 Trong  80 năm hiện diện trên đất Việt Nam, chưa bao giờ Đảng Cộng Sản  phải lo  giữ quyền lực bằng thời gian tổ chức Đại hội Đảng XI sắp diễn ra  vào  tháng 01 năm 2011, nhưng càng ham nắm quyền Đảng càng quên giữ nước  để  không rơi vào tay Trung Cộng.
 Trong  80 năm hiện diện trên đất Việt Nam, chưa bao giờ Đảng Cộng Sản  phải lo  giữ quyền lực bằng thời gian tổ chức Đại hội Đảng XI sắp diễn ra  vào  tháng 01 năm 2011, nhưng càng ham nắm quyền Đảng càng quên giữ nước  để  không rơi vào tay Trung Cộng.Từ xưa đến nay Đảng CSVN thường rêu rao “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhưng thực tế dân chỉ có thể làm chủ được bản thân mình.
Hãy đọc bài viết của ông Nguyễn Văn An, nguyên Chủ tịch Quốc hội, về vần đề này:
“Tư  tưởng của Bác Hồ là tư tưởng  lấy dân là gốc, dân là chủ. Đảng không  thể đòi hỏi Mặt Trận (Tổ quốc),  đòi hỏi dân phải thừa nhận quyền lãnh  đạo của mình mà phải qua hoạt động  thực tiễn, phải được Mặt Trận và  nhân dân suy tôn, lựa chọn. Lựa chọn  đây là lựa chọn cương lĩnh và  người đứng đầu đất nước thông qua tổng  tuyển cử”.
Nếu Đảng coi mình đương nhiên là lực lượng lãnh đạo thì chẳng khác gì nhà vua cha truyền con nối. Từ một nhà vua cá nhân thời quân chủ, nay trở thành một nhà vua tập thể thời cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Như vậy là Đảng chủ chứ không phải dân chủ.”
 (Báo Tuần Việt Nam, 06/12/2010)
Tuy ông Nguyễn Văn An chưa đòi Đảng phải  rút lui, nhưng nguyên việc đòi  người đứng đầu đất nước phải được dân  bầu lên mới là dân chủ cũng rất  mới so với thời ông Nguyễn Văn An còn  làm Chủ tịch Quốc hội từ ngày  27/06/2001 đến ngày 26/06/2006.
Đảng lãnh đạo là ai?

Đáng chú ý là bài viết của ông Nguyễn Văn An, coi như vượt ra ngoài vòng kiềm tỏa của Đảng, được phổ biến vào lúc có nhiều “chuyên viên tư tưởng, tuyên truyền” của Đảng và quân đội được sử dụng viết bài bảo vệ quyền lãnh đạo cho Đảng.
Chẳng hạn như ông Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch Sử Đảng đã viết bài “Bối cảnh xác lập vai trò và vị trí lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam” trên báo điện tử của đảng ngày 29/11/2010.
Ông Nguyễn Trọng Phúc viết:
  “Đường lối đổi mới và Cương lĩnh  1991 của Đảng đã đưa sự nghiệp đổi  mới – cuộc canh tân vĩ đại trong lịch  sử dân tộc không ngừng phát  triển, giành được những thành tựu to lớn,  có ý nghĩa lịch sử. Đảng Cộng  sản Việt Nam một lần nữa thể hiện trách  nhiệm lớn lao trước dân tộc và  lịch sử.
Vị trí và vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng  xuất  phát từ tính tổ chức, kỷ luật của Đảng ở tính tiên phong, gương  mẫu,  đạo đức cách mạng được rèn luyện ngay từ khi bước vào sự nghiệp  cách  mạng của cán bộ, đảng viên, ở sự gắn bó mật thiết với dân tộc và  nhân  dân”.“Canh tân vĩ đại ở chỗ nào” trong “Cương lĩnh  xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ   sung, phát triển năm 2011), gọi tắt là Cương lĩnh 1991 ra đời tại Đại   hội đảng khóa VII đã đưa Đỗ Mười lên làm Tổng Bí thư Đảng?
