Bertil Lintner - Trần Ngọc Cư dịch
Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton đang có mặt tại Miến Điện, trong
một chuyến viếng thăm được ca ngợi là một bước đột phá làm mọi người
sửng sốt trong quan hệ song phương Mỹ-Miến và là một dấu hiệu cho thấy
quốc gia Đông Nam Á bị thế giới ruồng bỏ này có thể cuối cùng lại tái
gia nhập cộng đồng quốc tế sau hai thập niên bị cô lập.
Các nhà phân tích thời cuộc cho rằng đó là một thắng lợi cho các lực
lượng chính nghĩa và dân chủ đã chịu đựng gian khổ lâu dài và là một
bước thụt lùi của hội đồng quân nhân tàn bạo và tham quyền cố vị. Nhưng
sự thật còn phức tạp hơn thế rất nhiều.
Theo lý giải thông thường của giới truyền thông phương Tây, mặc dù
cuộc bầu cử tháng 11 năm 2010 tại Miến Điện có thể là gian lận và phạm
nhiều khiếm khuyết, nhưng nó cũng dẫn đến nhiều thay đổi chính sách chưa
từng thấy và nhiều sáng kiến mới mẻ. Tân tổng thống, Ông Thein Sein,
thậm chí còn được gọi là “Gorbachev của Miến Điện” vì đã có nhiều động
thái tỏ ra tỏ ra can đảm, tiến tới cởi mở và tôn trọng (chí ít một số)
giá trị dân chủ. Ông đã trực tiếp đối thoại với thần tượng của phong
trào dân chủ, Bà Aung San Suu Kyi, đồng thời nhiều tù chính trị đã được
phóng thích, và chế độ kiểm duyệt phương tiện truyền thông đã được nới
lỏng. Do đó, Bà Clinton nói rằng đã đến lúc bà phải đến thăm nước này để
“cổ vũ đổi mới hơn nữa”.
Nhưng chuyến thăm viếng của bà bộ trưởng có liên quan tới quan hệ ngoại
giao của Miến Điện với Trung Quốc và Bắc Hàn cũng như những tiến bộ sơ
khởi về dân chủ và nhân quyền tại quốc gia này.
Nếu người ta có thể tin được những quan sát viên phương Tây, thì
những biến chuyển chính trị gần đây tại Miến Điện đã phản ánh một cuộc
tranh giành quyền lực “giữa những nhân vật ôn hòa có đầu óc cải cách” và
“những nhân vật cứng rắn” trong chính phủ và trong quân đội còn kiểm
soát chính phủ này.
Nhưng thực tế chính trị tại đây còn phức tạp hơn thế nhiều.
Vào tháng 8 và tháng 9 năm 1988, Miến Điện đã chứng kiến những cuộc
biểu tình ủng hộ dân chủ rầm rộ nhất trong lịch sử gần đây của châu Á.
Các cuộc đình công và biểu tình được tổ chức gần như trong mọi thành
phố, mọi thị trấn, và mọi làng xã quan trọng khắp cả nước, để chống lại
chế độ độc tài quân phiệt đang bóp nghẹt tự do — một chế độ cho đến nay
vẫn còn kềm kẹp Miến Điện dưới bàn tay sắt từ khi quân đội giành lấy
chính quyền vào năm 1962 và hũy bỏ hiến pháp dân chủ của nước này. Bà
Suu Kyi, con gái của vị anh hùng Aung San từng chiến đấu đòi độc lập dân
tộc, tình cờ có mặt trong nước vào thời điểm đó (lúc bấy giờ bà còn
sinh sống ở Anh Quốc). Thế là, bà trở thành nhà lãnh đạo chính của phong
trào dân chủ Miến Điện.
Nhưng chính phủ không sụp đổ. Nó chỉ rút vào hậu trường, và vào ngày
18 tháng 9 năm 1988, quân đội đã can thiệp, không phải để giành lấy
chính quyền — vốn đã nằm trong tay của họ – mà để chống đỡ một chế độ
đang bị phong trào chống đối của dân chúng áp đảo. Hậu quả là một cuộc
tàn sát đẫm máu đã diễn ra. Hàng nghìn người biểu tình đã ngã gục trước
hỏa lực súng máy, nhiều người chống đối bị đem ra bắn bỏ trong lúc tạm
giam, và các nhà tù Miến Điện nhốt đầy ắp dân chúng đủ mọi lứa tuổi,
thuộc mọi thành phần xã hội.
