HUN SEN VÀ NHỮNG CON ĐẬP MEKONG
Thủ tướng Hun Sen, chỉ mới đây thôi, sau Hội Nghị Thượng Đỉnh ACMECS ở Nam Vang, lại một lần nữa đã bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong. Ông khẳng định rằng chu kỳ lũ lụt hay hạn hán mới đây là hậu quả của thay đổi khí hậu / climate change và khí thải carbon / carbon emissions chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập thủy điện của Trung Quốc. (9)
Tháng 6, 2009_ Fred Pearce trong một tường trình Environment 360 Đại học Yale cho rằng xây đập chắn ngang sông Mekong là một đòn giáng nghiêm trọng / major blow đối với con sông Mekong dũng mãnh. Trung Quốc đang xây hàng loạt những con đập trên khoảng 2,800 dặm khúc sông Mekong thượng nguồn, sẽ giới hạn dòng chảy, làm mất đi chu kỳ lũ lụt hàng năm / annual flood pulse, con sông Tonle Sap chảy ngược vào Biển Hồ, như một trong những kỳ quan thiên nhiên của thế giới. (12)
Tháng 7, 2005_ Thủ tướng Hun Sen, rất sớm cách đây hơn 5 năm, trước khi sang dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Côn Minh, đã tỏ ra thỏa mãn với tình hình khai thác con sông Mekong như hiện nay, theo ông chẳng có vấn đề gì phải quan tâm. Ông công khai lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh, đối với kế hoạch khai thác sông Mekong, ông còn cho rằng các ý kiến chỉ trích chỉ để chứng tỏ họ chú ý tới môi sinh, và đôi khi họ dùng đó như thứ rào cản nhằm ngăn sự hợp tác nên có giữa 6 quốc gia. (3)
Tháng 11, 2002_ Tyson Roberts thuộc Viện Nghiên Cứu Nhiệt Đới Smithsonian đã phát biểu: “Xây các đập thủy điện, khai thông thủy lộ, với tàu bè thương mại quá tải sẽ giết chết dòng sông. Các bước khai thác của Trung Quốc sẽ làm suy thoái hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong đang chết dần, cũng giống như con sông Dương Tử và các con sông lớn khác của Trung Quốc. (6)
TIỂU SỬ THỦ TƯỚNG HUN SEN
Sinh năm 1952 tại một ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Kompong Cham bên bờ con sông Mekong, nhưng khai sinh sớm hơn [4/4/1951], để đủ tuổi gia nhập Khmer Đỏ. Học vấn qua bậc tiểu học, sau đó tham gia các phong trào tranh đấu. Có gốc là sĩ quan Khmer Đỏ, bị thương hư một mắt khi theo Pol Pot tấn công thủ đô Phnom Penh tháng 4, 1975. Sau đó đào ngũ qua Việt Nam trước 1979. Khi hơn 100 ngàn quân CS Việt Nam tràn qua Cam Bốt, lật đổ chính quyền Khmer Đỏ, Hun Sen được đưa lên làm Ngoại Trưởng năm 27 tuổi, rồi Thủ tướng Cam Bốt từ tháng 1, 1985 lúc mới 33 tuổi, được coi là trẻ nhất, giữ ghế Thủ tướng lâu nhất của cả thế giới. Ông cũng đã cho biết trước sẽ ra tái tranh cử vào năm 2013, ở vào tuổi 61. [Phnom Penh Post, Jan 21, 2010]
Và nếu không có gì bất ngờ, ông Hun Sen sẽ còn thống lĩnh chính trường Cam Bốt và là khuôn mặt lớn của khối ASEAN trong hàng thập niên nữa.
Lãnh đạo Đảng Nhân Dân Cam Bốt, Hun Sen được giới ngoại giao và báo chí coi như một thứ “Người Hùng” của Cam Bốt. Năm 1987, từng bị Amnesty International lên án vi phạm nhân quyền vì các vụ tra tấn tù nhân chính trị. Bị các đối thủ lên án là “bù nhìn” của Hà Nội, nhưng thực tế Hun Sen đã rất bản lãnh và độc lập khi chọn đưa đất nước Cam Bốt vào gần quỹ đạo của Bắc Kinh. Nổi tiếng cai trị bằng đôi bàn tay sắt, nhưng cũng không thiếu tai tiếng về các vụ tham nhũng về đất đai, dầu khí và các hợp đồng khai thác tài nguyên của Cam Bốt.
Sẽ thiếu sót, nếu không ghi nhận ở đây, trong thời gian làm Thủ tướng, ông Hun Sen đã nhận được khoảng hơn 10 học vị Tiến sĩ Danh dự từ các đại học khác nhau trên khắp thế giới, trong đó có 2 học vị Tiến sĩ của Hà Nội: một về Chính trị học (1991), và một về khoa Giáo Dục (2007); chưa kể tới hàm Giáo sư về khoa Bang giao Quốc tế của một Đại học Costa Rica, Trung Mỹ. Với từng ấy quyền lực và hào quang, Hun Sen được quốc vương Sihanouk phong cho phẩm tước cao quý “Samdech” [Wikipedia] và còn được mệnh danh là “Đứa Con của Đế quốc Khmer / The Son of the Khmer Empire”.