Nếu ông Nguyễn Trọng Phúc còn nhớ thì khi ấy Tổng bí thư Đảng khóa VI là Nguyễn Văn Linh đã nói câu để đời “Đổi mới hay là chết”  để mô tả hoàn cảnh sắp chết của Việt Nam vào năm 1986 khi Đảng phải   quyết định bỏ mô hình kinh tế tập trung, bao cấp của Liên Sô để “đổi   mới’, mở cửa  cho ngọai quốc vào đầu tư làm kinh tế thị trường của tư   bản để cứu Đảng khỏi tan vỡ.Do đó, không ai có thể bị mê hoặc bởi những lời ông Nguyễn Trọng Phúc tự biên tự chế để khoe khoang như:
“Vị   trí, vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn không ngừng được củng cố, phát  triển  từ trong bản chất cách mạng, khoa học và tư tưởng, lý luận của  Đảng, từ  sự đúng đắn và không ngừng hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối  chính trị,  từ sự không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao  năng lực lãnh  đạo và sức chiến đấu của Đảng, từ sự rèn luyện, không  ngừng theo tấm  gương đạo đức Hồ Chí Minh. Vị trí lãnh đạo duy nhất của  Đảng không bao  giờ thay đổi vì ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và  nhân dân, Đảng  Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác.”
Nhưng “giai cấp – dân tộc – nhân dân”  nào đã ủy nhiệm cho Đảng lãnh đạo  đất nước? Nếu Đảng tự cho rằng mình  là đại biểu của “giai cấp công nhân  và nhân dân lao động” là một ngụy  biện vì cả hai giai cấp này đã, đang  và sẽ tiếp tục bị Đảng bạc đãi và  bóc lột đến tận xương tủy như đã thấy  từ khi có bóng dáng Đảng trên đất  nước. Do đó khi nghe ông Nguyễn Trọng  Phúc nói Cương lĩnh đã phản ảnh  quyết tâm “không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”   thì chẳng ai tin, vì ông Nguyễn Trọng Phúc đã nói những điều ngược lại   với nội dung của văn kiện này. Việc này đã được chứng minh trong các ý   kiến của nhiều tầng lớp nhân dân sau 47 ngày bản Cương lĩnh được đem ra   lấy ý kiến (kết thúc ngày 31/10/2010).
Dân chủ hay đảng chủ?

Để bênh vực cho chính sách độc tài ngụy trang trong “tập trung dân chủ”, anh Thiếu tá – Thạc Sỹ Trần Văn Huyên, Phòng Nhà trường, Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị đã phét lác trong báo điện tử Đảng qua bài “Một số vấn đề về bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ và đấu tranh với các quan điểm sai trái hiện nay”.
Ông Trần Văn Huyên đã lý luận “tập trung dân chủ” như thế này:
“Tập  trung trên cơ sở dân chủ, điều  này làm cho tập trung khác biệt về bản  chất so với chuyên chế, chuyên  quyền. Nội dung của nguyên tắc chỉ rõ:  Tổ chức đảng và đảng viên phải  chấp hành nghị quyết của Đảng. Đó là tập  trung. Nghị quyết của các cơ  quan lãnh đạo các cấp của Đảng chỉ có giá  trị thi hành khi có hơn một  nửa số thành viên trong cơ quan đó tán  thành. Trước khi biểu quyết, mỗi  thành viên được phát biểu ý kiến của  mình. Nghị quyết là sự tập trung  cao trí tuệ, nguyện vọng của cán bộ,  đảng viên. Để có sự chấp hành nghị  quyết một cách nghiêm chỉnh, vô điều  kiện, thì điều kiện tiên quyết là  nghị quyết đó phải được xây dựng  trên cơ sở dân chủ.”
(bài viết ngày 03/12/2010)
Đây là lập luận Đảng đang cổ võ cho điều  được gọi là dân chủ phải có kỷ  luật, không dân chủ bừa bãi để gây hỗn  loạn xã hội, nhưng đồng thời cũng  để chống đòi Đảng phải thi hành dân  chủ thật sự bằng cách từ bỏ độc  quyền lãnh đạo và chấp nhận đa nguyên  đa đảng chính trị. Bởi lẽ thực tế  đã chứng minh nhân dân Việt Nam chưa  hề có dân chủ, dù chỉ một ngày kể  từ khi Đảng Cộng Sản nắm quyền cai  trị ở miền Bắc năm 1954 và sau 1975  trên cả nước. Thứ “dân chủ tập  trung” đang được làm rùm beng trước thềm  Đại hội Đảng XI là thứ dân chủ  hạn chế chỉ diễn ra trong nội bộ đảng mà  thôi. Dân không có quyền đòi  dân chủ mà phải do Đảng ban cho ai thì  người ấy được. Do đó chủ trương  này đã bị bóc trần, bị chỉ trích là độc  tài, mị dân bởi nhiều trí thức  trong nước, kể cả một số đông cựu đảng  viên và cựu lãnh đạo.