Hẳn nhiên, các nước phương Tây, đứng đầu là Hoa Kỳ, đã lên án cuộc
tàn sát thô bạo này. Sau đó, các biện pháp trừng phạt đã được áp đặt lên
chế độ cầm quyền Miến Điện, nhưng chúng chỉ được thực thi nửa vời và ít
khi có tác dụng trên lãnh vực ngoại thương. Dù vậy, các biện pháp trừng
phạt đã biến Miến Điện thành một quốc gia bị quốc tế ruồng bỏ và bị cấm
cản trong việc tiếp nhận đầy đủ các quĩ tài trợ của LHQ và các định chế
tiền tệ quốc tế.
Trung Quốc (TQ), từ lâu vốn đã thèm thuồng các cánh rừng, các mỏ
khoáng chất và khí đốt thiên nhiên, và tiềm năng thủy điện của Miến
Điện, đã lợi dụng tối đa tình hình này. Thật vậy, TQ đã bày tỏ tham vọng
của mình trong số báo tháng Chín năm 1985 của tờ Beijing Review, một
tạp chí tin tức lề phải và là cái loa của chính phủ. Một bài báo mang
tựa đề “Mở cửa về hướng tây-nam: Ý kiến một chuyên gia”, mà tác giả là
Pan Qi, một cựu thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải TQ, đã phát thảo những
khả năng về việc tìm ra một cửa khẩu thương mại cho các tỉnh Vân Nam và
Tế Xuyên nằm sâu trong nội địa TQ xuyên qua Miến Điện để vào Ấn Độ
Dương. Bài báo cũng đã nhắc đến Myitkynia và Lashio, là những địa điểm
mà đường sắt Miến Điện đã đạt đến ở miền bắc và đông bắc, và sông
Irrawaddy như có khả năng chuyển hàng xuất khẩu TQ ra cửa biển. Đó là
lần đầu tiên lãnh đạo TQ phát thảo ý đồ của họ đối với Miến điện, và đưa
ra lý do vì sao nước này là rất quan trọng đối với họ về mặt kinh tế.
Cho tới thời điểm đó, TQ đã hậu thuẫn Đảng Cộng sản Miến Điện và các
nhóm phiến loạn khác, nhưng sau khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976 và
Đặng Tiểu Bình nắm được quyền lực, chính sách đối ngoại của Bắc Kinh
được chuyển đổi từ việc hậu thuẫn các phong trào cách mạng trong khu vực
sang nỗ lực thúc đẩy thương mại. Đây là lần đầu tiên chính sách mới này
đối với Miến Điện được nhà cầm quyền TQ công bố, mặc dù với một hình
thức khá kín đáo.
Hiệp định thương mại biên giới đầu tiên giữa Miến Điện và TQ được ký
kết vào đầu tháng 8 năm 1988, chỉ vài ngày trước khi cuộc nổi dậy của
dân chúng thật sự bộc phát. Sau khi phong trào chống đối bị dập tắt và
Miến Điện chịu những biện pháp trừng phạt, TQ liền nhảy vào và nhanh
chóng trở thành đối tác thương mại quan trọng nhất của Miến Điện. TQ
giúp Miến Điện nâng cấp cơ sở hạ tầng đã lỗi thời – và ào ạt cung cấp
nhiều phương tiện quân sự. Trong thập niên tiếp theo sau vụ đàn áp nói
trên, TQ đã bán cho Miến Điện một số lượng trang bị quân sự trị giá trên
1,4 tỉ USD. TQ còn giúp Miến Điện nâng cấp các căn cứ hải quân trong Ấn
Độ Dương. Để đền đáp lại, chế độ quân nhân Miến Điện đã cho phép Bắc
Kinh tiếp cận tin tức tình báo từ các đường vận chuyển dầu lửa mà Hải
quân Miến thu thập được nhờ các trang bị do TQ cung cấp. Cán cân lực
lượng chiến lược trong khu vực đã nghiêng về phía TQ.
