Lê Anh Hùng
“Không phải nguồn gốc của quyền lực, mà chính sự
hạn chế quyền lực mới ngăn nó khỏi trở nên độc đoán.”
(Friedrich Hayek, The Road to Serfdom
Nxb Routledge, London, 1944, trang 53)
Sửa
đổi Hiến pháp 1992 là chủ đề hiện đang được rất nhiều người Việt Nam
quan tâm, với vô số bài viết trên các báo trong và ngoài nước, một số
cuộc hội thảo do các cơ quan hữu quan tổ chức, qua đó nhiều ý kiến thẳng
thắn và xác đáng đã được đưa ra. Trong phạm vi của bài này, người viết
muốn “mổ xẻ” một vấn đề mà nhiều người đã nêu lên khi bàn về bản Hiến
pháp sắp tới của nước ta, đó là sự tập trung quyền lực Nhà nước vào tay
Quốc hội và liệu quyền lực của Quốc hội có cần bị hạn chế hay không.
Điều
2 của Hiến pháp 1992 (sửa đổi) ghi rõ: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.” Điều 6 lại ghi: “Nhân
dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân
dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.” Điều 83 ghi: “Quốc hội
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Nhiệm vụ và quyền
hạn của Quốc hội được quy định ở Điều 84, trong đó (i) Khoản 2: Thực
hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết
của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân
Tối cao; (ii) Khoản 6: Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, Toà án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân và chính
quyền địa phương; (iii) Khoản 7: Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch
nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và
các ủy viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án
Toà án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; phê
chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;
phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng
Quốc phòng và An ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các
chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Ngoài
ra, Điều 109 ghi: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan
hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam… Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”; Điều 135 ghi:
“Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước”;
Điều 139 ghi: “Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không
họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội và Chủ tịch nước.”
Như vậy, xét trên lý thuyết,(1)
quyền lực của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay bao trùm lên quyền hành pháp
và quyền tư pháp, không một chủ thể hiến định nào có quyền (dù chỉ trên
lý thuyết) để giám sát và “thổi còi” hoạt động của Quốc hội khi hoạt
động đó có vấn đề.
Lý lẽ biện hộ cho nguyên tắc
tập trung quyền lực nhà nước vào tay Quốc hội ở các nước xã hội chủ
nghĩa nói chung và ở Việt Nam nói riêng là ở chỗ, Quốc hội đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, vì vậy nguyên tắc Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân.(2) Và một khi quyền lực đã thuộc về nhân dân
thì không cần phải hạn chế quyền lực ấy nữa. Đó là một sự ngộ nhận rất
tai hại, như chúng ta sẽ chỉ ra dưới đây.
Trong
cuộc sống, việc một chủ thể hành xử với danh nghĩa đại diện cho ai đó là
một hiện tượng phổ biến. Chẳng hạn, một luật sư đại diện cho thân chủ
của mình trong một vụ kiện tụng; một giám đốc do chủ doanh nghiệp thuê
để điều hành doanh nghiệp; một nhân viên do giám đốc doanh nghiệp tuyển
dụng và giao thực hiện một nhiệm vụ nào đó; một đại biểu Quốc hội do một
số cử tri bầu lên để đại diện cho ý chí và quyền lợi của mình trong
Quốc hội, v.v.
Trên thực tế, những người đại
diện, vốn hành động trên danh nghĩa đại diện cho người khác, đôi khi lại
theo đuổi lợi ích riêng của mình và sao nhãng lợi ích của những người
mà mình đại diện. Ví dụ, luật sư có thể tìm cách để kiếm tiền từ thân
chủ của mình nhiều hơn là cố gắng bảo vệ quyền lợi của thân chủ; một
nhân viên có thể không làm tròn bổn phận của mình ở công ty mà trốn
tránh trách nhiệm và dành thời gian cho công việc riêng tư; một vị đại
biểu Quốc hội có thể vì lợi ích của mình mà không nói lên tiếng nói của
cử tri hay không bảo vệ quyền lợi của cử tri, v.v.
Như
vậy, tuy Quốc hội đúng là do nhân dân bầu lên, nhưng chúng ta không có
gì để đảm bảo rằng mỗi vị đại biểu Quốc hội đều nói lên tiếng nói của cử
tri hay đều bảo vệ quyền lợi của cử tri, ấy là còn chưa xét đến trường
hợp quy trình bầu cử có vấn đề. Vì thế, Quốc hội (hay phe đa số của Quốc
hội) có thể không hành xử vì lợi ích của (đa số) cử tri. Nghĩa là,
không có gì để đảm bảo rằng Quốc hội luôn đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân ở đây cả.