Để chống lại, Ban Tuyên Giáo và Báo Quân Đội Nhân Dân đã tung ra  nhiều  bài viết xuyên tạc và chụp mũ những người có lập trường đối lập  với  Đảng. Chẳng hạn như lập luận của ông Trần Văn Huyên: “Nguyên   tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc vô cùng quan trọng đảm bảo sự sống   còn của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Do vậy, các thế lực thù địch đã chống   phá quyết liệt bằng những quan điểm sai trái về bản chất của nguyên tắc   tập trung dân chủ cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Về phương   diện lý luận, đã có nhiều quan điểm hiểu không đúng hoặc cố tình xuyên   tạc nội dung và bản chất của nguyên tắc này, thực chất là muốn xoá bỏ   nguyên tắc tập trung dân chủ, làm suy yếu Đảng, xoá bỏ vai trò lãnh đạo   của Đảng. Lẽ dĩ nhiên, những quan điểm này không trực diện đòi xoá bỏ   nguyên tắc tập trung dân chủ mà núp dưới cái phương pháp “phân tích bản   chất của nguyên tắc”, bằng lập luận lập lờ, lái nhận thức của mọi người   đi đến chỗ từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ.”
Trước đó, ông Nguyễn Mạnh Hưởng, Phó  Giáo sư, Tiến sỹ Viện Khoa Học Xã  Hội Nhân Văn Quân Sự – Bộ Quốc Phòng  cũng  huyênh hoang trên Tạp chí Cộng Sản ngày 08/09/2010:
“Từ  khi thành lập đến nay, Đảng  Cộng Sản Việt Nam luôn là đội tiền phong,  lãnh tụ chính trị của giai cấp  công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam,  là người lãnh đạo và tổ chức  mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua  sự “sàng lọc” dữ dội của lịch  sử những thập kỷ đầu thế kỷ XX, dân tộc  Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã  lựa chọn Đảng Cộng Sản Việt Nam là người  dẫn dắt mình đi đến tương lai  hạnh phúc.”
Người dân nào đã “lựa chọn Đảng Cộng sản  Việt Nam” để thay mình lãnh đạo  đất nước, hay Đảng này đã cướp mất của  dân từ cuộc “cách mạng” tháng  8/1945?
  “Dưới sự lãnh đạo duy nhất của  Đảng Cộng Sản Việt Nam, sự nghiệp cách  mạng nước ta đã đem lại những  quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc  và toàn thể nhân dân lao động  Việt Nam, nhân dân ta thực sự được làm  chủ cuộc sống của mình, được sống  cuộc đời “tự do, hạnh phúc”. 
Ai đã làm chủ cuộc sống của dân thì  người cộng sản biết rõ hơn ai hết  nên điều được gọi là “tự do, hạnh  phúc” cho đến nay, sau 64 năm “được”   sống với chế độ (1954-2010),  người dân mới thấy mình bị Đảng lừa, bị  Đảng cho ăn nhiều bánh vẽ quá!  Vậy mà ông Nguyễn Mạnh Hưởng vẫn có thể  trâng tráo dẻo mép:
“Ở  Việt Nam  không thực hiện chế độ đa đảng không phải vì chúng ta bảo  thủ, mất dân  chủ như các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc, mà đó là  yêu cầu khách  quan, là vì sự ổn định và phát triển của đất nước, vì sự  phát triển của  nền dân chủ và hạnh phúc của nhân dân, để thực hiện  thắng lợi mục tiêu  xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công  bằng, văn minh”. 
Rằng:
“Ở  nước ta, thực hiện một đảng duy  nhất lãnh đạo, mọi người dân đều có  thể trực tiếp hay gián tiếp (thông  qua người đại diện của mình) đề đạt  nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho  các cơ quan công quyền. Các kênh bảo  đảm và phát huy quyền làm chủ của  nhân dân ngày càng được mở rộng và  hoạt động có hiệu quả. “Dân biết, dân  bàn, dân làm, dân kiểm tra” trở  thành quy chế, thiết chế dân chủ trong  các tổ chức chính trị – xã hội,  trong các hoạt động của xã hội; là  phương châm hành động của người dân  trong xây dựng hệ thống chính trị;  là yêu cầu ứng xử của cán bộ trong  tiếp xúc, quan hệ với dân và chăm lo  đến dân. Nhân dân lao động là chủ  thể mọi quyền lực; quyền lợi và nghĩa  vụ, quyền hạn và trách nhiệm,  cống hiến và hưởng thụ luôn gắn bó chặt  chẽ với nhau. Thực tế trên chưa  phải là đầy đủ, nhưng đã cho thấy tính  ưu việt của chế độ một đảng ở  Việt Nam; không thể vì những khó khăn,  phức tạp nào đó mà xuyên tạc bản  chất chế độ dân chủ của nước ta, đòi  thực hiện đa đảng, xóa bỏ sự lãnh  đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.”