Nhưng các hoạt động thật sự liên quan đến dầu lửa lại diễn ra về sau
và được tiến hành mạnh mẽ. Một kế hoạch xây ống dẫn dầu và khí đốt được
Ủy ban Phát triển và Cải tổ Quốc gia của TQ thông qua vào tháng 4 năm
2007. Tháng 11 năm 2008, TQ và Miến Điện đồng ý xây một ống dẫn dầu trị
giá 1,5 tỉ USD và một ống dẫn khí đốt trị giá 1,04 tỉ USD. Tháng 3 năm
2009, TQ và Miến Điện ký một hiệp định xây một ống dẫn khí thiên nhiên,
và tháng 6 năm 2009 ký thêm một hiệp định xây một ống dẫn dầu thô. Lễ
khánh thành đánh dấu việc khởi công xây cất được tổ chức vào ngày 31
tháng 10 năm 2009, trên Đảo Maday thuộc duyên hải miền Tây Miến Điện.
Ống dẫn khí đốt từ Vịnh Bengal đến Côn Minh, thuộc tỉnh Vân Nam của TQ,
sẽ được bổ túc bằng một ống dẫn dầu được thiết kế để cho phép tàu TQ chở
nhiên liệu nhập khẩu từ Trung Đông khỏi phải đi qua Eo biến Malacca
thường bị đông nghẹt. Vào tháng 9 năm ngoái, TQ thỏa thuận cho Miến điện
vay 4,2 tỉ USD không lấy lãi trong một thời hạn 30 năm nhằm tài trợ các
dự án thủy điện, xây dựng đường bộ và đường sắt, và phát triển công
nghệ thông tin.
Các biện pháp trừng phạt của phương Tây không tạo ra sức đẩy có ý
nghĩa kinh tế và chiến lược để đưa Miến Điện vào trong “vòng tay của
TQ”, như nhiều quan sát nước ngoài từng tranh luận. Nhưng chính sách của
các nước phương Tây chắc chắn đã tạo điều kiện dễ dàng cho TQ thực hiện
ý đồ của mình đối với Miến Điện. Điều này, sau đó, đã khiến phương Tây
phải duyệt lại chính sách Miến Điện của mình — đồng thời sự lệ thuộc
ngày một gia tăng của nước này vào Trung Quốc đã gây hoảng sợ đáng kể
cho giới lãnh đạo quân sự Miến Điện. Những quan tâm chiến lược của Mỹ
bắt đầu được nêu ra kể từ tháng 6 năm 1997 trong một bài báo trên Los
Angeles Times bởi Marvin Ott, một chuyên gia Mỹ về an ninh quốc phòng và
là một cựu phân tích gia của CIA. “Washington có thể và phải lớn tiếng
phê phán những lạm dụng quyền hành tại Miến Điện. Nhưng vì có những lợi
ích an ninh và lợi ích quốc gia của Mỹ cần phải quan tâm phục vụ… vì
thế, đã đến lúc chúng ta phải nghiêm túc nghĩ đến các giải pháp khác”,
Ott kết luận.
Sự chuyển hướng chính sách của Mỹ đòi hỏi nhiều nỗ lực. Khi được tiết
lộ vào đầu những năm 2000 rằng Miến điện và Bắc Hàn đã thành lập một
đối tác chiến lược, Washington trở nên báo động. Bắc Hàn lúc bấy giờ
đang cung cấp cho Miến Điện kỹ thuật đào hầm, các loại vũ khí hạng nặng,
các hệ thống ra-đa và phòng không, và – theo các cơ quan tình báo
phương Tây và châu Á — cả công nghệ tên lửa và hạt nhân. Đã đến lúc Mỹ
phải thay đổi đường lối và bắt đầu “đối thoại” với giới lãnh đạo Miến
Điện, một giới lãnh đạo tỏ ra cương quyết bám lấy quyền hành bằng mọi
giá, bất chấp hậu quả.
Cuộc bầu cử năm 2010 tại Miến Điện, dù có gian lận đến đâu đi nữa,
cũng là một cơ hội tốt mà Washington cần đến. Miến Điện đột nhiên có một
khuôn mặt mới và một đất nước được điều hành bởi một hiến pháp, chứ
không bởi một nhóm quân nhân. Đó là thời điểm tuyệt vời để các tướng
lãnh Miến Điện mở ra một chiến dịch ngoại giao với phương Tây và để Mỹ
và các nước phương Tây khác bắt đầu tiến trình hoà hoãn (détente) – và
lôi kéo Miến Điện ra khỏi vòng tay khó chịu của TQ và khỏi mối quan hệ
thân thiết với Bắc Hàn. Chẳng phải là chuyện tình cờ mà Bà Clinton đã
ghé lại thăm Nam Hàn trước khi tiếp tục lên đường đến thăm Miến Điện.