TỪ ỦY BAN SÔNG MEKONG 1957-1976
Năm 1957, [lúc đó Hun Sen mới chỉ là một cậu bé 5 tuổi] giữa thời kỳ chiến tranh lạnh, với bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, một Ủy Ban Sông Mekong [Mekong River Committee] được thành lập bao gồm 4 nước Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Nam Việt Nam và một văn phòng thường trực đặt tại Bangkok; với kế hoạch phát triển vùng Hạ Lưu sông Mekong nhằm cải thiện cuộc sống cho toàn thể cư dân sống trong lưu vực. Nhưng rồi, Chiến Tranh Việt Nam đã lan rộng ra cả ba nước Đông Dương qua hơn ba thập niên, nên kế hoạch xây dựng các đập thủy điện lớn chắn ngang sông Mekong vùng Hạ Lưu đã gián đoạn, khiến cho con sông Mekong còn giữ được vẻ hoang dã và cả nguyên vẹn thêm một thời gian nữa.
TỚI ỦY BAN MEKONG LÂM THỜI 1978 - 1992
Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, nhưng vẫn còn một cuộc chiến tranh diệt chủng trên Xứ Chùa Tháp. [Lúc đó Hun Sen đang là một sĩ quan trẻ trong lực lượng Khmer Đỏ]. Không có Cam Bốt, một Ủy Ban Mekong Lâm Thời [Mekong Interim Committee] được thành lập năm 1978 với hoạt động hạn chế. Cũng trong thời gian này, Thái Lan có kế hoạch chuyển dòng sông Mekong nhằm đưa một lượng nước lớn bơm tưới cho vùng đông bắc Thái Lan khô hạn. Gặp sự chống đối của Việt Nam, Thái Lan đi tới phủ nhận tính cách pháp lý của Ủy Ban Sông Mekong, viện lý do là tổ chức này đã không còn phù hợp với những thay đổi về chánh trị, kinh tế và xã hội trong vùng. Trong điều kiện phân hóa như vậy, Ủy Ban Lâm Thời Mekong hầu như bị tê liệt.
TỚI ỦY HỘI SÔNG MEKONG 1995-2010
Bước vào thời bình do nhu cầu phát triển, con sông Mekong đã trở thành mục tiêu khai thác của 6 quốc gia trong Lưu Vực Lớn Sông Mekong [Greater Mekong Subregion]. Cùng là những nước ven sông nhưng mỗi quốc gia lại có những ưu tiên về phát triển khác nhau với những quyền lợi mâu thuẫn. Do đó, phục hồi một tổ chức điều hợp liên quốc gia tương tự như Ủy Ban Sông Mekong trước đây là cần thiết.
Ngày 05 tháng 04 năm 1995, 4 nước hội viên gốc của Ủy Ban Sông Mekong đã họp tại Chiang Rai, Thái Lan cùng ký kết một “Hiệp Ước Hợp Tác Phát Triển Bền Vững Hạ Lưu Sông Mekong” và đổi sang một tên mới là Ủy Hội Sông Mekong / Mekong River Commission [ thay vì Committee] với một thay đổi cơ bản trong Hiệp Ước mới này – thay vì như trước đây, mỗi hội viên có quyền phủ quyết bất cứ một dự án nào bị coi là có ảnh hưởng tác hại tới dòng chính sông Mekong, thì nay không cho một thành viên nào có quyền như vậy. [Thời điểm này, ông Hun Sen đã là Thủ tướng của Cam Bốt được 10 năm 1985-95]. Có thể nói Ủy Hội Sông Mekong là “biến thể và xuống cấp” của Ủy Ban Sông Mekong trước kia.
YẾU TỐ TRUNG QUỐC NHƯ MỘT NHÂN TAI
Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, Trung Quốc đã mở cửa ra với thế giới bên ngoài. Không còn ảnh hưởng thống trị của Mỹ ở Đông Nam Á, Trung Quốc nghiễm nhiên trở thành yếu tố mới năng động với ảnh hưởng bao trùm trên toàn Lưu Vực Lớn Sông Mekong.
Trung Quốc như một con bài chủ nhưng lại từ chối tham gia vào Ủy Hội Sông Mekong. Do nhu cầu điện năng của Trung Quốc tăng 5-6% mỗi năm, để đáp ứng tốc độ phát triển kinh tế, trước viễn tượng nguồn dầu khí ngày càng cạn kiệt, với khát vọng vô hạn về năng lượng, rõ ràng không có dấu hiệu nào Trung Quốc sẽ dừng bước hay chậm lại kế hoạch khai thác nguồn thủy điện phong phú của tất cả các con sông trong đó có sông Mekong.
Không kể các con sông trong lãnh thổ Trung Quốc, còn phải kể những con đập trên các dòng sông liên quốc gia. Không phải chỉ có chuỗi 14 con đập Bậc thềm Vân Nam trên sông Mekong, Trung Quốc cũng đang ồ ạt xây những con đập Á châu khác, như:
_ Trên Sông Irrawaddy: Bắc Kinh đang xây con đập thủy điện lớn nhất Miến Điện, Myitsone 3,600 MW từ cuối năm 2007. Theo tờ báo của nhà nước The New Light of Myanmar, từ tháng 5 năm 2007 Miến Điện đã hoàn tất phác thảo thêm 7 dự án thủy điện cũng trên sông Irrawaddy với tổng công suất lên tới 13,360 MW, do một ký kết giữa China Power Investment Corporation và Bộ Điện Lực Miến Điện.
_ Trên Cao Nguyên Tây Tạng : Các con sông lớn Châu Á đều bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng. Phía đông ngoài hai con sông lớn Hoàng Hà và Dương Tử hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, còn phải kể tới ba con sông khác: Mekong, Irrawaddy và Salween. Phía tây và tây nam là các con sông: Indus, Sutlej và Yarlung Zangpo.
Bắc Kinh sẽ xây con đập đầu tiên trên sông Yarlung Zangbo – Brahmaputra, “con sông cao nhất thế giới”, trên rặng Hy Mã Lạp Sơn. Đây là dòng sông huyết mạch của bao nhiêu triệu cư dân Ấn. Trung Quốc cho biết họ sẽ còn xây thêm 4 con đập nữa trong vùng thung lũng giữa hai quận hạt Sangro và Jiacha. Khi hoàn tất, tổng số công suất của những con đập thủy điện này sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp / Three Gorges Dam, lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử.