Quả thật chỉ có những cái đầu mất óc mới  có thể bù lu bù loa những  “thành quả vĩ đại” của Đảng CSVN và tính ưu  việt của chế độ như ông  Nguyễn Mạnh Hưởng đã bịa ra. Ngay cả khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”  đã tự nó làm nhục chế độ khi trong thực tế người dân không có quyền gì   cả. Vì nếu người dân có quyền “kiểm tra” thì có lẽ Việt Nam không còn   quốc nạn tham nhũng như hiện nay.
“Ngay  trong máu lửa, Đảng ra đời là  vì sự nghiệp giải phóng, cứu vớt nhân  dân, Đảng thực sự được nhân dân  tin, dân kỳ vọng là người cứu vớt,  người đem lại hạnh phúc cho mình. Các  thế hệ đảng viên, cán bộ của Đảng  đã thật sự vì nhân dân mà hy sinh  phấn đấu, không vì lợi ích cá nhân.  Nhân dân tìm thấy ở Đảng là người  dẫn dắt mình đi tới tương lai. Đồng  thời Đảng ta đã là của dân, Đảng dựa  vào nhân dân, tạo thành lực lượng  cách mạng có sức mạnh vật chất và  tinh thần vô tận, mạnh như thác lũ.  Nhân dân che chở, bảo vệ, nuôi dưỡng  Đảng trong mọi hoàn cảnh. Đảng đã  thiết lập mối quan hệ máu thịt, quan  hệ cá nước giữa Đảng với nhân dân.  Đảng thực sự là của dân, Đảng không  có mục đích tự thân.”
Nếu dân đã liên hệ “máu thịt” với Đảng  như thế thì tại sao bây giờ đã có  nhiều người quay lưng lại với Đảng.  Điều này cũng đã được ông Trần  Quang Nhiếp chứng minh khi viết rằng:
“Những  thái độ trên đây khác hẳn  với thái độ của những kẻ dụng ý xấu xa, tâm  địa độc ác một cách có bài  bản hòng xóa bỏ Đảng cộng sản Việt Nam.  Chúng ra sức lôi kéo, làm chuyển  biến nhận thức của một bộ phận cán bộ,  đảng viên, nhân dân đi đến hoài  nghi, từ bỏ Đảng. Bằng nhiều thủ đoạn  kinh tế, chính trị, văn hóa… chúng  làm cho cán bộ, đảng viên tự diễn  biến mất lòng tin, phai nhạt lý  tưởng. Chúng bơm to, thổi phồng những  yếu kém, sai lầm, thiếu sót nhằm  bôi nhọ, hạ uy tín của Đảng, bôi đen  chế độ. Họ không những bác bỏ mọi  công lao của Đảng suốt 80 năm qua, mà  còn bịa đặt vu cáo trắng trợn cho  Đảng về tội lỗi đối với dân tộc, đối  với lịch sử. Chúng chia rẽ khối  đoàn kết, kích động phái này, phái kia  làm suy yếu Đảng… thực chất đây  là những hành vi “đục nước, béo cò”,  phá hoại Đảng, kích động tâm lý ly  khai Đảng để mưu cầu mục tiêu đen  tối của chúng.”
Đã có nằm vùng của Bắc Kinh?

Nhưng ông Trần Quang Nhiếp có biết tại sao bây giờ đã có những người thù ghét Đảng đến đỗi không cón muốn nhìn mặt Đảng nữa không? Tại vì Đảng bám víu quyền lợi thiển cận mà đã đẩy đất nước vào tay Bắc Kinh qua các dịch vụ hợp tác khai thác bauxite ở Tây Nguyên; cho thuê đất rừng trong thời hạn 50 năm ở ít nhất 10 tỉnh đầu nguồn có vị trị chiến lược quốc phòng; để cho hàng chục ngàn công nhân Tàu vào làm ăn ngay trong lãnh thổ Việt Nam qua các vụ trúng thầu xây dựng các nhà máy điện, xi-măng v.v. được Chính phủ Bắc Kinh bù đậy, che chở.
Hãy đọc bài viết của Tác giả Cầm Văn Kình trên báo Tuổi Trẻ ngày 28/03/2009: “Ngày   27-3, Tổng Hội Xây Dựng Việt Nam tổ chức buổi tọa đàm về kích cầu  trong  xây dựng. Thực trạng lớn nhất được đưa ra tại buổi tọa đàm là rất  nhiều  dự án lớn đã triển khai nhưng hàng hóa VN không thể tiêu thụ  được vì  trúng thầu là các nhà thầu ngoại, chủ yếu là Trung Quốc” .