Hơn một năm nay, trong các giới chức an ninh quốc gia, người ta biết
rằng Mỹ muốn Nam Hàn khuyến khích Miến Điện từ bỏ việc hợp tác quân sự
với Bắc Hàn. Lý do đưa ra là, Nam Hàn vì giàu có hơn sẽ có khả năng giúp
đỡ Miến Điện hữu hiệu hơn Bắc Hàn.
Đồng thời, nhiều sĩ quan có tinh thần dân tộc mạnh mẽ trong quân đội
Miến Điện đã bắt đầu bất bình với việc đất nước quá lệ thuộc vào TQ cũng
như việc nhập cư ngang nhiên của kiều dân TQ vào miền bắc Miến Điện.
Đòn đầu tiên đánh vào TQ đã diễn ra vào tháng 10 năm 2004, khi thủ tướng
đương nhiệm và là cựu giám đốc tình báo, Trung tướng Khin Nyunt, bị hạ
bệ. Chính quyền TQ thoạt đầu không chịu tin rằng con bài của họ tại Miến
Điện, tức Khin Nyunt, đã bị đẩy ra khỏi quyền lực. Làm sao mà các tướng
lãnh Miến dám ra tay bứng một nhân vật chủ chốt cho tình hữu nghị
Miến-Trung chứ? Nhưng, hai bên đã tìm cách làm lắng dịu vụ việc, và quan
hệ song phương có vẻ trở lại bình thường. Rồi đến năm 2009, quân đội
Miến đã tiến vào vùng Kokang ở đông bắc Miến Điện, dùng vũ lực đẩy hơn
30.000 người tị nạn — cả kiều dân TQ, lẫn người địa phương và người Hoa –
qua biên giới về lại phía TQ.
Tuy vậy, mãi cho đến ngày 30 tháng 9 năm nay TQ mới hiểu được thông
điệp của vụ việc nói trên, khi Thein Sein công bố dự án thủy điện trị
giá 3,6 tỉ USD ở vùng cực bắc Miến Điện bị đình chỉ. Đập thủy điện này
có khả năng làm ngập lụt một vùng Miến Điện rộng lớn hơn cả Singapore,
và tuy vậy 90% điện lực của đập này được dự trù sẽ xuất khẩu sang TQ.
Hiện nay, TQ đã lên tiếng đe dọa dùng hành động pháp lý đối với chính
phủ Miến Điện về tội bội ước (breach of contract). Đây là cọng rác cuối
cùng đã làm gãy lưng chú lạc đà. Hiện nay, rõ ràng là quan hệ Trung-Miến
sẽ không bao trở lại đầm ấm như trước.
Để tăng cường thế đứng của mình trước TQ, Miến Điện ngày càng hướng
về các đối tác trong Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), mà Miến
Điện sẽ giữ chức chủ tịch vào năm 2014. Một cử chỉ còn có ý nghĩa hơn
nữa là, khi Tướng Min Aung Hlaing, người được chọn làm Tổng tư lệnh Quân
đội Miến Điện vào tháng 3 năm nay, ông đã không qua thăm TQ – nhưng
thay vào đó ông đã đi thăm kẻ thù lâu đời của TQ, là Việt Nam. Miến Điện
và Việt Nam cùng chia sẻ một mối lo sợ đối với nước láng giềng hùng
mạnh ở phương Bắc, vì vậy cũng là điều hợp lý khi cho rằng Min Aung
Hlaing có nhiều vấn đề cần thảo luận với các lãnh đạo của nước chủ nhà –
Việt Nam.
Nhưng sự thay đổi chiến lược của Miến Điện không diễn ra một sớm một
chiều. Cùng một năm khi [Thủ tướng thân TQ] Khin Nyut bị lật đổ, một văn
kiện quan trọng đã được soạn thảo bởi Trung tá Aung Kyaw Hla, một nhà
nghiên cứu tại Học viện Quốc phòng Miến Điện. Luận án tối mật dày 346
trang, nhan đề “Bản Nghiên cứu về Quan hệ Miến-Mỹ”, đã đề ra những chính
sách đang được áp dụng hiện nay để cải thiện quan hệ với Washington và
giảm bớt lệ thuộc vào Bắc Kinh. Sự thiết lập một chế độ hợp lòng dân hơn
cái chế độ mà hội đồng quân nhân dàn dựng trước đây đã giúp giới quân
nhân Miến Điện dễ dàng đưa ra các chính sách mới mẻ, đồng thời làm cho
cộng đồng quốc tế xét đến các chính sách đó một cách nghiêm túc.
