Trần Văn Đạt, Ph. D.
Năm 2011, tình trạng sản xuất lương thực thế giới, chủ yếu
ngũ cốc như lúa mì, lúa gạo và bắp được củng cố, đạt đến 2.325 triệu tấn
hay tăng 3,7% so với 2010 (1) dù khí hậu bất thường xảy ra tại mốt số
địa phương. Riêng lúa gạo là lọai thực phẩm quan trọng cho hơn 3,5 tỉ
người hay trên 50% dân số thế giới. Năm nay, ngành ngũ cốc này có hai
chuyển biến lớn: Chính phủ Thái Lan tăng giá gạo nội địa để giúp nông
dân có đời sống tốt hơn và Ấn Độ bãi bỏ lệnh cấm xuất khẩu lọai gạo
thường dùng (không thơm Basmati) sẽ gây ảnh hưởng lớn đến thị trường thế
giới. Hàng năm tình trạng sản xuất và thương mại lúa gạo thế giới bị chi phối bởi các yếu tố chính sau đây:
1) Lúa là một màu quan trọng cho an ninh lương thực và liên hệ đến tình trạng nghèo khó trên thế giới. Cho nên, nhiều nước đang phát triển đã thực hiện chính sách tự túc lúa gạo,
với nhiều trợ cấp cho cả ngành sản xuất và thị trường tiêu thụ, nhưng
chưa sánh kịp trợ cấp to lớn như các nước công nghiệp. Hai nước Malaysia
và Trung Quốc, trái lại, có chính sách tự túc giới hạn, khôn ngoan,
theo thứ tự ở mức 65% và 90% nhu cầu nội địa.
2) Tuy khối lượng sản xuất lúa gạo thế giới rất lớn, chỉ sau lúa mì, nhưng số lượng giao dịch quốc tế tương đối nhỏ,
chỉ khoảng 30-34 triệu tấn gạo hay 6-7% mỗi năm, do chính sách tự túc
của nhiều nước. Vì vậy, thị trường thế giới dễ bị giao động khi có những
biến chuyển nhỏ trong ngành sản xuất.
3) Một yếu tố quan trọng khác gây ảnh hưởng rõ rệt đến sản xuất lúa gạo thế giới là khí hậu bất định
mỗi năm. Hiện nay, diện tích trồng lúa tưới tiêu chiếm gần 60% tổng
diện tích trồng lúa, nhưng sản xuất đạt hơn 75% tổng sản lượng thế giới;
cho nên, ngành trồng lúa còn tùy thuộc rất nhiều vào tình trạng thời
tiết, nhứt là các loại lúa trồng nhờ nước trời còn chiếm 40% tổng diện
tích. Theo thống kê về tình hình sản xuất lúa trong 50 năm qua, cứ bình
quân mỗi 6-7 năm có một lần khí hậu bất lợi cho canh tác lúa thế giới và
gây xáo trộn giá cả thị trường.
4) Sản xuất lúa Châu Á phản ánh đậm nét tình trạng lúa gạo thế giới và đóng vai trò quyết định tối hậu
đến giá cả và giao dịch quốc tế, vì châu lục này hàng năm sản xuất và
đồng thời tiêu thụ hơn 90% lúa gạo tòan cầu. Ngòai ra, nhu cầu tiêu thụ
và các chính sách nhập khẩu, tồn trữ lúa gạo của các châu lục khác cũng làm ảnh hưởng đến thị trường không nhỏ.
5) Các cuộc khủng hỏang chính trị, kinh tế, tài chánh, năng lượng
như từng thấy trong những thập niên qua, gần đây 2008, đã gây ra khủng
hỏang lương thực thế giới làm tăng thêm 100.000 người thiếu đói và đưa
tổng số lên 1 tỉ người.
Sản xuất lúa gạo thế giới (2, 3 và 4): Mặc dù bị ảnh
hưởng hiện tượng Niña ở nhiều nơi châu Á như Cambodge, Lào, Myanmar,
Thái Lan và bão ở Philipines từ tháng 8 vừa qua, sản lượng lúa tòan cầu
đã vượt lên mức kỷ lục nhờ vụ mùa phát triển trong điều kiện khí hậu
thuận hòa sau đó. Cơ quan FAO ở Rome đã tiên đóan năm 2011, sản lượng
lúa đạt đến 721 triệu tấn (hay 481 triện tấn gạo), tăng lên 3% hay 24
triệu tấn so với 2010. Phần lớn sự tăng gia này do sản xuất thuận lợi
tại các nước Ấn Độ, Ai Cập, Bangladesh, Trung Quốc và Việt Nam vuợt trội hơn số lượng thất thu từ Indonesia, Madagascar, Pakistan, Philippines và Thái Lan.
