Nhiều nước Phương Tây đã quen với xã hội đa văn hóa
Trong bài tiểu luận trước,
tôi đã đề cập đến những vấn đề, góc nhìn và sự phát triển gần đây mà
người Việt cần biết trước khi họ mạo hiểm sang Phương Tây.
Tuy
nhiên, tôi đã sao nhãng một câu hỏi rất quan trọng: “Nói chung, người
Tây nhìn và đối xử với người Việt và người Châu Á như thế nào?”
Tin
mừng là người Tây nói chung nhìn người Châu Á cũng giống như mọi người
khác. Vì đạo đức tự do được phổ biến và cá nhân được đề cao, nhiều nước
Phương Tây tin tưởng rằng mọi người nên được đối đãi bình đẳng và công
bằng. Có pháp luật ở mỗi nước khuyến khích và bảo vệ lý tưởng này, tức
là trong việc làm và cả trong đời sống công cộng, không phân biệt nam
hay nữ, gia đình, giới tính, tôn giáo, dân tộc hoặc là chủng tộc. Quan
trọng nữa là những đạo luật này phản ánh sự cởi mở và quyết tâm có công
bằng xã hội mà đã giúp cho phương Tây thành công và đáng được đến thăm
hay định cư.
Nhưng
dĩ nhiên, xã hội phương Tây, như bất cứ xã hội nào, không phải lúc nào
cũng sống đúng theo lý tưởng của mình. Mặc dù những vụ phân biệt chính
thức hay quá khích ít xảy ra, nhưng sự phân biệt thực sự vẫn còn. Theo
kinh nghiệm của tôi sau khi ở Úc hơn 30 năm, rất hiếm khi xảy ra các vụ
tấn công bạo lực do kỳ thị chủng tộc. Vì vậy, mỗi người đi nước ngoài,
dù phải lo về an toàn cá nhân, nhưng không phải vì thế mà ngần ngại làm
chuyến “Tây du ký”.
Tệ
phân biệt mà người Châu Á nên chú ý hơn là sự phân biệt “tinh tế hơn”,
hiện hữu trong những cửa hàng và quán ăn nơi mà người bán hàng và hầu
bàn có vẻ đối xứ với mình cộc lốc và uể oải hơn những khách không phải
là người Châu Á. Đôi khi chúng ta bị bắt gặp đang nói chuyện to bằng
tiếng Việt và người qua đường nhìn chúng ta với thái độ khinh miệt. Và
chúng ta có thể nhận ra khi người khác cười khẩy vì những điều bình
thường đại loại như râu tóc, ngón tay nhỏ dài, một món ăn không quen hay
cách ta đậu xe hơi.
Hình mẫu rập khuôn
Ở
nhiều nước phương Tây người Châu Á được xem như di dân thành công và
hòa nhập tốt với cộng đồng mới. Vì vậy, sự phân biệt không phải là thách
thức hay bất công to lớn nhất. Thay vào đó, nhà trí thức Úc, Waleed
Aly, đã nói rất đúng khi miêu tả rằng ở Úc (và có lẽ ở nhiều nước khác),
“có mức độ cao của sự phân biệt chủng tộc mức thấp”. Có nghĩa là người
Châu Á bị ép buộc một cách vô hình sống theo sự mong chờ của người
phương Tây và bị phê bình hay nhạo báng khi họ không tuân theo.
Người
Châu Á ở các nước phương Tây nhiều khi bị coi như hoàn toàn khác biệt
với người Tây và đồng thời hoàn toàn đồng nhất đối với tất cả người Châu
Á khác. Tóc “ta” luôn luôn đen và thẳng, mắt luôn luôn nghiêng, làm
việc luôn luôn vất vả, học toán luôn luôn giỏi và luôn luôn có hiếu.
Đương nhiên, ấn tượng bất di bất dịch này không phải là vấn đề xấu thực
chất; vấn đề ở đây là vấn đề rập khuôn.
Như
tôi sẽ giải thích dưới đây: chúng ta nên chống lại mẫu rập khuôn này vì
chúng ngăn trở sự quan hệ cá nhân và công việc chuyên nghiệp của người
Châu Á ở nước ngoài và đôi khi cả ở trong nước. Hơn nữa, chúng ta nên
phản đối sự phân biệt này không phải là vì sự tiến bộ trong đời sống của
“người Ta” thôi, mà còn để nâng cao nền đức hạnh và văn minh của Phương
Tây nữa. Như ông Martin Luther King đã dạy, “sự bất công ở bất kỳ nơi
nào cũng là sự đe dọa bất công khắp mọi nơi”.
Quan hệ tình yêu
Có
nhiều điều đáng kính trọng về mối quan hệ giữa người châu Á và người
phương Tây. Quan hệ này có thể là cầu nối ở giữa hai xã hội khác nhau.