Ấn Độ đã bày tỏ mối quan tâm về những con đập sắp tới của Trung Quốc sẽ tác động trực tiếp trên lưu lượng con sông Brahmaputra, là nguồn cung cấp nước cho nông nghiệp và kỹ nghệ các tỉnh Đông Bắc Ấn.
Anant Krishnan, nhà ngoại giao cao cấp Ấn cho rằng kế hoạch xây đập của Bắc Kinh, cho dù đó là trong lãnh thổ Trung Quốc nhưng chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu trên mối quan hệ đối với các quốc gia hạ nguồn. Rồi ông ta không quên so sánh:“Ấn Độ bị báo động vì những con đập trên sông Yarlung Zangbo- Brahmaputra, cũng giống như các quốc gia Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đối với những con đập Vân Nam trên thượng nguồn sông Mekong”.
Chỉ riêng với các kế hoạch khai thác sông Mekong của Trung Quốc, Tyson Roberts thuộc Viện Nghiên Cứu Nhiệt Đới Smithsonian đã nhận định: “Xây các đập thủy điện, khai thông thủy lộ, với tàu bè thương mại quá tải sẽ giết chết dòng sông... Các bước khai thác của Bắc Kinh sẽ làm suy thoái hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong đang chết dần, cũng giống như con sông Dương Tử và các con sông lớn khác của Trung Quốc.” (6)
Theo luận điệu của Trung Quốc thì chỉ có 13.5% lưu lượng sông Mekong đổ xuống từ khúc sông Lan Thương, so với lưu lượng trung bình hàng năm sông Mekong đổ ra Biển Đông, do đó các con đập Vân Nam không có ảnh hưởng đáng kể tới hạ nguồn; nhưng theo Milton Osborne, chuyên gia uy tín về Đông Nam Á và là tác giả những cuốn sách “The Mekong: Turbulent Past, Uncertain Future” thì trong Mùa Khô, lưu lượng nước từ sông Lan Thương ở một số nơi hạ nguồn, chiếm tới 40% , gấp 3 lần con số Trung Quốc đưa ra.
Như một điệp khúc từ phía Trung Quốc, và hơn một lần được Thủ tướng Hun Sen lặp lại, là ảnh hưởng tác hại chuỗi đập Vân Nam trên sông Mekong là không có thực.
CỰC THỨ BA VÀ HÂM NÓNG TOÀN CẦU
Khối băng tuyết Hy Mã Lạp Sơn, chỉ đứng sau Bắc Cực và Nam Cực, hay còn được gọi là “Cực Thứ Ba / The Third Pole”. Lonnie Thompson, nhà băng tuyết học thuộc Đại học Ohio, đã mệnh danh đây là “ngân hàng nước ngọt Á Châu / Asia’s freshwater bank account”cung cấp nguồn nước cho ngót 1/3 cư dân trên hành tinh này. [National Geographic, April 2010, Vol.217, No.4]
Tổ chức WWF / World Wide Fund đã đưa ra lời cảnh báo là hiện tượng Hâm Nóng Toàn cầu / Global Warming, khiến những khối băng trên rặng Hy Mã lạp Sơn mau chóng thu nhỏ lại, với vận tốc từ 10 tới 15 mét / năm, có thể làm thiếu hụt nước của hàng trăm triệu cư dân sống phụ thuộc vào những con sông có nguồn nước từ những khối băng tuyết này.
Với hậu quả ngắn hạn ban đầu sẽ là gia tăng lưu lượng nước sông do tuyết tan, nhưng theo Jennifer Morgan, giám đốc Chương Trình Biến Đổi Khí Hậu Toàn Cầu / Nature's Global Climate Change Programme, thì chỉ vài thập niên sau đó, tình hình sẽ đảo ngược. Khối băng tuyết Hy Mã Lạp Sơn cấp nguồn nước cho 7 con sông lớn của Châu Á trong đó có con sông Mekong sẽ bị sút giảm, rồi ra mực nước các con sông ấy sẽ xuống rất thấp. (11)
Sông Mekong đã thiếu nước từ nguồn, nay phần nước thiếu hụt ấy lại bị giữ trong chuỗi các hồ chứa những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam, lấy nước như vậy thì làm sao không ảnh hưởng trên dòng chảy của các khúc sông hạ nguồn?
Nhưng với Wang Xiaodong chuyên viên nghiên cứu Hoa Lục thì không có gì để họ phải bận tâm, bởi vì “Đó là đất và là nước của chúng tôi. Đó là quyền của chúng tôi muốn làm gì thì làm.” Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi một giáo sư am hiểu tình hình Trung Quốc đã đưa ra nhận xét là trong bang giao quốc tế “Trung Quốc chưa hề có một hồ sơ theo dõi tốt – good track records”.
GIẢI PHÁP NGẮN HẠN ĐỂ SỐNG CÒN
Tuần lễ đầu của tháng 10 vừa qua [2010], trong một email trao đổi với người viết, GS Võ Tòng Xuân cho biết: “Mùa Nước Nổi của Đồng Bằng Sông Cửu Long đến hôm nay / ngày 4 tháng 10, vẫn chưa đạt mức 30 cm, thấp hơn trung bình các năm trước là khoảng 1 mét”. Chưa bao giờ mà nông dân Miền Tây mong lũ về đến như vậy. Họ đã từng chung sống với lũ, với nước tràn đồng và bao nhiêu cái lợi do lũ đem tới. Lũ đem nguồn cá đổ xuống từ Biển Hồ, đem phù sa như nguồn phân bón thiên nhiên, con nước ấy còn có tác dụng rửa phèn, đẩy mặn không cho nước mặn lấn sâu thêm vào vùng châu thổ. Nhịp đập khỏe mạnh của trái tim Biển Hồ cũng là sức sống của hai con Sông Tiền, Sông Hậu và toàn mạng lưới kinh rạch của ĐBSCL.