Như vậy, quan hệ với Mỹ đang thực sự được cải thiện đúng theo đường
lối mà nhà nghiên cứu Aung Kyaw Hla đã đề xuất năm 2004. Mặc dù Bà
Clinton sẽ bàn chiếu lệ về nhân quyền và dân chủ trên đầu môi chót lưỡi
(lip service), nhưng gần như chắc chắn quan hệ Trung-Miến – và vấn đề
Bắc Hàn sẽ có ưu tiên cao trong chương trình nghị sự của bà khi bà viếng
thăm Miến Điện tuần này. Trong chuyến viếng thăm Canberra vào tháng 11,
Tổng thống Barack Obama đã tuyên bố rằng “với chuyến viếng thăm của tôi
trong khu vực, tôi muốn minh xác rằng Mỹ đang gia tăng những cam kết
của mình đối với toàn khu vực châu Á-Thái Bình Dương”. Mỹ là một cường
quốc Thái Bình Dương, Obama nói, và “chúng tôi đến đây để ở lại”. Nhưng
ông cũng nhanh chóng thêm rằng: “Cái ý niệm cho rằng chúng tôi sợ TQ là
một ý niệm sai lầm. Cái ý niệm cho rằng chúng tôi tìm cách để loại trừ
TQ là sai lầm”.
Lời tuyên bố trên cũng có tính thuyết phục như lời cam kết của Thein
Sein khi ông nói rằng sở dĩ ông đã đình chỉ dự án xây đập thủy điện ở
Bắc Miến vì ông đã quan tâm đến “nguyện vọng của nhân dân”.
Hai nước cựu thù, Miến Điện và Mỹ, có thể cuối cùng sẽ đứng chung
trên cùng một chiến tuyến trong cuộc tranh giành quyền lực và ảnh hưởng
tại Đông Nam Á. Những va chạm, và có lẽ cả xung đột, chắc chắn được dự
kiến có thể xảy ra trong quan hệ giữa TQ và Miến Điện trong tương lai.
Và Miến Điện sẽ không còn bị Mỹ và nhiều nước khác ở phương Tây coi như
là một quốc gia bị ruồng bỏ mà thế giới cần phải lên án và cô lập.
Dù bất cứ điều gì xảy ra đi nữa, chúng ta không nên kỳ vọng quan hệ
Mỹ-Miến sẽ hoàn toàn dễ chịu. Hậu quả của nhiều thập niên đối dầu và
nghi kỵ lẫn nhau vẫn còn tồn tại. Và một khuynh hướng mạnh mẽ tại
Washington với lập trường cứng rắn về nhân quyền và dân chủ sẽ làm phức
tạp vấn đề đối với giới lãnh đạo Miến Điện – là những kẻ vẫn lấy làm khó
chịu và không sẵn sàng từ bỏ chế độ toàn trị. Và sau cùng, còn có TQ.
Miến Điện có thể hài lòng vì sự lệ thuộc vào người láng giềng đầy quyền
lực ở phương bắc có thể giảm đi nhanh chóng, nhưng với nhiều thập kỷ
quan hệ hữu nghị và những dự án trên thực địa đang được tiến hành, quan
hệ của nước này đối với TQ cũng chưa đến nỗi chấm dứt.
............................................
Betil Lintner, hiện sống tại Thái Lan, là một cựu thông tín viên của
The Far Eastern Economic Review và là tác giả của nhiều cuốn sách về
Miến Điện, kể cả cuốn sắp xuất bản nhan đề Great Game East: India, China
and the Struggle for Asia’s Most Volatile Frontier (Ván cờ lớn phương
Đông: Ấn độ, Trung Quốc và cuộc tranh giành vùng biên cương thiếu ổn
định nhất châu Á).
Bertil Lintner, 30-11-2011
Nguồn: http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/11/30
Trần Ngọc Cư dịch