Cơ
bản là, và chắc chắn là việc này không làm ai ngạc nhiên, phụ nữ Châu Á
hấp dẫn với nam giới Tây hơn nam giới Châu Á hấp dẫn với phụ nữ Tây.
Theo số liệu điều tra dân số ở Mỹ, khả năng phụ nữ Mỹ gốc Châu Á kết hôn
với người ngoài chủng tộc cao gấp đôi nam giới Mỹ gốc Châu Á lấy vợ
ngoài chủng tộc.
Một
lý do giải thích sự chênh lệch này là hình tượng của phụ nữ Châu Á ở
phương Tây là thanh lịch, quyến rũ và đẹp kỳ lạ. Một bằng chứng hiển
nhiên là trong những phim nổi tiếng như Rambo: First Blood Part II, Good
Morning Vietnam, Đông Dương và Người Mỹ Thầm Lặng (cả hai bản làm 1958
và 2002), các diễn viên nữ Việt Nam chính trong phim này rất xinh, nhưng
cũng thần bí và có nhiều trắc trở trong đời sống.
Các
học giả về giới và Châu Á học khẳng định rằng việc Tây Phương ham thích
phụ nữ Châu Á gắn liền với cái nhìn cho rằng họ mềm mỏng và dễ phục
tùng. Vì vậy, việc đàn ông Tây theo đuổi đàn bà Châu Á gắn với mộng
tưởng cứu giúp, thuần hoá và truyền bá văn minh cho xã hội Châu Á. Ngoài
ra, mẫu đàn bà hiền lành và nghiêm trang dễ thu hút những đàn ông Tây
có quan niệm truyền thống – họ ngờ vực ảnh hưởng của chủ nghĩa nữ quyền
lên sắc đẹp và vai trò về giới.
Cần
nói rõ là tôi không có ý cho rằng mọi đàn ông Tây quan hệ với phụ nữ
Châu Á đều có mộng tưởng thuộc địa hoặc luyến tiếc quá khứ. Tôi chỉ muốn
nói là hai sự thôi thúc này đã đóng góp đưa tới hình tượng thống trị
của phụ nữ Châu Á ở Phương Tây và có thể giúp giải thích tại sao quan hệ
giữa “nữ Ta” và “nam Tây” phổ biến hơn quan hệ giữa “nữ Tây” và “nam
Ta”.
Hình tượng phụ nữ Việt Nam gắn liền với chiếc áo dài
Đàn
ông Á Châu tương đối không hấp dẫn ở phương Tây nói chung vì bị xem là
quá yểu điệu về cơ thể và quá gia trưởng về xã hội. Trong văn hóa phương
Tây, tính điển hình của đàn ông Châu Á là đầy sát khí và thủ đoạn (nổi
tiếng nhất là Hoàng Đế Nhà Minh tàn ác trong Flash Gordon). Những đàn
ông Châu Á đáng yêu thường là hơi lập dị và tức cười (Jackie Chan, Pat
Morita hay John Cho). Trong cả hai trường hợp (kẻ hung ác và bạn tri
kỷ), nhân vật Châu Á không bao giờ bằng được anh hùng Phương Tây rắn
chắc và tự tin, và ít khi giành được người đẹp.
Trong
khi đàn bà Châu Á có thể đáp ứng quan niệm truyền thống của Tây Phương
về phụ nữ, đàn ông Châu Á trở nên kém hấp dẫn hơn khi được so với quan
niệm truyền thống ở Tây Phương về nam giới. Người đàn ông Phương Tây lý
tưởng là vạm vỡ và quả quyết, còn người đàn ông Châu Á lý tưởng là khéo
léo và kín đáo.
Quan
niệm của Phương Tây về đàn ông Châu Á có thể thay đổi trong tương lai,
nhất là nếu thế kỷ này tiến triển thành “Thế kỷ của Châu Á”. Tuy thế,
cũng giống như không có môn thể thao hay trò chơi nào lại cao cấp hơn
môn thể thao hay trò chơi khác, có lẽ nam giới Châu Á thực ra không khá
hơn hay kém hơn đàn ông phương Tây, tối thiểu là về mỹ học? Có lý do nào
trong thế kỷ 21 để ta tin rằng to lớn hơn thì luôn luôn tốt hơn?
Như
vậy, quan trọng hơn là ta đối đầu với định kiến rằng đàn ông Châu Á
không hấp dẫn vì nó không sáng tỏ và có tính chất sô vanh. Chúng ta cũng
nên nghi ngờ tư tưởng Nho giáo đặt đàn ông vào vị trí cao nhất trong
gia đình và cộng đồng. Những hệ thống cấp bậc gia trưởng đã lỗi thời và
bất công, không chỉ làm phụ nữ Tây phát chán, mà phụ nữ Châu Á cũng thấy
thế khi họ “đoạn tuyệt” với những truyền thống và đạo đức đã bắt họ ở
nhà và sống dưới quyền hành của đàn ông.
