Kinh tế gia Jonathan Pincus, làm
việc cho Chương trình Việt Nam, Harvard Kennedy School và là Hiệu
trưởng Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright tại Tp HCM vừa có bài
viết đăng trên Bấm
Financial Times, đánh giá về nỗ lực tái cấu trúc kinh tế của Việt Nam. BBC tiếng Việt giới thiệu cùng quí vị.
Nhưng Việt Nam thực sự nên làm gì để thay đổi có kết quả?
Việc tìm kiếm một mô hình tăng trưởng mới đã được chính thức phê duyệt. Tháng trước, ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Việt Nam, một lần nữa kêu gọi các doanh nghiệp nhà nước tập trung vào các mảng kinh doanh cốt lõi của họ và ra lệnh cho Bộ Tài chính công bố kết quả tài chính của tổng công ty và các tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước, được gọi là tập đoàn kinh tế nhà nước.
Tuy nhiên, tái cấu trúc kinh tế lại được hiểu theo cách khác nhau từ những người khác nhau.
Cách diễn giải cấp tiến nhất – và là cách mà giới ngoại giao nước ngoài và các tổ chức quốc tế tại Hà Nội ủng hộ - được dựa trên việc định nghĩa lại vai trò của nhà nước, chủ yếu thông qua việc bán các công ty nhà nước.
Hầu hết giới lãnh đạo Việt Nam không sẵn lòng đi xa như vậy. Họ ưa kiểm soát hành chính chặt chẽ hơn đối với chính quyền cấp địa phương và các công ty nhà nước, và giảm mức đầu tư công cũng như thâm hụt tài chính.
Người ta đề xuất các biện pháp khác nhau để đạt được một mục tiêu chung: đó là áp đặt kỷ luật đối với doanh nghiệp nhà nước và chính quyền địa phương.
Việt Nam từ trước tới nay đầu tư hơn 40% GDP, phần lớn từ ưu đãi quỹ đất của nhà nước và tín dụng dành cho các công ty nhà nước cũng như chính quyền cấp địa phương.
"Bán các công ty nhà nước và buộc chính quyền cấp tỉnh dùng doanh thu của địa phương và vay qua trái phiếu để đầu tư công sẽ làm giảm phạm vi cho vay với động cơ chính trị."
Khi công chức có ngưỡng nhiệm kỳ là 5 năm hoặc ngắn hơn, và nhiều tiền được chi để thực hiện giao dịch và ký kết hợp đồng, thì lối đầu tư kể như là theo khuôn mẫu giao dịch chỉ có một lần hơn là cam kết có tính lâu dài.
Vì vậy, tái cấu trúc kinh tế là qui định nhằm khóa vòi nước đầu tư công, hoặc ít nhất là nhằm đạt được một mối quan hệ chặt chẽ giữa đầu tư và lợi nhuận kinh tế.
Để cho chắc chắn, Quốc hội Việt Nam vừa công bố giảm tỷ trọng đầu tư theo kế hoạch từ 42 xuống 35% GDP.
Tuy nhiên phía nước ngoài ủng hộ cơ chế dùng sức cạnh tranh thị trường để áp đặt kỷ luật đối với công ty nhà nước và các cơ quan của Việt Nam.
Bán các công ty nhà nước và buộc chính quyền cấp tỉnh dùng doanh thu của địa phương và bán trái phiếu để đầu tư công sẽ làm giảm phạm vi cho vay với động cơ chính trị.
Nhưng cách tiếp cận này giả định rằng có một giới nhà đầu tư thực sự là tư nhân và sẵn sàng và có khả năng mua các tài sản nhà nước cũng như mua trái phiếu chính phủ.
'Quyền lực gián tiếp'
Martin Gainsborough, khoa học gia chính trị từ trường Đại học Bristol ở Anh đã lập luận rằng ngay cả trên danh nghĩa các nhà đầu tư tư nhân tại Việt Nam đều có liên kết với nhà nước theo một kiểu nào đó, ví dụ như thông qua việc kết nối với các công ty nhà nước, ngân hàng thương mại nhà nước, các hợp đồng nhà nước hoặc các giao dịch đất đai từng được "cổ phần hóa”.
"Tái cấu trúc thực sự sẽ chỉ xảy ra khi người ta cân nhắc tới kinh tế thay cho tính toán chính trị để làm cơ sở để ngân hàng cho vay tiền"
Sự bùng nổ các tập đoàn "giống tư nhân" đã tích lũy được tài sản khổng lồ thông qua ưu đãi về đất đai của nhà nước, tín dụng và các hợp đồng kinh doanh minh chứng cho quan điểm rằng tư nhân hóa tại một đất nước mà khu vực tư nhân nhỏ và yếu sẽ nhiều khả năng không thể tạo ra các kết quả như mong đợi.