Sự tăng gia còn do diện tích trồng lúa thế giới tăng lên 164,6 triệu Ha
hay 2,2% và năng suất bình quân cũng tăng nhẹ đến 4,38 t/Ha tức 0,8%
hơn năm rồi.
Châu Á sản xuất 651 triệu tấn lúa (435 tấn gạo) hay
tăng 2,9% so với 2010 dù có nhiều trận bão lớn xảy ra ở Philippines, và
lũ lụt nặng kéo dài ở Cambodge, Lào, Myanmar và Thái Lan. Sự tăng gia
lớn này chủ lực do Ấn Độ và Trung Quốc, với tham gia mức độ thấp hơn từ
Bangladesh, Đại Hàn, Nhựt Bổn, Pakistan và Việt Nam. Riêng Việt Nam,
Chính phủ dự đóan sản xuất lúa đạt đến 42 triệu tấn lúa hay tăng 1
triệu tấn so với 2010, do diện tích trồng thêm 200.000 Ha đưa tổng số
lên 7,7 triệu Ha, năng suất đạt đến 5,5 t/Ha. Năm 2011, Việt Nam xuất
khẩu 7,35 triệu tấn gạo mang về khỏang 3,5 tỉ Mỹ kim. Ấn Độ thu họach 154,5 triệu tấn lúa hay 11 triệu tấn hơn 2010 nhờ mùa mưa thuận lợi, ngọai trừ vài tỉnh ở Tây Nam có hạn hán. Trung Quốc sản xuất đến 203 triệu tấn lúa hay tăng 3 %, đạt được mục tiêu tự túc trong suốt thập niên qua. Thái Lan
bị ngập lụt nặng ở cánh đồng trung tâm làm thiệt hại 1,6 triệu Ha tương
đương 4 triệu tấn lúa, sản xuất năm nay độ 32, 2 triệu tấn, 7% thấp hơn
2010 (34,5 triệu tấn). Hậu quả này làm ảnh hưởng mạnh đến số lượng xuất
khẩu 2012 (Xem thêm chi tiết ở Bảng 1).
Châu Phi sản xuất lúa khỏang 26 triệu tấn (17 triệu tấn gạo), hay 3% cao hơn 2010 dù mưa bất thường, do được mùa ở Ai Cập, một nước sản xuất luá tưới tiêu lớn trong vùng và tăng sản xuất ở Benin, Ghana, Mali, Nigeria, Sierra Leone thuộc Tây Phi Châu; trong khi Đông Phi Châu như Tazania, Zambia, Madagascar và Nam Phi Châu có tình trạng sản xuất ngược lại do mưa ít, ngọai trừ Malawi và Mozambique
nhờ đầu tư nhiều cho hệ tưới tiêu (Xem thêm chi tiết ở Bảng 1). Ba nước
sản xuất lúa gạo nhiều nhứt ở châu Phi là Ai Cập, Nigeria và
Madagascar, chiếm đến 55% tổng sản lượng lúa lục địa. Sản xuất lúa ở Ai Cập tăng từ 5,2 triệu tấn trong 2010 đến 5,8 triệu tấn trong 2011 và Nigeria từ 4,2 đến 4,3 triệu tấn; trong khi Madagascar giảm từ 4,8 xuống 4,3 triệu tấn trong cùng thời kỳ do khí hậu bất thường.
Nam Mỹ và Caribbean phục hồi sản xuất lúa đạt đến
29,6 triệu tấn (hay 19,8 triệu tấn gạo) so với sút giảm 12% năm rồi, do
được mùa và giá gạo cao từ các nước Argentina, Brazil, Colombo, Guyana, Paraguay, Uruguay và Venezuela; trong khi Mexico và Ecuador bị khô hạn, Honduras, Nicaragua và El Salvador bị ngập lụt (Xem thêm chi tiết ở Bảng 1). Bazil
là nước sản xuất lúa gạo lớn nhứt của châu Mỹ (chủ yếu lúa rẫy) đạt đến
13,6 triệu tấn so với 11,7 triệu tấn 2010 nhờ khí hậu tốt. Sản xuất lúa
của nước này chiếm đến 45% tổng sản lượng vùng.
Hoa Kỳ sản xuất lúa gần 8,5 triệu tấn, giảm bớt 21%
so với 2010 (11 triệu tấn) do khí hậu không thuận lợi và diện tích trồng
thu hẹp. Đó là mức sản xuất thấp nhứt kể từ 1998. Sản xuất lúa Úc Châu tăng đến 800.000 tấn, gấp 4 lần so với 2010 (0,2 triệu tấn) nhờ cung cấp đầy đủ nước tưới. Sản xuất lúa ở châu Âu tăng
thêm 0,2 triệu tấn, đạt đến 4,6 triệu tấn nhờ cải thiện năng suất, đặc
biệt ở nước Ý và Liên bang Nga được mùa, nhưng giảm thu họach ở Pháp và
Tây Ban Nha.