Rất sớm từ 6 năm trước, trong cuộc phỏng vấn của phóng viên Ánh Nguyệt / RFI [12/2004] khi được hỏi về tình trạng nhiễm mặn ngày càng trầm trọng nơi ĐBSCL từ ngày Trung Quốc không ngừng tiến hành xây những con đập khổng lồ Vân Nam, GS Võ Tòng Xuân đã phát biểu:
“Nông dân ĐBSCL thích nghi nhanh, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp: bỏ hẳn giống lúa cổ truyền chuyển sang trồng lúa cao sản, nên chủ động tránh được lũ cũng như hạn hán. Ở những vùng bị nhiễm mặn, thay vì trồng lúa thì chuyển qua những loại cây khác hay chuyển qua sản xuất nuôi tôm xú chịu được nước lợ; rồi phong trào nuôi cua biển đang phát triển mạnh, người nông dân sẽ dùng nguồn nước mặn này để nuôi thủy sản với giá thành cao hơn là trồng lúa. Hiện nay Viện Lúa ĐBSCL đang vận dụng công nghệ sinh học, tìm những genes chịu mặn nhằm lai tạo những giống lúa cao sản tương đối chịu mặn hơn các giống lúa thường chứ không phải là chịu nước mặn hoàn toàn”. (5)
BIỂN HỒ TRÁI TIM CỦA CAM BỐT
Với đất nước Cam Bốt, ai cũng biết rằng trái tim Biển Hồ chỉ còn đập khi sông Mekong trong Mùa Mưa còn đủ nước đổ vào sông Tonle Sap tạo dòng chảy ngược vào Biển Hồ như một hiện tượng thiên nhiên kỳ diệu. Là hồ cạn chỉ với diện tích 2,500 km2 trong Mùa Khô, nhưng từ tháng 5 đến tháng 9 khi bước sang Mùa Mưa, nước con sông Mekong dũng mãnh đổ về, khiến sông Tonle Sap đổi chiều, chảy vào Biển Hồ làm nước hồ dâng cao hơn từ 8 tới 10 mét và tràn bờ; diện tích Biển Hồ tăng gấp 5 lần, khoảng hơn 12,000 km2. Những cánh rừng lũ / flooded forest của Biển Hồ là cái nôi để nuôi dưỡng và tái sinh nguồn thực phẩm khổng lồ chủ yếu là cá, chiếm tới hơn 60% nguồn cá của Cam Bốt. Chính con sông Mekong và Biển Hồ từng là cái nôi của nền văn minh Angkor và nay là cái nôi của nền văn minh xứ Chùa Tháp, và chưa hề có bảo đảm nào cho một tương lai bền vững của Biển Hồ khi mà không thiếu những dấu hiệu xấu dồn dập đổ xuống từ ngày có những con đập Vân Nam.
Nhưng với ông Thủ tướng Hun Sen, thì lại chẳng có gì phải lo lắng. Hồi tháng 6 năm 2005, nhân buổi lễ thả cá giống vào một hồ phía đông Cam Bốt, ông Hun Sen đã tỏ ra thỏa mãn với tình hình khai thác con sông Mekong lúc bấy giờ, theo ông sẽ chẳng có vấn đề gì phải quan tâm. Trước khi bay sang dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Côn Minh, ông đã công khai lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh đối với kế hoạch khai thác sông Mekong, cho dù điều ấy đi ngược lại ý kiến quan ngại gần như báo động của các chuyên gia bảo về môi sinh. Đi xa hơn thế nữa, ông Hun Sen còn cho rằng ý kiến chỉ trích chỉ để chứng tỏ là họ chú ý tới môi sinh, và đôi khi họ dùng đó như thứ rào cản nhằm ngăn chặn sự hợp tác nên có giữa 6 quốc gia. [AFP, 6/29/05].
Ông Hoàng Sihanouk tuy không còn quyền lực, nhưng đã có một tầm nhìn xa hơn ông Hun Sen. Từ tháng 11/ 1993, do một sắc lệnh của Hoàng Gia Cam Bốt, quy định Biển Hồ là Khu Đa Dụng Bảo Tồn / Multiple Use Protected Areas. Tiếp theo đó, qua bao vận động của Sihanouk, tới tháng 10/1997, Biển Hồ được UNESCO công nhận là Khu Bảo Tồn Sinh Thái / Biosphere Reserve của Thế Giới.
Lại chỉ mới đây thôi, ngày 17 tháng 11 năm 2010, tại thủ đô Nam Vang bên bờ con sông Tonle Sap, một lần nữa Thủ tướng Hun Sen, sau Hội Nghị Thượng Đỉnh ACMECS [ Ayeyawady-Chao Praya-Mekong Economic Cooperation Strategy ] gồm 5 nước Cam Bốt, Miến Điện, Lào, Thái Lan và Việt Nam, đã phủ nhận và bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong. Ông khẳng định rằng chu kỳ lũ lụt hay hạn hán mới đây là hậu quả của thay đổi khí hậu chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập thủy điện của Trung Quốc. (9)
Khi nói chuyện với các phóng viên, Thủ tướng Hun Sen đã “diễu cợt / mocked” họ về các ý tưởng cho rằng các con đập trên thượng nguồn sông Mekong đưa tới hậu quả làm tụt giảm mực nước có tính cách lịch sử trong thời gian vừa qua. Như một thách đố, ông đưa ra câu hỏi: “Liệu mực nước lên xuống dọc theo sông Mekong có phải là do các đập thủy điện hay không?” Rồi cũng rất tự tin, ông Hun Sen tự đưa ra câu trả lời bằng những con số: “Năm 1998, mực nước Sông Mekong tụt thấp tới mức kỷ lục 7.5 mét, nhưng tới năm 2000, mực nước lại cao tới 12 mét.