Đại biểu Quốc hội
Hoàng Hữu Phước là một minh chứng điển hình cho thực tế trên: sau khi
ông ta nhân danh “nhân dân” để đề nghị Quốc hội loại Luật Biểu tình và
Luật Lập hội ra khỏi chương trình xây dựng luật pháp của Quốc hội khoá
XIII, chính các cử tri ở TP HCM từng bầu cho ông ta đã lên tiếng truy
vấn ông ta.(3) Hay như Nghị quyết điều chỉnh địa giới hành
chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh mà Quốc hội thông qua ngày 29/5/2008:
Theo nguyên Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết, “Khi thăm dò dự án mở
rộng Thủ đô, tôi nhớ có 226 phiếu thuận và 226 phiếu chống. Nhưng khi
biểu quyết thì tỷ lệ lên tới 92,9% tán thành.”(4) Chẳng lẽ “ý chí và nguyện vọng của nhân dân” lại dễ dàng thay đổi một cách chóng mặt đến thế hay sao?!
Điều
này có nghĩa là đối với từng đại biểu Quốc hội cần phải có một cơ chế
giám sát và ràng buộc hữu hiệu (chẳng hạn, hình thức bãi miễn đại biểu
do cử tri khởi xướng trong trường hợp đại biểu đó không làm tròn lời hứa
trước cử tri hay không nói lên tiếng nói của cử tri); còn đối với Quốc
hội do nhân dân bầu lên thì cần phải có một cơ chế giám sát và cân bằng
quyền lực hữu hiệu (giữa lập pháp – hành pháp – tư pháp), nếu không nó
rất dễ sa vào tình trạng độc đoán và chuyên quyền, không chỉ bởi lý do
đã chỉ ra ở trên mà còn bởi quyền lực luôn có xu hướng tự tha hoá. Ngoài
ra, việc sửa đổi hiến pháp, thậm chí các bộ luật quan trọng, cần phải
thông qua thủ tục trưng cầu dân ý.
Vì là một
thực thể quyền lực “hữu danh vô thực” và thụ động nên ngoài việc “treo”
vô thời hạn một số luật về quyền tự do dân chủ của nhân dân mà Hiến pháp
đã quy định, cho đến nay Quốc hội Việt Nam cũng (bị ép) cho ra đời
những “sản phẩm” mà nếu tồn tại một bộ máy tư pháp độc lập thì chúng đã
bị “thổi còi”; chẳng hạn như Luật Phòng chống tham nhũng hiện hành (với
Điều 73 quy định Thủ tướng là người đứng đầu Ban Chỉ đạo Trung ương về
Phòng chống Tham nhũng và Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW là
người đứng đầu Ban Chỉ đạo Phòng chống Tham nhũng của tỉnh, thành đó –
một hình thức “vừa đá bóng vừa thổi còi”), hay Nghị quyết số
26/2008/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội về việc thực hiện
thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
Friedrich
Hayek, triết gia chính trị vĩ đại nhất thế kỷ 20, từng nhận định:
“Không phải nguồn gốc của quyền lực, mà chính sự hạn chế quyền lực mới
ngăn nó khỏi trở nên độc đoán.”(5) Thực tế này không chỉ xảy
ra ở Việt Nam hay các nước “xã hội chủ nghĩa” khác, những nơi mà cơ chế
“Đảng cử, dân bầu” đã thực sự vô hiệu hoá quyền tự do của người dân
trong việc lựa chọn người đại diện chính trị của mình, mà còn là một
hiện thực ở nhiều nước theo chế độ dân chủ.
Con
đường dẫn Hitler đến quyền lực độc tài chính là thông qua bầu cử dân
chủ. Các nhà độc tài khác như Juan Perón của Argentina, Suharto của
Indonesia, Ferdinand Marcos của Philippines, v.v., thảy đều đi theo con
đường bầu cử dân chủ để lên đến đỉnh quyền lực rồi sau đó lại tìm mọi
cách củng cố quyền lực độc tài cho bản thân. Họ đều do nhân dân bầu lên
nhưng các cơ chế giám sát quyền lực hiện hữu đã bất lực hoặc bị họ vô
hiệu hoá, trong đó có hình thức trấn áp các đối thủ chính trị và lực
lượng chính trị đối lập. Và một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
hình chính trị ở nước Nga hiện nay chính là một điều khoản của hiến pháp
Nga, cho phép Quốc hội thông qua việc sửa đổi hiến pháp với đa số tuyệt
đối mà không cần tới thủ tục trưng cầu dân ý: Ngày 14/11 và 26/11/2008,
lần lượt Hạ viện (Duma) và Thượng viện (Hội đồng Liên bang) Nga thông
qua việc sửa đổi hiến pháp, kéo dài nhiệm kỳ tổng thống từ 4 năm lên 6
năm, một động thái mà ngay từ lúc đó đã được nhiều người nhìn nhận là
nhằm mở đường cho “triều đại” mới kéo dài 12 năm của ông Putin bắt đầu
từ năm 2012, trong khi “triều đại” cũ vẫn còn gần 4 năm nữa mới kết
thúc. Điều này đã tạo ra một tiền lệ nguy hiểm, gây ra sự bất bình và
chia rẽ trong dân chúng Nga.(6) (Ở điểm này, Hiến pháp 1946
của Việt Nam lại tỏ ra tiến bộ hơn nhiều, với quy định việc sửa đổi Hiến
pháp phải được toàn dân phúc quyết tại Điều 70).