Giao dịch lúa gạo quốc tế 2011 đã tăng đến 34,3
triệu tấn hay 9% hơn 2010, phần lớn do nhu cầu nhập khẩu gạo của một số
nước châu Á: Bangladesh, Indonesia, Iran và Trung Quốc và châu Phi như
Côte d’Ivoire, Madagascar, Mali, Nigeria, Senegal. Nguồn gạo xuất khẩu
tăng chủ yếu do Ấn Độ sau khi nước này bãi bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo không phải Basmati
vào tháng 9 vừa qua vì họ muốn giải quyết số lúa tồn trữ lâu năm và lúa
được mùa. Ngòai ra, còn các nước khác cung cấp số lượng gạo xuất khẩu
khá lớn như Argentina, Australia, Brazil, Myanmar, Uruguay và Việt Nam;
trong khi Ai cập, Hoa Kỳ, Pakistan và Trung Quốc giảm bớt xuất khẩu.
Viễn ảnh giao dịch lúa gạo thế giới 2012 có thể giảm
đôi chút, khỏang 500.000 tấn gạo. Theo dự báo FAO, giao dịch này chỉ
đạt đến 33,8 triệu tấn gạo do nhu cầu châu Á giảm bớt chút ít. Về mặt
xuất khẩu, Thái Lan giảm xuất khẩu từ 10,3 triệu tấn gạo 2011 xuống
khỏang 8,2 triệu tấn 2012, do tình trạng ngập lụt nặng và thay đổi chánh
sách lúa gạo. Ấn Độ sẽ bù đắp giảm sút này do Chính phủ gỡ bỏ lệnh cấm
xuất khẩu lọai gạo thông dụng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Theo
dự đóan, các nước Pakistan, Trung Quốc, Úc Châu và Việt Nam sẽ tăng xuất
khẩu gạo vào năm tới. Còn Argentina, Brazil, Hoa Kỳ, Myanmar và Uruguay
sẽ giới hạn xuất khẩu gạo.
Sử dụng lúa gạo thế giới 2011-2012 đạt đến 470 triệu
tấn gạo, tăng 9,7 triệu tấn hay 2 % hơn năm vừa qua. Số lượng tiêu dùng
này gồm có 397 triệu tấn dành cho thức ăn, 12 triệu tấn cho nuôi gia
súc, và sử dụng khác như làm giống, biến chế và thất thóat sau thu họach
khỏang 61triệu tấn hay 3%. Khẩu phần thực phẩm trung bình tăng từ 56,5
kg/người/năm trong 2010 lên 56,8 kg 2011; riêng tại các nước đang phát
triển khẩu phần tăng thêm 0,4 kg đến 67,8 kg và tại các nước phát triển
giảm 1% còn 12,2 kg mỗi năm.
Gạo tồn trữ dự đóan 145 triệu tấn trong 2011, tăng
10,5 triệu tấn hay 8% so với 2010, số lượng này có thể cung cấp 30% nhu
cầu thế giới. FAO ước đóan gạo tồn trữ tăng thêm 4 triệu tấn đến 149
triệu tấn trong 2012.
Giá gạo thế giới đạt đỉnh cao 570 Mỹ kim/tấn (gạo
Thái 100% B) vào tháng 12-2010 và tháng 1-2011, bắt đầu giảm dần từ
tháng 2 đến 5-2011 (500 Mỹ kim/tấn) do thu họach mùa lúa Đông-Xuân ở
châu Á. Từ tháng 6 đến 11-2011, giá gạo tăng cao trở lại (630 Mỹ
kim/tấn) (Hình 1), do lũ lụt tại một số nước châu Á, và Chính phủ Thái
đưa ra chánh sách tăng giá lúa gạo hỗ trợ nông dân kể từ 7-10-2011, với
502 Mỹ kim cho mỗi tấn gạo trắng premium và 667 Mỹ kim cho gạo thơm,
tức tăng 66 và 33% so với thời điểm bấy giờ, theo thứ tự. Vào tháng
9-2011, giá gạo Việt Nam và Indonesia tăng 32 và 12% so với tháng trước.
Vào cuối tháng 11-2011, giá gạo Việt Nam 5% tấm là 560 Mỹ kim/tấn và 25% tấm 510 Mỹ kim/tấn (4).