Cần mở một dấu ngoặc ở đây về hai thời điểm mà ông Hun Sen nêu ra:
_ Năm 1998, đã có con đập thủy điện lớn đầu tiên của Trung Quốc chắn ngang dòng chính sông Mekong: đập Mạn Loan / Manwan 1,500 MW hoàn tất từ 1993, tiếp tục lấy nước và hoạt động toàn công suất từ 1995; lại thêm con đập thứ hai Đại Chiếu Sơn / Dachaoshan 1,350 MW cũng đang được xây cất. Không đủ mưa, lại bị giữ nước trong hồ chứa, đã khiến mực nước hạ lưu sông Mekong xuống rất thấp tới 7.5 mét.
_ Năm 2000, khoảng tháng 8-9 năm đó, do những những trận “mưa gió mùa / monsoon rains”rất lớn và kéo dài bất thường, lại thêm hiện tượng “cường triều / high tides” ngăn lũ thoát ra Biển Đông nên đã đẩy mực nước sông Mekong vùng hạ lưu lên cao tới 12 mét, gây cảnh lũ lụt tệ hại nhất trong nhiều thập niên với nhiều tổn thất cả về vật chất lẫn nhân mạng từ Cam Bốt xuống đến ĐBSCL. (14)
_ Năm 2010, trong mấy tháng đầu của năm nay, mực nước lại xuống thấp tới mức kỷ lục trong vòng 50 năm qua ở vùng đông bắc Thái và Lào, gây bao nhiêu lo ngại về an toàn thực phẩm, nước uống và thủy lộ giao thông. Đây cũng là thời kỳ con đập thứ tư Tiểu Loan/ Xiaowan 4,200 MW, sau con đập Cảnh Hồng / Jinghong, còn được gọi là “con đập mẹ” với dung lượng hồ chứa lên tới 15 tỉ mét khối – bằng tổng số dung lượng tất cả các hồ chứa khác của tỉnh Vân Nam, đang lấy nước vào hồ chứa và bắt đầu hoạt động phát điện.
Nhưng cũng vẫn theo ông Hun Sen, thì đơn giản đó chỉ là do “biến đổi khí hậu và khí thải carbon; chính khí thải carbon đã làm những cơn mưa thay đổi bất thường”. Rồi ông mạnh miệng khuyên nhủ: “Vậy các nhà hoạt động môi sinh đừng có quá đáng / don’t be too extreme, và cũng đừng nói rằng vì các đập thủy điện mà thiếu nước ở hạ nguồn. Đó là một sai lầm”. Thấy như vậy chưa đủ, ông Hun Sen còn hỏi ngược: “Năm qua Trung Quốc cũng bị hạn hán, các anh sẽ lên án Trung Quốc ra sao khi mà chính họ cũng thiếu nước?”(8)
Không ai phủ nhận “thay đổi khí hậu” là một yếu tố quan trọng nhưng không phải là duy nhất. Hiện tượng bất thường ấy không loại bỏ những yếu tố ảnh hưởng lâu dài khác của các con đập lớn trên sông Mekong.
Trung Quốc không chỉ đang ào ạt [a] Xây thêm những con đập thủy điện khổng lồ chắn ngang dòng chính sông Mekong, mà còn thực hiện kế hoạch; [b] Phá đá và khai thông các khúc sông ghềnh thác để mở thủy lộ cho các con tàu 700 tấn đi về phương Nam và bất chấp hậu quả ra sao trên dòng chảy; [c] Dùng sông Mekong làm con đường vận chuyển dầu khí từ giang cảng Chiang Rai lên Vân Nam. [d] Chưa kể tới nguy cơ vỡ đập, điều mà chính các học giả và chuyên gia môi sinh Trung Quốc đã lên tiếng báo động do vùng Tây Nam Trung Quốc là vùng động đất. (13)
Phải nhìn bức tranh toàn cảnh phức tạp, với những tác hại tích lũy và dây chuyền của các con đập thủy điện trên nguồn nước, nguồn cá, nguồn phù sa, lúa gạo, và cả gây ô nhiễm nơi hạ nguồn, chứ không thể như ông Hun Sen giản lược một cách thô thiển bằng “hai con số” và một cụm từ “thay đổi khí hậu” rất thời thượng.
Trong khi chính Bắc Kinh đang phải vất vả chống đỡ với sức ép của dư luận và cả cố gắng xoa dịu sự chống đối của các nhóm cư dân vùng Bắc Thái và Lào đang là nạn nhân trực tiếp của các con đập Vân Nam, thì ông Hun Sen lại tự nguyện biến mình thành “một luật sư hùng biện cho Trung Quốc / nhưng bất cần lý lẽ.”
Bây giờ thì cụm từ “Thay Đổi Khí Hậu” của Phó Tổng Thống Al Gore, đã trở thành “cái dù che” cho những nhà lãnh đạo nếu không do thiếu hiểu biết thì cũng do động cơ chính trị, một thứ “chủ nghĩa cơ hội” và tránh né trách nhiệm.
