Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong lời phát biểu
trước Quân ủy Trung Ương đảng Cộng sản hôm Thứ Ba, chỉ thị tiếp tục phát triển
lực lượng hải quân và chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp xảy ra chiến tranh.
Hàng không mẫu hạm Variag của Trung Quốc, chiến hạm
được dư luận quốc tế nói đến nhiều nhất, trong một chuyến chạy thử tháng 11,
2011. (Hình: Wikipedia)
Mặc dầu không trực tiếp nhắm vào một đối tượng nào nhưng mọi người đều có thể hiểu “thế lực bên ngoài” chính yếu để Trung Quốc phải lo lắng đương đầu là Hoa Kỳ. Từ lâu Hoa Kỳ vẫn là cường quốc trong toàn thể vùng Thái Bình Dương và gần đây đã có một số động thái cụ thể nhằm tái khẳng định vai trò ấy, bao gồm sự xác định quyền lưu thông hàng hải tự do trên vùng biển quốc tế gần Trung Quốc như Hoàng Hải và Biển Đông, việc loan báo kế hoạch phối trí thường trực thủy quân lục chiến ở Australia. Sự kiện Trung Quốc tuyên bố bành trướng hải quân không được Hoa Kỳ coi như một chiến lược mới và đáp lại Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chỉ nói rằng Trung Quốc có quyền phát triển khả năng quốc phòng của họ nhưng nên thực hiện “một cách trong sáng.”
Quân lực Trung Quốc có nhân số lớn nhất thế giới, ước lượng
2.3 triệu, trong đó khoảng 300,000 hải quân trên hàng trăm chiến hạm trang bị vũ
khí tân tiến, kể cả một hải đội tiềm thủy đĩnh nguyên tử và một hàng không mẫu
hạm còn đang trong giai đoạn thử nghiệm.
Tuy nhiên lực lượng Hải Quân Trung Quốc chưa thể là đối thủ
ngang sức của Hải Quân Hoa Kỳ gồm hơn 100 chiến hạm nổi và các tiềm thủy đĩnh
nguyên tử cùng 6 trong số 11 hàng không mẫu hạm nguyên tử đặt căn cứ thường trực
trong vùng Thái Bình Dương.
Trong bối cảnh cuộc họp của Quân ủy Trung ương, phát biểu
của Hồ Cẩm Đào có ý nghĩa của một chỉ thị. Nhưng khi được truyền thông Trung
Quốc loan tải rộng rãi, một điều chỉ có thể có khi hàm chứa một ý đồ, thì có thể
coi đây là một lời răn đe. Nhưng trong ngắn hạn, lời đe dọa ấy chỉ mới có giá
trị đối với các quốc gia trong khu vực, bao gồm Đài Loan, Nam Hàn, Nhật Bản và
các quốc gia Đông Nam Á hay xa hơn nữa tới Ấn Độ. Ngoại trừ Ấn Độ có lực lượng
hải quân đáng kể với khoảng 130 chiến hạm bao gồm tiềm thủy đĩnh và một hàng
không mẫu hạm chiến thuật, các nước Đông Nam Á không đủ lực lượng là địch thủ
của Trung Quốc trên biển.
Cho tới cuối thế kỷ 20, Trung Quốc vẫn chỉ được coi là một
cường quốc quân sự trên bộ, với một lực lượng hải quân rất yếu, chính xác là một
hải đội duyên phòng trong suốt thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Tới thập niên 1980,
Trung Quốc mới bắt đầu phát triển hải quân “nước xanh” ngoài hải quân “nước
đục.” Đến nay mặc dầu đã có thêm nhiều loại chiến hạm mới, Hải Quân Trung Quốc
hãy còn là một lực lượng ở giữa hai lãnh vực cận duyên và viễn duyên. Dù có
những chiến hạm có tầm hoạt động ngoài đại dương xa căn cứ, nhưng Trung Quốc
chưa có đủ loại chiến hạm cần thiết để hình thành một hạm đội hành quân viễn
duyên, đồng thời nhân sự chưa được huấn luyện đầy đủ và có kinh nghiệm trong tác
chiến trên biển, kiểu cũ cũng như với kỹ thuật của thời đại mới.