Vừa đi cùng Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đến thăm một công trình xây dựng nhiệt điện ở Quảng Ninh, ông Nguyễn Công Lục – Vụ trưởng Vụ Kinh Tế Ngành, Văn phòng Chính Phủ – công nhận “một công trình nhưng công nhân Trung Quốc sang tới hơn 2.000 người” . Trong khi đó, ông Trần Văn Huynh – Chủ tịch Hội Vật liệu Xây dựng Việt Nam – cho biết không chỉ một mà hơn 10 công trình xây dựng nhà máy xi-măng và nhiều dự án nhà máy điện lớn ở VN đều đang được các nhà thầu Trung Quốc thi công. Đặc trưng của nhà thầu Trung Quốc, theo ông Trần Văn Huynh, là họ không thuê nhân công Việt Nam mà đem người sang, có thể bằng cả đường du lịch rồi ở lại.
Ông Trần Văn Huynh nói “Một số loại vật liệu Trung Quốc được đem qua Thái Lan rồi vòng vào Việt Nam. Máy móc thiết bị không nhập riêng được thì họ lắp sẵn rồi đem cả sang. Tôi có thăm một nhà máy xi-măng do nhà thầu Trung Quốc làm, đến cái bệ xổm trong nhà vệ sinh họ cũng không dùng hàng Việt Nam mà mua hàng Trung Quốc”.
Ông Trần Hồng Mai – Viện phó Viện Kinh tế Xây dựng – góp thêm một thực trạng khi cho biết có thể các nhà thầu Trung Quốc nhận được nhiều hỗ trợ từ phía nước họ, kể cả chính sách thuế, nên giảm mạnh giá bỏ thầu. Vì vậy, họ thường nắm phần thắng khi đấu thầu. Nên các công trình lớn như Đạm Cà Mau, nhà máy điện ở Hải Phòng, khi xây dựng lúc nào cũng có hàng ngàn công nhân Trung Quốc…
Cùng lo ngại như ông Trần Văn Huynh “nếu các công trình lớn đều vào các nhà thầu ngoại sẽ dần triệt tiêu nội lực”, nhiều chuyên gia đề nghị nên có chính sách cụ thể để giúp các doanh nghiệp xây dựng trong nước. Ông Trần Văn Huynh phân tích: “Giá thầu rẻ nhưng chất lượng không cao chưa chắc đã là rẻ, không nên tư duy cứ giá thấp là trúng thầu”. Ông Trần Hồng Mai viện dẫn Luật đấu thầu đã quy định phải ưu tiên doanh nghiệp Việt Nam nhưng nhiều chủ đầu tư Việt Nam lại “quên” điều này. Ông Mai cho rằng Nhà nước cần có chính sách để “nhắc” các chủ đầu tư.
Ngoài ra Đảng và Nhà Nước cũng đã bị khuất phục trước đe dọa của Tàu ở Biển Đông, bất lực trước các vụ ngư dân Việt Nam bị Tàu bắt, đánh đập, đâm thuyền làm chết chìm dưới lòng biển.
Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang đã lên tiếng báo động từ trong nước hôm 01/12/2010:
“Có  người cho rằng không chỉ có “Vũ  Ngọc Nhạ” trong đầu não Đảng, Quốc hội  mà nhan nhản đó đây những tình  báo nước ngoài nằm tại các phường, xã  của ta. (Chẳng thế mà hacker Tần  Thủy Hoàng đâu từ Trung Quốc cũng tích  cực tham gia đánh phá các trang  web dân chủ tiếng Việt). Xin hãy tỉnh  táo. Việc hệ trọng hàng đầu hiện  nay là ngăn chặn nguy cơ chui vào rọ  ngoại bang đã, để rồi mới còn có  thể tiếp tục bàn luận với nhau về  những con đường tối ưu tiến tới dân  chủ hóa đất nước”.
Cũng nên biết Vũ Ngọc Nhạ, bí danh Hai  Long là cán bộ tình báo chiến  lược của Quân Đội Cộng Sản miền Bắc  được  gài vào Dinh Độc Lập từ thời  Đệ I Việt Nam Cộng Hòa và chỉ bị phát  giác trong cụm tình báo của cộng  sản A.22 vào trung tuần tháng 07/1969  thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.  Ông Nhạ là một trong số 42 cán bộ  tình báo nguy hiểm đã bị bắt cùng với  Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thúy (tức  Thắng), Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hòe,  Nguyễn Xuân Đồng v.v. Vũ Ngọc  Nhạ chết năm 2002 với quân hàm Thiếu  tướng.
Phạm Trần
Tháng 12/2010
Tháng 12/2010
 