Trong khi đó, chính phủ từ chối bán cổ phần kiểm soát của các công ty nhà nước cho các nhà đầu tư nước ngoài, một chính sách từng được coi là để bảo hộ và rất được ưa dùng.
Người Việt Nam có thể đã mất lòng tin vào các doanh nghiệp nhà nước, nhưng điều đó không có nghĩa là họ tin người nước ngoài.
Tiến bộ trong việc tăng hiệu quả đầu tư sẽ phụ thuộc chủ yếu vào khả năng của chính phủ áp đặt kỷ luật đối với các ngân hàng - không chỉ các ngân hàng thương mại nhà nước, mà còn cả "ngân hàng cổ phần", mà có nhiều ngân hàng trong số này thuộc sở hữu của các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước.
Tái cấu trúc thực sự sẽ chỉ xảy ra khi người ta để dùng việc cân nhắc tới kinh tế thay cho tính toán chính trị để ngân hàng làm cơ sở khi cho vay tiền.
Làm thế nào để đạt được sự thay đổi này vẫn là vấn đề cơ bản của việc tái cấu trúc kinh tế tại Việt Nam.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2011/12/111203_vn_econ_restructuring.shtml
Guest post: how to restructure Vietnam’s economy
By Jonathan Pincus at the Vietnam Program, Harvard Kennedy School.
Vietnamese newspapers are full of talk of economic restructuring. Price inflation in excess of 20 per cent, high nominal interest rates, a weakening currency and a swollen trade deficit have undermined faith in the government’s growth
strategy,
which consisted of a mix of trade liberalisation in agricultural and
labor intensive industries, plus subsidies and protection for state
owned companies.
But how should Vietnam actually go about effecting change?
The search for a new growth model already has the official seal of
approval. Last month Nguyen Tan Dung, Vietnam prime minister, once again
called on state-owned enterprises to focus on their core businesses and
ordered the finance ministry to publish the financial results of
state-owned corporations and conglomerates, known as state-owned
economic groups.
But economic restructuring means different things to different people.
The most radical interpretation — and the one supported by foreign
diplomats and international agencies in Hanoi — is based on redefining
the role of the state, primarily through selling-off state companies.
Most Vietnamese leaders are not willing to go that far. They prefer
imposing tighter administrative controls on local governments and state
companies, and reducing public investment levels and fiscal deficits.
These approaches propose different means to achieve a common
objective: imposing discipline on state-owned enterprises and local
government.
Vietnam has routinely invested more than 40 per cent of GDP – largely
a product of the easy access to state land and credit afforded to state
companies and local authorities. Not only is it easy to turn a profit
when land and capital is cheap or free, but earning profits may not even
by the main aim. When public officials have a time horizon of five
years or less, and much money is to be made making deals and signing
contracts, the act of investing is more of a one-off transaction than a
long-term undertaking.
So economic restructuring is code for turning off the public
investment tap, or at least achieving a tighter relationship between
investment and economic returns. Sure enough, the Nationally Assembly
recently announced a reduction in the target investment rate from 42 to
35 per cent of GDP.
Foreigners, however, favour using market competition to impose
discipline on state companies and agencies. Selling off state companies
and forcing provincial authorities to finance investment out of local
revenues and bond sales would reduce the scope for politically-motivated
lending.
But this approach assumes that a class of genuinely private investors
exists that is willing and able to buy state assets and government
bonds. Bristol University political scientist Martin Gainsborough has
argued that even nominally private investors in Vietnam are linked to
the state in some way, for example through connections to previously
“equitised” state companies, state-owned commercial banks, state
contracts or land deals. Far from reducing the reach of the state,
privatisation extends indirect state power by expanding
government-linked business networks.
The rise of “quasi-private” conglomerates that have amassed huge
fortunes through favoured access to state land, credit and business
deals supports the view that privatisation in a country where the
private sector is small and weak is unlikely to generate the expected
results.
Meanwhile, the government’s refuses to a sell controlling stake in
state companies to foreign investors, a policy that is at once
protectionist and hugely popular. Vietnamese people may have lost faith
in state enterprises, but that doesn’t mean they trust foreigners.
Progress in increasing investment efficiency will depend mostly on
the government’s ability to impose discipline on the banks — not just
the state-owned commercial banks, but also the “joint stock banks”, many
of which are partly owned by state agencies and enterprises.
Real restructuring will only come when economic considerations
replace political calculus as the basis for bank lending. How to achieve
this change remains the fundamental problem of Vietnamese economic
restructuring.
Related reading:
Vietnam: grappling with change, beyondbrics
Vietnam: a question of balance, FT
beyondbrics Vietnam file
Vietnam: grappling with change, beyondbrics
Vietnam: a question of balance, FT
beyondbrics Vietnam file