Quay
trở lại với tình hình Việt Nam, một khi Hiến pháp hiện hành đã quy định
là công dân có quyền tự do ngôn luận, một khi các nhà lãnh đạo Đảng và
Nhà nước đã nhiều lần phát biểu là “tôn trọng ý kiến khác biệt”(7)
thì không có lý do gì lại không thừa nhận các đảng phái với những quan
điểm chính trị khác biệt. Cạnh tranh chính trị chính là cơ chế hữu hiệu
nhất để giám sát quyền lực Nhà nước. Trong Quốc hội, các đảng phái đối
lập luôn theo sát quy trình lập pháp, là lực lượng đầu tiên lên tiếng
phản biện và ngăn chặn những đạo luật vi hiến, không hợp lòng dân hay mở
đường cho sự lạm dụng quyền lực. Đối với các chính sách của chính phủ,
các đảng phái đối lập cũng là những người đầu tiên đặt câu hỏi về tính
hợp hiến, hợp pháp và hiệu quả của chúng. Những gì mà các đảng phái
chính trị đối lập làm không hẳn là hoàn toàn “vì dân vì nước”, mà trước
hết là vì lợi ích chính trị của họ, song xét toàn cục, điều đó lại góp
phần kiểm soát được quyền lực chính trị và đem lại cho cử tri nhiều lựa
chọn. Friedrich Hayek từng nói, “Chúng ta sẽ không bao giờ ngăn chặn nổi
sự lạm dụng quyền lực nếu như chúng ta không sẵn sàng hạn chế quyền lực
theo những cách thức mà đôi khi có thể cản trở việc sử dụng quyền lực
cho những mục đích đáng mong muốn.”(8) Cạnh tranh chính trị
khiến cho sự phân chia quyền lực nhà nước và sự độc lập (không phải biệt
lập) giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp trở nên thực chất. Đây là một
điều kiện tiên quyết để giám sát quyền lực nhà nước, giúp cho hiến pháp
dân chủ của một quốc gia đi vào cuộc sống chứ không phải chỉ là cái bánh
vẽ.
Hơn nửa thế kỷ qua, Việt Nam là một trong
không nhiều “điểm sáng” trên thế giới mà ở đó hội tụ cả điều kiện cần và
điều kiện đủ của một chính thể độc quyền và sự thiếu vắng các cơ chế
kiểm soát quyền lực hữu hiệu (cạnh tranh chính trị, sự chế ước và cân
bằng giữa các nhánh quyền lực nhà nước, phân cấp quản lý, nền báo chí tự
do, xã hội dân sự). Rõ ràng, đất nước chúng ta “phát triển” như ngày
hôm nay là bởi những điều tốt đẹp hơn đã bị tước đoạt. Tiền đề để đưa
đất nước thoát ra khỏi thực trạng đang ngày càng xấu hơn về chính trị -
kinh tế - xã hội hiện nay dứt khoát không phải là một bộ luật cơ bản vừa
mơ hồ và rối rắm, vừa chỉ có hiệu lực trên giấy như bản Hiến pháp hiện
hành./.
Quảng Trị, 15/12/2011
L. A. H.
Chú thích:
[1]
Nói là trên lý thuyết vì ở Việt Nam quyền lực thực sự nằm ở đâu thì ai
cũng biết cả rồi. Quốc hội nhiều khi chỉ là tấm bình phong hay bù nhìn
thôi, đặc biệt là trước những vấn đề hệ trọng của đất nước.
2 “Phải
chăng vì ý Ðảng về Dân chủ và Nhà nước pháp quyền - những tâm điểm của
Ðại hội Ðảng XI cũng chính là ước nguyện của lòng dân đã đúc kết nên
biểu tượng Nhà nước pháp quyền của ngày hội bầu cử toàn dân năm nay, năm
2011, với trục xuyên suốt: DÂN (cử tri) -> ÐẠI BIỂU CỦA DÂN (Quốc
hội và Hội đồng Nhân dân) -> NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA DÂN.” Báo Nhân Dân ngày 21/5/2011: Phát huy dân chủ, nâng cao nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (nhandan.com.vn).
3 Báo Pháp Luật Tp HCM ngày 29/11/2011: Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Dứt khoát phải ban hành luật biển (phapluattp.vn).
5 Cuốn sách này đã được NXB Tri Thức ấn hành tại Việt Nam tháng 3/2009 với tiêu đề Đường về nô lệ, do Phạm Nguyên Trường dịch.
6 BBC Vietnamese ngày 13/12/201: Vì sao dân Nga phản đối Putin? (bbc.co.uk)
8 Friedrich Hayek: Cuộc đời và sự nghiệp, NXB Tri Thức, 2007, trang 262.