Ông Hun Sen lãnh đạo quốc gia Cam Bốt, khi đứng trước nguy cơ cả một hệ sinh thái của con sông Mekong và Biển Hồ đang bị suy thoái “một cách hiển nhiên và nhãn tiền” thì chính ông đã lại cố ý phủ nhận bao nhiêu mối quan tâm chính đáng và đầy trí tuệ trong suốt mấy thập niên qua của bao nhiêu chuyên gia bảo vệ môi trường và của các tổ chức môi sinh phi chính phủ như TERRA/ Towards Ecological Recovery and Regional Alliance, IRN / International River Network…
Thái độ của ông Hun Sen rõ ràng là “phủi tay rũ bỏ trách nhiệm” bằng cách đổ lỗi “cho thiên nhiên, cho thay đổi khí hậu” thay vì do sự bất lực của chính quyền do ông lãnh đạo từ bấy lâu nay. Trước hết ông đã không màng gì tới bao nhiêu nỗ lực để bảo vệ Biển Hồ, cũng là nguồn cá nguồn lúa gạo của ngót 15 triệu người dân Cam Bốt, rộng hơn là bảo vệ nguồn tài nguyên mong manh của con sông Mekong, đang đe dọa trên đời sống của ngót 70 triệu cư dân của 7 quốc gia ven sông.
Hơn bao giờ hết, Lưu vực Sông Mekong cần tới một “think tank” thuyết phục để không có tình huống cho những người như ông Hun Sen muốn nói gì thì nói một cách thiếu trách nhiệm và như một sỉ nhục trí tuệ đối với cộng đồng thế giới.
Theo Fred Pearce, thì vào đầu thập niên tới, chuỗi đập Vân Nam sẽ có khả năng giữ lại hơn nửa lưu lượng dòng chảy của con sông Mekong trước khi ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc. Đối với Bắc Kinh, con sông Mekong đã trở thành “Tháp Nước và Nhà Máy Điện” của riêng họ. (12)
Odd Bootha, 38 tuổi, anh lái đò bến Chiang Khong Bắc Thái, đã than thở “Nếu Trung Quốc cứ xây thêm đập thì sông Mekong chỉ còn là một con lạch.” Tình cảm bài Hoa rất mạnh ở vùng Bắc Thái, chính dân làng đã công khai chống lại kế hoạch phá đá phá ghềnh thác khai thông sông Mekong của Trung Quốc.
Cũng dễ hiểu là để có đủ nước vận hành những turbines trong các đập thủy điện Vân Nam, Trung Quốc đã thường xuyên đóng các cửa đập khiến mực nước sông đã xuống tới mức thấp nhất. Phía tả ngạn bên Lào, chỉ riêng trong tháng 3/2004 , tổ chức du lịch đã phải hủy bỏ 10 chuyến du ngoạn trên sông chỉ vì những khúc sông quá cạn.
Chainarong Sretthachau, giám đốc Mạng Lưới Sông Đông Nam Á cho rằng “Trung Quốc đã có quyền lực để kiểm soát dòng sông Mekong.” (7)
Chỉ vì sự thiển cận và những quyền lợi rất ngắn hạn nhận được từ Bắc Kinh, ông Hun Sen đã dễ dàng hy sinh một dòng sông và một Biển Hồ như mạch sống và trái tim của cả một đất nước Cam Bốt. (3)
THÁCH ĐỐ CỦA THẾ KỶ 21
Tất cả 6 nước ven sông với những định chế chánh trị xã hội và văn hóa khác nhau, nhưng cùng có chung một nhu cầu khẩn thiết là khai thác con sông Mekong để phát triển. Không phải là không có những mâu thuẫn quyền lợi và tranh chấp khi tới với nguồn nước và tài nguyên không phải là vô hạn của dòng sông.
Thực tế cho thấy dễ dàng để thỏa thuận với nhau trên một số nguyên tắc khái quát
như sử dụng nước và các nguồn tài nguyên phải đáp ứng với nhu cầu bảo vệ, bảo tồn, thăng tiến môi sinh và duy trì cân bằng hệ sinh thái nhưng đi vào thực hiện với chi tiết còn cả một khoảng cách đại dương.
Chẳng hạn ai sẽ thực sự trách nhiệm duy trì dòng chảy tối thiểu của con sông Mekong trong mùa khô cũng như trong mùa lũ để có đủ nước từ con sông Mekong chảy ngược vào Biển Hồ, để nước mặn từ ngoài Biển Đông không tiếp tục lấn vào sâu và xa hơn nữa nơi ĐBSCL? Dĩ nhiên sẽ có những diễn dịch khác nhau và phản ứng hành động khác nhau theo hoàn cảnh của mỗi nước.
Nói gì đi nữa thì Bắc Kinh vẫn cứ đi thênh thang trên con đường đã vạch ra của họ. Bảo vệ môi trường nếu có được nhắc tới hơn một lần trong hội nghị chỉ như một khẩu hiệu, trong khi Trung Quốc vẫn không ngừng xây hàng loạt những con đập thủy điện khổng lồ trên dòng chính sông Mekong, đang gây rất nhiều quan ngại của các chuyên gia môi sinh đối với ảnh hưởng tác hại khó lường đối với nguồn nước nơi hạ nguồn.
Rồi nhìn về Việt Nam với hình ảnh ước lệ của hơn nửa thế kỷ trước về một Đồng Bằng Sông Cửu Long, với ruộng vườn thẳng cánh cò bay, tôm cá thì đầy đồng - thì nay tất cả đã đi vào quá khứ. Trên toàn cảnh thì cùng với Biển Hồ là một ĐBSCL đang suy thoái và cứ nghèo dần đi.
