấy mất
việc làm của chúng ta, đe dọa nền an ninh của chúng ta và đặt tương lai
của chúng ta trước nguy cơ. Chúng tôi, những người tị nạn Việt Nam đã
nghe nói tất cả những điều này trước đây và chúng tôi đã chứng minh cho
mọi người dân Úc rằng câu thần chú ấy đơn giản chỉ là sự sợ hãi được rao
truyền và đang hạ thấp phẩm giá quốc gia vĩ đại của chúng ta. Các bạn
có biết là một nhóm người trong chúng tôi đã đến Darwin sau khi Sài Gòn
sụp đổ không? Một người tị nạn có tên Lê văn Hiếu đã ở trên một trong
những chiếc ghe đầu tiên đó. Sau một sự nghiệp thành công về tài chính,
bao gồm cả thời gian làm thanh tra và giám đốc cho ASIC (Australian
Securities and Investments Commission, Ủy ban Chứng khoán và Đầu tư Úc),
ông Hiếu đã trở thành Phó Toàn Quyền (Lieutenant Governor) Tiểu bang
Nam Úc và là Chủ tịch Ủy ban Đa Văn hóa và Sắc tộc Sự vụ Nam Úc. Và dĩ
nhiên, ông không phải là người cựu thuyền nhân duy nhất đã vươn lên một
cách nổi bật khi phải chống chọi với muôn vàn khó khăn. Nước Úc đã tạo
ra vô số những cá nhân như vậy với những câu chuyện thành công hiếm có
của họ, đã được biết đến hoặc trong âm thầm, từ gần như mọi thế hệ, mọi
nhóm sắc tộc và mọi lĩnh vực của sự nỗ lực. Sao lại có thể như thế được
khi mà toàn bộ nước Úc hiện đại đã được hình thành như là một thuộc địa
cho tù hình sự? Anh chị em Thổ dân của chúng ta biết rõ điều đó hơn đó
là nước Úc đã được coi như chỉ thích hợp cho những người bị án tù. Họ
đến đây bằng các tàu chở hàng và không phải để biến đổi bộ mặt của đất
nước này. Hiếm có quốc gia nào có thể tự hào với sự khởi đầu bất thường
như vậy. Kể từ kỷ nguyên của những người tù và có lẽ kể từ thời hồng
hoang của Thổ dân, lịch sử của đất nước này là về sự chiến thắng của
người bị áp bức, sự khải hoàn của tinh thần con người. Tôi tin rằng nước
Úc được như ngày hôm nay là vì đất nước chúng ta dám chào đón những kẻ
không được đón chào; chúng ta dám tạo cơ hội cho những người kém may mắn
và một “sự công bằng cho kẻ yếu thế”. Chúng ta đã làm cho câu nói này
trở thành đúng nghĩa đối với nhiều người đã đến bến bờ của chúng ta
tương tự như ông Hiếu: “Kẻ yếu thế hôm qua lại là nhà vô địch hôm nay”. Ngoài
những khẩu hiệu chính trị mà tôi đã bình luận ở trên, tôi không dám
chắc rằng cả giọng điệu lẫn nội dung của các cuộc tranh luận hiện nay về
người tầm trú lại thích hợp với tinh thần của đất nước vĩ đại này của
chúng ta. Nhiều lập luận được đưa ra để từ chối cho người tị nạn có cơ
hội được bảo vệ mà họ đáng được hưởng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về
Người Tị nạn – trong đó nước Úc là một bên ký kết. Gần đây quyết định
của Tòa án Tối cao liên quan đến điều gọi là thỏa thuận trao đổi người
tị nạn với Mã-lai không những cho thấy sự yếu kém trong chính sách của
chính phủ nhưng cũng tạo ra một sự kêu gọi đối với chúng ta trên phương
diện một quốc gia phải tôn trọng nghĩa vụ pháp lý và đạo đức của mình.
Thư chung Ngày Chúa nhật về Công bằng Xã hội năm 2007 của Hội đồng Giám
mục Công giáo Úc đã kêu gọi chính phủ từ bỏ “giải pháp Thái Bình Dương”.