Trong
Tạp chí Châu Á và Hoa Kỳ Học nhà nghiên cứu Kumiko Nemoto đã phỏng vấn
vài chục phụ nữ Hoa Kỳ gốc Châu Á, những người đã từng hẹn hò hay lấy
chồng da trắng. Tất cả những phụ nữ này thể hiện sự buồn giận với đàn
ông Châu Á vì họ nhìn thấy sự lạc hậu, thiếu thông cảm và hờ hững. Theo
một người được phỏng vấn, đàn ông Châu Á, “không phải là người hào hoa
phong nhã…Họ không trìu mến…Tôi nghĩ cá tính của tôi không phù hợp với
nhiều đàn ông Châu Á vì tôi quá tự lập.…tôi có tinh thần hướng ngoại quá
cao.”
Tôi đã từng nghe những người phụ nữ Việt Nam
ở những độ tuổi khác nhau và ở những nơi khác nhau thể hiện sự buồn
giận tương tự về đàn ông Việt. Mới đây, khi tôi ráng “làm mối” một người
bạn nam cho một người nữ, tôi nhấn mạnh anh này chu đáo và hiện đại,
anh ấy trưởng thành trong hoàn cảnh khó khăn nên biết lo cho mình và
chăm sóc cho người khác, anh ấy nấu ăn ngon lành và lau nhà sạch sẽ.
Chị ấy trả lời, “Tất cả điều đó sẽ thay đổi khi anh ấy có vợ.”
Câu này làm cho tôi phải cân nhắc rằng đàn ông Châu Á nên suy nghĩ lại
thái độ của mình đối với tình bạn và tình yêu, công việc trong nhà và
công việc nuôi con nếu muốn tránh cảnh cô đơn suốt đời.
Cái trần bằng tre
Tác
giả Mỹ gốc Hàn Quốc, Wesley Yang, mới viết bài tranh luận trong New
York Magazine khẳng định nhiều phòng làm việc ở Mỹ đã xuất hiện cái
“trần bằng tre” có khả năng trấn áp một cách kín đáo người Châu Á không
cho họ vươn lên. Ông Yang xác nhận trong những nghề làm ăn qua nhiều
thập kỷ, người gốc Châu Á đã chiếm ưu thế như kinh doanh, luật, y khoa
và công nghệ thông tin. Nhưng hiện nay có rất ít người Châu Á giành được
vị trí quản lý và giám đốc.
Ông
Yang tố cáo cái “thành kiến vô thức” này, nhưng lại phê bình nặng nề
hơn những người Châu Á làm cho thành kiến kéo dài. Đặc biệt, sự bất tài
của người Đông Á trong thể hiện tình cảm, sáng kiến và ý chí của họ, có
nghĩa là có định kiến nhìn người Châu Á như người máy hơn là con người.
Nói
cách khác, người Châu Á ở Phương Tây được đánh giá như xe máy Honda
chắc chắn và bền, nhưng còn thiếu điểm đặc trưng hiện đại và mốt của xe
máy Vespa và thua xa xe hơi BMW mạnh mẽ và sang trọng. Nghĩa là ở phương
Tây nhân viên Châu Á được đánh giá xuất sắc, miễn là họ cúi đầu làm
việc chăm chỉ và không đòi hỏi nhiều quá.
Tôi
cũng thích sự hăng hái của ông Yang, nhưng tự hỏi liệu có phải ông Yang
chống đối đạo đức Châu Á chỉ để phục tùng lý tưởng Mỹ về công việc và
sự lãnh đạo. Hình như ông Yang đang kêu inh ỏi, “Chúng ta người Châu Á
cũng trở thành phương Tây được!”
Điều
này đưa ra một câu hỏi, “Người Châu Á có thể đạt được thành công và
đóng góp cho phương Tây trong lúc còn trung thành với Châu Á không?” Tôi
hy vọng câu trả lời là “Có thể”.
Châu Á hơn nữa
Việc
thứ nhất mà người Châu Á trẻ nên suy xét là học thêm về cội nguồn của
chính mình. Người Châu Á muốn di chuyển đến phương Tây nên nắm lịch sử,
văn hóa, mâu thuẫn, thách thức và sắc thái xã hội gốc của chính mình.
Không có kiến thức này, thì không bao giờ thay đổi định kiến về Châu Á ở
Phương Tây được.
Đối
với nhiều du học sinh Châu Á, việc thông thạo kiến thức xã hội, thời sự
và di sản văn hóa của mình có nhiều lợi ích cho việc học tập. Nhiều
khi, tôi chứng kiến sinh viên Châu Á ở Úc không thành công trong bài
tiểu luận và công trình nghiên cứu hoặc không tham gia vào thảo luận
trong lớp, không phải là vì kém tiếng Anh, mà vì thiếu những ví dụ, vấn
đề và ý tưởng được rút ra từ kinh nghiệm của đất nước mình.