Ấn Độ đang trở lại thị trường quốc tế với
sức cạnh tranh cao do giá gạo thấp. Nước nầy còn mở rộng thị trường đến
một số nước châu Phi. Gạo Ấn Độ 5% tấm chỉ còn 394 Mỹ kim/tấn tháng 11 so với 412 Mỹ kim/tấn tháng 10. Pakistan xuất khẩu ít hơn do thất mùa, giá gạo 25% tấm là 391 Mỹ kim/tấn trong tháng 11 so với 420 Mỹ kim tháng 10 (4). Trung Quốc
vẫn giữ giá gạo nội địa không thay đổi từ tháng 3 đến tháng 11, nhưng
cao hơn cùng thời điểm năm trước 14%. Tại các nước Bangladesh, Bhutan,
Cambodge, Lào, Nepal và Philippines giá gạo nội địa không thay đổi từ
tháng 9-2010 đến nay.
Năm 2011, Brazil xuất khẩu kỷ lục đến 1 triệu tấn gạo so với 0,4 triệu tấn 2010. Uruguay tập trung xuất khẩu gạo vào thị trường Trung Đông. Hoa Kỳ
xuất khẩu giảm với 3,4 triệu tấn gạo 2011 so với 3,9 triệu tấn 2010.
Giá gạo xuất khẩu cũng theo khuynh hướng thế giới giảm 5%. Gạo hạt dài
2/4 còn 593 Mỹ kim/tấn tháng 11 so với 625 Mỹ kim/tấn tháng 10 (4).
Năm 2012, giá gạo thế giới sẽ giảm do số lượng xuất khẩu dư thừa và số lượng gạo giao dịch nhỏ hơn so với năm trước. Đây là hậu quả tất nhiên của sản xuất và tồn trữ tăng gia liên tục trong thập niên vừa qua.
Giá gạo xuất khẩu của một số nước xuất khẩu quan trọng, như Thái Lan,
Hoa Kỳ, Việt Nam, Argentina, Ấn Độ và Pakistan từ 2006 – 2011 được
trình bày trong Bảng 2 (2).
Tóm lại, theo Tổ chức FAO dự báo, viễn ảnh
sản xuất lúa gạo thế giới năm 2012 khá sáng sủa, có thể tăng khỏang 2,4%
đạt đến 738 triệu tấn lúa; nhưng giao dịch gạo thế giới sẽ giảm bớt 1% ở
mức 33,8 triệu tấn, do Thái Lan giảm số lượng xuất khẩu 20% và một số
nước khác cùng có khuynh hướng này. Sự thay đổi chánh sách lúa gạo Thái
Lan và Ấn Độ sẽ làm cho thị trường lúa gạo thế giới năm tới không được
ổn định. Ấn Độ và Pakistan sẽ thay thế phần lớn số lượng xuất khẩu sút
giảm của Thái Lan. Với chút ít lạc quan, các chuyên gia cho biết giá các
nhu yếu phẩm sẽ không thay đổi nhiều và dưới mức cao nhứt của 2011.
Việc Ấn Độ trở lại trong vai trò nước xuất khẩu gạo lớn thế giới với giá
gạo thấp, kết hợp cùng giá gạo xuất khẩu thấp của Pakistan và Myanmar
sẽ giữ giá gạo thế giới thấp hơn trong năm tới. Riêng ngành xuất khẩu
lúa gạo Việt Nam sẽ tiến đến gần hơn ngôi vị quốc tế hạng nhứt
và hàng năm mang về đất nước hàng tỉ Mỹ kim; nhưng nông dân trồng lúa
không hưởng được lợi tức tương xứng với vai trò hiện tại của mình!
Trần Văn Đạt, Ph. D.
10-12-2011
Bảng 1: Sản xuất lúa thế giới (2009, 2010 và 2011) và nhập-xuất khẩu gạo thế giới (2009, 2010, 2011 và 2012)
Bảng 2: Giá gạo xuất khẩu của Thái Lan, Hoa Kỳ, Việt Nam, Argentina, Ấn Độ và Pakistan, 2006-11
Tài Liệu Tham Khảo:
1) FAO. 2011. FAO cereal supply and demand. World food situation
(www.fao.org/worldfoodsituation/wfs-home/csdb/en/).
2) FAO Rice Market Monitor (RMM), November 20011, Vol. XV, Issue No. 4.
(www.fao.org/economic/est/publications/rice-publications/rice-market-monitor-rmm/en/).
3) FAO Food Outlook, No.4, November 2011, Economic and Social Department
(www.fao.org/economic/est/trade-and-markets-home/en/).
4) InterRice (CIRAD), Monthly Report of the World Market of Rice, November 2011.