THIẾU LÃNH ĐẠO CÓ TẦM NHÌN XA
Điều bất hạnh cho các quốc gia đang phát triển trong Lưu vực Lớn Sông Mekong là đã không có được“những nhà lãnh đạo / statesman có được cái tâm và cả tầm nhìn xa” nhưng chúng ta lại có dư những nhà chính trị cơ hội: điển hình như ở Việt Nam và Cam Bốt. Họ luôn luôn có mẫu số chung là tham quyền cố vị, cai trị độc tài và tham nhũng. Mọi nguồn tài nguyên của đất nước thì bị họ khai thác cho cạn kiệt, bất kể các thế hệ tương lai sẽ phải trả giá ra sao.
Các con đập thủy điện trên sông Mekong, đã và đang tạo nên dư luận lo ngại không phải chỉ trong Lưu Vực mà còn lan rộng ra cả thế giới; vậy mà chỉ có riêng ông Thủ tướng Hun Sen đơn phương phủ nhận tất cả. Đó là điều đáng quan tâm vì đây là tiếng nói của một nguyên thủ quốc gia đầy quyền lực, có sức hấp dẫn quần chúng nhưng lại bất chấp dư luận và lý lẽ.
Vậy đâu là những điều cần làm: [1] Một chiến dịch báo chí / press campaign tập trung / khu trú vào những nhận định thiên lệch / misconceptions về ảnh hưởng các con đập thủy điện trên toàn hệ sinh thái con sông Mekong; [2] Một cuốn bạch thư white book và và sách đỏ / red book, ghi chú theo trình tự thời gian những bước suy thoái hiển nhiên của con sông Mekong và Biển Hồ từ ngày có những con đập thủy điện Trung Quốc.
Nhưng liệu tiếng nói nào đủ uy tín để đối trọng với cả một hệ thống quyền lực như vậy. Chắc chắn không phải từ một vài cá nhân mà phải từ một định chế / institution nơi quy tụ những chất xám nối kết bởi một “Tinh thần Sông Mekong”. Định chế ấy không gì khác hơn là từ một Phân Khoa Sông Mekong cho toàn Lưu Vực với Tây Đô sẽ là cái nôi nuôi dưỡng một Đại học có tham vọng vươn lên đẳng cấp Quốc tế. Để rồi ra, những tiếng nói của quyền lực mù quáng sẽ bị thuyết phục bởi sức mạnh của trí tuệ hoặc nếu không cũng sẽ bị cô lập.
NGÀY HỘI NƯỚC SẼ TRỞ THÀNH QUÁ KHỨ
Không biết từ bao lâu rồi, hàng năm, khi vừa hết Mùa Mưa, mực nước sông Mekong bắt đầu ổn định và con sông Tonlé Sap lại chảy xuôi dòng kéo theo vô số tôm cá từ Biển Hồ đổ vào các nhánh sông Mekong, xuống xa tới ĐBSCL. Đây cũng là thời điểm của Ngày Hội Nước Bon Om Tuk, được tính theo tuần trăng vào khoảng tháng 11 diễn ra trước Hoàng cung, khu mà người Pháp gọi là Quatre Bras /Chatomuk, nơi bốn nhánh sông Mekong hội tụ. Trong dịp lễ hội này, vua và hoàng hậu tới đây chung vui với thần dân, “Khai Mùa” cho ngư dân đánh cá, cho nông dân bắt đầu mùa gieo trồng.
Bon Om Tuk năm nay 2010, cũng được diễn ra vào ngày trăng tròn. Với hơn 2 triệu người từ thôn quê kéo về thủ đô dự lễ hội. Năm nay có thêm một địa điểm mới là đảo Kim Cương / Koh Pich, nằm không xa bờ sông Mekong. Tụ điểm du lịch này vừa được khánh thành, với cả một cây cầu mới qua đảo, gây háo hức cho người dân quê tỉnh xa đổ về. Ngày thứ ba, sau hội đua ghe, đám đông đã ùa lên cây cầu dẫn ra đảo, và đã xảy ra tình trạng chen lấn, xô đẩy, giẫm đạp, với hậu quả là có 450 người chết và hơn 700 người khác bị thương, trong số đó có cả người Việt.
Ông Hun Sen đã mau mắn xuất hiện trên đài truyền hình quốc gia lúc 3 giờ sáng, để trấn an dân chúng, với miêu tả vụ giẫm đạp là “thảm họa lớn nhất” ở Cam Bốt kể từ sau thời Khmer Đỏ. Và 25 tháng 11 sẽ là ngày quốc tang. Chúng ta không thể không xúc động và chia xẻ nỗi mất mát tang thương này với người dân Cam Bốt.
Tang tóc rồi cũng qua đi, để sang năm, sẽ vẫn có một ngày Bon Om Tuk khác, nhưng không biết còn kéo dài được bao lâu nữa, trong cái ý nghĩa đích thực ban đầu của Ngày Hội Nước, khi mà con sông Tonle Sap còn đủ nước để đổi dòng, trái tim Biển Hồ còn giữ được nhịp đập nhưng nay đã là một Biển Hồ không còn khỏe mạnh, điều mà những ngư dân và nông dân Cam Bốt biết rất rõ, do lượng cá và lúa thì càng ngày càng “thất thu”.
Với nhãn quan của các nhà hoạt động môi sinh, thì sẽ có một ngày “thảm họa môi sinh lớn nhất / greatest ecological catastrophe” đến với đất nước Cam Bốt, là khi trái tim Biển Hồ ngưng đập; với cái chết chậm nhưng chắc chắn ấy của Biển Hồ thì tên tuổi ông Hun Sen không phải là hoàn toàn vô can.