Tôi thường nghe nói những loại suy nghĩ và học hành kiểu Châu Á (cụ thể ở Việt Nam)
là quá bị động, nên phải cải tạo cho năng động và sáng tạo hơn. Có thể ý
kiến này đúng, tuy nhiên có mâu thuẫn trong việc đấu tranh để cho năng
động và sáng tạo hơn nhưng rốt cuộc chỉ thành ra “như phương Tây thôi”.
Cuốn
sách gây tranh cãi và bán chạy như tôm tươi của bà Amy Chua, Khúc chiến
ca của Hổ mẹ, thăm dò những sự khác biệt rõ ràng trong phương pháp nuôi
con của người Trung Quốc và người Tây. Bà Chua mô tả những chuyện kinh
khiếp và hài hước khi nuôi hai đứa con gái: bắt chúng thi điểm cao nhất,
từ chối niềm vui phù phiếm và bắt buộc học bài và tập chơi nhạc vài
tiếng mỗi ngày.
Bà
Chua nói học gạo “bị đánh giá thấp ở Hoa Kỳ”, trong khi bà cho rằng học
gạo giúp làm tăng tiến trí óc, dũng cảm chịu đựng và cho ta cảm giác
mình đạt thành tích nhờ gắng sức. Sau khi con mình trở nên xuất sắc –
trong trường học, khi chơi piano, bơi lội – con mình sẽ thấy hoạt động
ấy vui hơn và giá trị hơn (ý niệm này cũng được thể hiện rõ trong loạt
phim The Karate Kid và Kung Fu Panda). Bà mẹ hổ cho rằng: hổ con kiên
tâm chứ không yếu đuối, bà mẹ luôn chuẩn bị chúng cho tương lai và chứng
minh tình yêu của mẹ hổ qua hy sinh lớn lao.
Khi
làm việc với vài trăm sinh viên Tây mỗi năm, tôi thấy là họ cũng nên
mang tính Châu Á hơn một chút. Nhiều khi họ bỏ quên hai bổn phận chính
của sinh viên: im lặng và nghe lời. Sinh viên Tây thường nghĩ họ có lợi
khi tweet, blog, SMS, hơn là cần phải học từ thầy cô giáo hoặc trong
sách vở. Đôi khi vì họ rất bận “multi-tasking” (làm nhiều công việc
trong một lúc), họ không thu được kết quả gì. Đương nhiên, hiện nay
nhiều sinh viên Châu Á cũng thiếu tập trung và thiếu sự rèn luyện trí
óc; những người này cũng nên mang tính Châu Á hơn.
Để
hiểu người Tây thấy người Ta như thế nào, bạn nên biết là mỗi bên không
phải là hoàn hảo và mỗi bên đều có những điểm và tính cách có thể giúp
bên kia. Dĩ nhiên người Việt đã biết điều này từ lâu. Trong lịch sử lâu
dài, người Việt nhiều lần phải vay mượn, thích nghi, và pha trộn ảnh
hưởng từ nước ngoài, những ảnh hưởng mà sau một thời gian người Việt xem
chúng là “của mình”.
“Không
có văn hóa tinh khiết,” là lời nhắc của nhà nghiên cứu Hữu Ngọc. “Tất
cả là sự pha trộn.” Quan niệm này được chứng minh trong thần thoại nguồn
gốc dân tộc (“con Rồng cháu Tiên”), ngôn ngữ (quốc ngữ), tôn giáo (tam
giáo), thời trang (áo dài) và thức ăn (phở). Vì vậy, nếu quá khứ là
hướng dẫn cho hiện tại, thì người thanh niên Việt Nam chuyển đến phương
Tây không cần sợ bị ô nhiễm văn hóa xa lạ làm cho mình mất thiêng. Chúng
ta tồn tại ở giữa phương Đông, phương Tây và những nơi khác, và đồng
thời vẫn là người Việt đầy kiêu hãnh.
Tiến sĩ Kim Huỳnh
................................................................
Tiến
sĩ Kim Huỳnh là giảng viên tại Đại Học Quốc Gia Úc, đã đăng tiểu sử
về gia đình mình trong cuốn Where the Sea Takes Us: A
Vietnamese-Australian Story (HarperCollins 2008) và là một trong hai chủ
bút của cuốn sách The Culture Wars: Australian and American Politics in
the 21st Century (Palgrave MacMillan 2009). Bản gốc tiếng Việt được
bà Hà Thị Thu Hương từ Trung tâm Integrated Culture and Language
Studies (ICLS) chỉnh sửa đôi chút và BBC biên tập lại.