Gần đây, Hội đồng Giám mục lại lặp lại lời kêu gọi thanh lọc tại chỗ để
tạo cho người tầm trú một cơ hội được sống một cuộc sống xứng với phẩm
giá trong khi tình trạng tị nạn của họ đang được xét duyệt.Tôi không có ý
định nhận xét về những lập luận này ở đây. Đủ hiểu để nói rằng vấn đề
người tầm trú và tị nạn là một vấn đề lâu dài và phức tạp, và không thể
có một giải pháp dễ dàng trong bối cảnh xã hội hiện thời của chúng ta và
hơn thế nữa là vai trò của chúng ta trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên,
những gì tôi muốn kêu gọi các bạn là chúng ta cần tiếp cận vấn đề từ một
hướng nhìn tích cực mà không phải là từ một tâm lý hẹp hòi và tiêu cực
làm hạ phẩm cách mọi người dân Úc. Tất cả chúng ta đều nhớ sự cố Tampa
và nó đã làm hại thanh danh của chúng ta thế nào trên trường quốc tế –
thậm chí nếu nó có thể bị chính trị hóa trong nước. Đáng buồn thay, thế
giới sau ngày 11 tháng 9 (2001), khi việc bảo vệ biên giới và an ninh
quốc gia trở thành quan trọng về mặt chính trị và xã hội, thì các quyền
của người tầm trú trở thành thứ yếu và thậm chí là không được màng tới.
Tampa và chuyện “quăng con xuống biển” sau đó là những ví dụ, và thực sự
là hình ảnh thu nhỏ của câu chuyện tiêu cực và nền chính trị thiếu đạo
đức đã làm nhiễm độc các cuộc tranh luận. Bất kể chúng ta đứng chỗ nào
trong vấn đề này, nó làm hạ phẩm cách của chúng ta khi đồng loại của
chúng ta bị cho là thấp kém hơn con người và nguy hiểm. Chắc chắn rằng,
những người dám đánh đổi mạng sống của họ để mong tìm một tương lai tốt
đẹp hơn cho bản thân và con cái mình, xứng đáng được đối xử tốt hơn.
Chắc chắn rằng, một quốc gia di dân văn minh như chúng ta có thể tự cải
thiện cho tốt hơn ngay cả đối với một vấn đề rất phức tạp.Trong tâm trí
của tôi, chúng ta không thể tiếp cận vấn đề của người tầm trú mà không
quan tâm tới một bối cảnh rộng lớn hơn về công lý và tình liên đới. Nước
Úc là và sẽ tiếp tục là một nam châm cuốn hút người tầm trú cho đến khi
nào vẫn còn một vực thẳm ngăn cách vị trí của chúng ta và vị trí của họ
trên cán cân chính trị và kinh tế-xã hội. Một giải pháp tích cực phải
bao gồm việc giải quyết vấn đề chủ yếu là vấn đề nhân đạo và công lý,
chứ không phải chỉ đơn thuần là một vấn đề chính trị. Với phân tích sau
cùng, người tầm trú thách thức chúng ta xem xét lại hoàn cảnh khó khăn
của họ và sự bất bình đẳng toàn cầu trên một mặt, và mặt khác, đặc quyền
của chúng ta được hưởng một số các điều kiện sống tốt nhất trên hành
tinh. Có thể nào chúng ta cứ bảo vệ lối sống của chúng ta mà lại ít quan
tâm hoặc đếm xỉa tới các anh chị em kém may mắn của chúng ta? Có thể
nào chúng ta cứ tiếp tục bảo vệ đặc quyền của chúng ta như là một “độc
quyền” của riêng mình mà không cần đối mặt với sự bất công có ảnh hưởng
tới chính chúng ta? Có thể nào chúng ta cứ áp dụng các biện pháp trong
việc đối xử bất công và vô nhân đạo chống lại con người đồng loại của
chúng ta để biện minh cho thái độ của chúng ta? Đối với tôi dường như