Hải Quân Trung Quốc được tổ chức thành 3 hạm đội chính: hạm
đội Bắc Hải, đặt căn cứ tại cảng Thanh Đảo tỉnh Sơn Đông, trách nhiệm vùng Hoàng
Hải và vịnh Bột Hải; hạm đội Đông Hải căn cứ tại Ninh Ba tỉnh Chiết Giang phụ
trách vùng biển phía Đông Trung Quốc bao gồm eo biển Đài Loan và hạm đội Nam Hải
căn cứ tại Trạm Giang tỉnh Quảng Đông phụ trách vùng Biển Đông.
Tổng cộng số chiến hạm nổi lớn nhỏ vào khoảng 200 trong đó
có 25 khu trục hạm, 50 hộ tống hạm và hàng trăm tiểu đĩnh, tàu đổ bộ, tàu trợ
chiến các loại. Một lực lượng đáng kể trong Hải Quân Trung Quốc là tàu ngầm,
Trung Quốc có số tàu ngầm lớn nhất ở Á Châu với khoảng từ 8 đến 10 tiềm thủy
đĩnh nguyên tử và 50 đến 60 tiềm thủy đĩnh dùng động cơ diesel-electric. Ngoài
ra Trung Quốc có hàng ngàn tàu duyên phòng, cảnh sát biển, tàu bán quân sự tuần
tra biển và thương thuyền có thể sử dụng cho công tác tiếp vận.
Người ta hay nói đến chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên của
Trung Quốc, được tân trang lại từ chiếc Variag mua của Ukraine, chưa có tên mới
chính thức và hiện nay hãy còn trong thời kỳ thử nghiệm. Để giảm bớt sự chú ý
của thế giới, Trung Quốc luôn luôn nói mẫu hạm này chỉ dùng vào mục đích huấn
luyện. Lập luận này phù hợp với thực tế vì chiếc Variag bây giờ hay trong tương
lai thật ra không có nhiều giá trị tác chiến.
Ngay cả khi Variag đã hoàn toàn sẵn sàng để sử dụng trong
chiến đấu thì với số máy bay chiến đấu mang theo không quá 30 chiếc và chưa
thành lập được một hải đội tùy tùng (kiểu hải đội đặc nhiệm của một hàng không
mẫu hạm Hoa Kỳ), mẫu hạm này không thể hành quân xa và cũng không cần thiết cho
những cuộc hải chiến nếu xảy ra ở eo biển Đài Loan hay Biển Đông là những khu
vực nằm trong tầm hoạt động của những máy bay xuất phát từ căn cứ trên lục địa
Trung Quốc. Như vậy sẽ còn rất lâu những hàng không mẫu hạm Trung Quốc mới là
mối lo ngại đáng kể cho Hoa Kỳ cũng như các quốc gia trong khu vực.
Các khu trục hạm và hộ tống hạm mới nhất của Trung Quốc
được trang bị đầy đủ những hệ thống vũ khí hiện đại là một lực lượng đáng chú ý
hơn, tuy nhiên giá trị chiến đấu có lẽ có giới hạn. Một hải đội bao gồm toàn
những chiến hạm này không thể là lực lượng xung kích viễn duyên trong chiến
tranh. Còn tại khu vực, lực lượng này cũng không làm chủ được mặt biển khi đối
phương có những chiến hạm kém hơn nhưng đủ khả năng đương đầu và gây tổn thất.
Đó là trường hợp nếu xung đột xảy ra ở Biển Đông, đặc biệt là với Việt Nam, hiện
có những hộ tống hạm phóng hỏa tiễn kiểu Gepard, Petya, tiềm thủy đĩnh và máy
bay hải chiến Sukhoi Su-30MK2.