Tưởng cũng cần nên ghi lại nơi đây những sự kiện phải nói là bi quan, liên hệ tới Biển Hồ, sông Tonle sap và con sông Mekong ngay trong thập niên đầu của thế kỷ 21:
Trên trang web World Wide Fund for Nature, đã ghi nhận: mực nước con sông Mekong tụt thấp xuống tới mức báo động kể từ 2004 và trở thành những hàng tin trang nhất trên báo chí. “Trung Quốc làm kiệt mạch sống sông Mekong_ New Scientist”; “Sông Mekong cạn dòng vì các con đập Trung Quốc_ Reuters AlertNet”; “Xây đập và con sông chết dần_ The Guardian”; “Sông cạn do các con đập Trung Quốc_ Bangkok Post”. Hầu hết đều mạnh mẽ quy trách cho việc xây các con đập thủy điện của Trung Quốc trên khúc sông thượng nguồn.
…Theo Fred Pearce, tác giả cuốn sách “Khi Những Con Sông Cạn Dòng, Nước – Khủng Hoảng của Thế Kỷ 21” xuất bản 2006, trong chương viết về con sông Mekong, đã có ghi nhận:
... “Cuối năm 2003 và đầu năm 2004 là thời gian tuyệt vọng trên Biển Hồ. Cơn lũ mùa Hè thấp hơn. Thời điểm con sông Tonle Sap chảy ngược vào Biển Hồ đến trễ hơn và cũng chấm dứt sớm hơn. Thay vì 5 tháng con sông đổi dòng nay chỉ còn có 3 tháng. Rừng lũ thiếu ngập lũ và cá thì không đủ thời gian để tăng trưởng... Và mùa thu hoạch cá chưa bao giờ thấp như vậy. Tại sao? Đa số ngư dân đổ tại con sông cạn dòng. Khi con nước cạn trước Hoàng cung, thì sẽ không có cá dưới sông.” (10)
… Và cũng chỉ mới đây thôi, vào tháng 05/2009, Chương Trình Môi Sinh Liên Hiệp Quốc đã phải lên tiếng cảnh báo rằng “chuỗi đập Vân Nam” là “mối đe dọa duy nhất – lớn nhất / the single greatest threat” đối với tương lai và sự phồn vinh của con sông Mekong, sẽ giết chết nhịp đập thiên nhiên của dòng sông vốn như một kỳ quan của thế giới.
Aviva Imhoff , giám đốc truyền thông Mạng Lưới Sông Quốc Tế / IRN, đưa ra nhận định: Trung Quốc đang hành xử một cách hết sức vô trách nhiệm. Chuỗi đập Vân Nam sẽ gây ra những tác hại vô lường nơi hạ lưu, gây rối loạn toàn hệ sinh thái con sông Mekong xa xuống tới Biển Hồ, nó như một chuông báo tử cho ngư nghiệp và nguồn cá vốn là thực phẩm của ngót 70 triệu cư dân sống ven sông. (12)
Không ai tin rằng, ông Thủ tướng Hun Sen lại có thể không biết tới “Hồi Chuông báo Tử” ấy, ông Hun Sen đã cố tình không muốn biết do nhu cầu chính trị ngắn hạn trong thời gian cầm quyền. Nhưng rồi ra, cái giá rất cao phải trả sẽ là tương lai của dân tộc Cam Bốt và cả nền văn minh xứ Chùa Tháp. Đã có những dấu hiệu sớm nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long đang phải hứng chịu những cơn đau thắt ngực dẫn xuống từ trái tim Biển Hồ thiếu nước.
NGÔ THẾ VINH
California, 12/01/2010
.....................................................
Tham Khảo:
1/ Kunming Declaration, Second Greater Mekong Subregion Summit, 4-5 July 2005
2/ Agreement on the Cooperation for the Sustainable Development of The Mekong River Basin, Chiang Rai, Thailand 05 Apr 1995
3/ Hunsen backed China's often-criticized development plans for the Mekong River,
Phnom Penh, Jun 29, 2005 , [AFP]
4/ Progress In Water Management at the Mekong River Basin,
MRC Presentation at Third WWF, INBO Official Session 20 Mar 2004
5/ Ánh Nguyệt, phóng viên RFI Phỏng vấn Giáo Sư Võ Tòng Xuân 03-12-2004
6/ Chinese Dam Project may spell disater for mighty Mekong River, Denis Gray, Nov 2, 2002, [AP]
7/ Mekong River At Risk, Bary Wain, FEER, Aug 26, 2004
8/ Chinese Dams not to blame for low Mekong levels: Cambodia PM, Nov 17-2010, [AFP]
9/ Hun Sen denies China Dam impacts – Thomas Miller & Cheang Sokha; The Phnom Penh Post, Nov 17, 2010
10/ When The Rivers Run Dry, Water – The Defining Crisis of The Twenty First Century.
Fred Pearce, Beacon Press, Boston, Massachusetts 2006
11/ Global Warming is causing Hymalayan glaciers retreat, threatening to cause water water shoratges,
Geneva, Mar 14, 2005, [AFP]
12/ The Damming of The Mekong: Major Blow to An Epic River,
Fred Pearce, Yale Environment 360 Jun 17, 2009
13/ Chinese environmentalists and scholars appeal for dam safety assessments in geologically unstable south-west China,, https://probeinternational.org/referenced/chinese-environmentalists-and-scholars-appeal-dam-safety-assessments-geologically-unstabl.
14/Vietnam floods spread, Cambodia past the worst_ Mekong Delta, Vietnam, 09/20/ 2000 [Reuters]
..........
http://nguyenvantuan.net/news/6-news/1151-tham-hoa-moi-sinh-o-bien-ho
..........
http://nguyenvantuan.net/news/6-news/1151-tham-hoa-moi-sinh-o-bien-ho