chúng ta không thể tránh khỏi những câu hỏi này và những câu hỏi gây
nhiều tranh cãi về mặt đạo đức ẩn nấp đằng sau vấn đề người tầm trú.Để
kết luận, tôi muốn nói điều này với toàn thể nhân dân Úc: chúng ta có
thể làm toàn bộ tốt hơn nhiều so với việc cho phép nền chính trị gây sợ
hãi và tiêu cực cướp mất cuộc tranh luận của chúng ta và định hướng phản
ứng của chúng ta; chúng ta có thể ngăn chặn việc hạ thấp phẩm giá của
đất nước xinh đẹp của chúng ta bằng cách quay về với các giá trị Kitô
giáo của mình như là quan tâm đặc biệt đến người nghèo, truyền thống
công-bằng-cho-mọi-người và huyền thoại của mình về việc trợ giúp những
người yếu kém. Nước Úc đã trỗi dậy để đương đầu với những thách thức
trong quá khứ với lòng quảng đại bảo bọc những người tầm trú, di dân và
người tị nạn. Quốc gia này đã tự chứng minh mình can đảm một cách đặc
biệt trước làn sóng người Đông Dương bỏ nước ra đi và đã chấp nhận một
số lượng lớn chưa từng có những người tị nạn Á châu lần đầu tiên trong
lịch sử của mình. Thế giới đã không đi đến chỗ tận mạt như một số người
đã có thể lo sợ. Ngược lại, nước Úc đã biến đổi để trở nên tốt hơn vì nó
luôn luôn xảy ra như vậy với từng làn sóng kế tiếp của những người mới
đến. Nước Úc được như ngày hôm nay là vì tình yêu của họ đối với tự do
và các giá trị cơ bản của con người. Nước Úc được như ngày hôm nay là vì
niềm xác tín và chí hướng của họ cho một tương lai tốt đẹp hơn. Chúng
ta vinh danh di sản của quốc gia vĩ đại này không phải bằng chính sách
phong tỏa quá mức, tự cách ly và bảo vệ đặc quyền của chúng ta bằng mọi
giá. Thay vào đó, chúng ta có thể làm cho nó thành vĩ đại hơn khi chúng
ta quan tâm và chăm sóc người tầm trú trong tinh thần bao dung và liên
đới là những điều đã ghi lại dấu ấn trong lịch sử của đất nước chúng ta
ngay từ lúc khởi đầu. Tôi kết thúc ở đây với thông điệp của các Giám Mục
Công Giáo Úc về người tị nạn và tầm trú vào tháng 5 năm 2004: “Nước Úc
có cơ hội để khôi phục lại thanh danh của mình như là một quốc gia nhân
đạo gương mẫu nơi mà người tị nạn có thể xây dựng lại cuộc sống tan vỡ
của họ và là nơi, như một quốc gia, chúng ta có thể hát mà không sợ xấu
hổ rằng ‘những ai vượt biển ngang đây, hãy vào chia sẻ bình nguyên bạt
ngàn.’” Cám ơn các bạn đã lắng nghe!
Giám mục Vinh-sơn Nguyễn văn Long OFM
Giám Mục phụ tá, Tổng Giáo Phận Công Giáo Melbourne,
Đặc trách khu vực miền Tây,
Giám Mục hiệu tòa Tala.
Đặc trách khu vực miền Tây,
Giám Mục hiệu tòa Tala.
(Hoàng Nguyễn dịch từ nguyên bản tiếng Anh)
Ghi chú:
Bài phát biểu này được trình bày cho cử tọa người Úc. Độc giả có thể
đọc nguyên văn Anh ngữ và xem video clip toàn bài phát biểu theo link:http://www.cam.org.au/melbourne-news/bishop-vincent-long-gives-rerum-novarum-oration-2011-video.html
Cả
hội trường đứng dậy trong khi Ca đoàn Việt nam Melbourne hát bài ‘Bước
chân Việt nam’ của Trúc Hồ & Trầm Tử Thiêng (ảnh Ashoka Peiris T., Hoàng Nguyễn (dịch)