"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Freitag, 27. August 2010

Cơn bão đang quần tụ: Trung Quốc thách thức quyền lực của Hoa Kỳ tại châu Á

John Mearsheime
(Hồ Kim Sơn dịch)

(Chương trình diễn giảng Michael Hintze hàng năm lần thứ tư về an ninh thế giới)

Quả thật thú vị và vinh hạnh cho tôi được có mặt ở đây tại Đại học Sydney này để đăng đàn diễn giảng về đề tài quan hệ quốc tế trong chương trình diễn giảng Michael Hinzte hàng năm. Tôi xin được tỏ lòng biết ơn đối với ông Alan Dupont – người đã ngỏ lời mời tôi, và cảm ơn tất cả quý vị đã hội tụ về đây tối hôm nay để nghe tôi nói.

Hoa Kỳ là quốc gia hùng mạnh nhất trên hành tinh suốt nhiều thập kỷ nay, và là quốc gia đã triển khai những lực lượng quân sự hùng hậu đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương ngay từ những năm đầu của Đệ nhị Thế chiến. Sự hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực láng giềng của quí vị đã mang lại những kết quả có giá trị cho Australia và cho cả khu vực rộng lớn hơn.

Đây là cách thể chính quyền Australia nhìn nhận thực tế đó, chí ít theo Bạch thư quốc phòng 2009 thì: “Australia là quốc gia rất an toàn và ổn định suốt nhiều thập kỷ, nhìn theo tầm kích lớn, vì khu vực châu Á-Thái Bình Dương trên phạm vi rộng lớn hơn cũng đã được ân hưởng một kỷ nguyên hòa bình và ổn định chưa từng có trước đó do vị thế cầm đầu chiến lược của Hoa Kỳ bảo đảm.” Nói cách khác, Hoa Kỳ đã đóng vai người gìn giữ hòa bình cho khu vực này của thế giới.

Tuy nhiên, theo câu tiếp theo trong Bạch thư, “Trật tự đó đang chuyển đổi vì những thay đổi về kinh tế bắt đầu dẫn đến những thay đổi trong phân bổ quyền lực chiến lược.” Luận điểm nầy rõ ràng là đề cập đến sự trỗi dậy của Trung Quốc đang tác động đáng kể lên sự quân bình quyền lực toàn cầu. Đặc biệt, hố cách biệt quyền lực giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đang thu hẹp lại và hoàn toàn có khả năng “thế cầm đầu chiến lược của Hoa Kỳ” trong khu vực này sẽ không còn nữa. Điều này không có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ biến mất đi; thực tế là sự hiện diện của Hoa Kỳ ở đây có khả năng gia tăng tương ứng theo đà trỗi dậy của Trung Quốc. Nhưng Hoa Kỳ sẽ không còn là cường quốc trội hơn trong khu vực láng giềng của quí vị nữa, như nó đã từng từ thời 1945.

Câu hỏi quan trọng nhất nảy lên từ cuộc thảo luận này là liệu Trung Quốc có thể trỗi dậy một cách hòa bình. Điều này quá rõ ràng như theo trong Bạch thư quốc phòng – mà có nhiệm vụ đánh giá tình hình chiến lược tính đến năm 2030 của Australia – cho rằng những nhà hoạch định chính sách ở đây đang lo lắng về sự thay đổi cân bằng quyền lực ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Xin hãy xem xét những lời bình như thế này trong Bạch thư: “Trong khi các cường quốc khác nổi lên, và vị thế cầm đầu của Hoa Kỳ đang ngày càng bị thử thách, những quan hệ giữa các cường quốc sẽ ắt phải thay đổi. Khi điều này xảy ra, hẳn nhiên sẽ tồn tại một khả năng tính toán sai lầm. Vẫn tồn tại một khả năng không đáng kể nhưng vẫn đáng quan ngại về sự đối đầu ngày càng lớn giữa một số trong những cường quốc nầy.” Một điểm khác trong Bạch thư mà chúng ta có thể đọc được, “Những nguy cơ do kết quả của cạnh tranh chiến lược leo thang có thể nổi lên bất cứ lúc nào và không đoán định được, và sẽ là một thành tố phải được tính đến trong việc hoạch định kế sách quốc phòng của chúng ta.” Nói tóm lại, chính phủ Australia dường như cảm nhận được sự hoán chuyển cán cân quyền lực giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ có lẽ có tác động không mấy tốt đẹp cho nền hòa bình trong khu vực lân bang.

Tôi muốn nêu lên quan điểm rằng nhân dân Australia cần nên lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc, bởi vì nó có thể dẫn đến một cuộc cạnh tranh an ninh gay gắt giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, mà rất thể có khả năng chiến tranh nổ ra. Hơn thế nữa, đa số những quốc gia lân bang của Trung Quốc, xin kể ra đây gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Singapore, Nam Hàn, Liên bang Nga, Việt Nam, và cả Australia nữa sẽ liên kết với Hoa Kỳ để kìm hãm quyền lực của Trung Quốc. Vậy xin nói thẳng thừng ra: Trung Quốc không thể trỗi dậy một cách hòa bình được.

Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng tôi không nghị luận rằng chỉ một mình hành động của Trung Quốc sẽ thúc đẩy cuộc cạnh tranh an ninh mà vẫn còn nằm ở phía trước. Hoa Kỳ cũng có khả năng hành động theo những cách gây hấn hung hãn, do vậy sẽ đẩy xa hơn triển vọng gây ra rắc rối cho ở đây - khu vực châu Á-Thái Bình Dương này.

Tất nhiên, không phải ai cũng đồng tình với lối nhận định tình hình này của tôi. Nhiều người tin rằng Trung quốc có thể trỗi dậy một cách hòa bình; họ cũng cho rằng không phải không thể không xảy ra việc Hoa Kỳ và Trung Quốc hùng mạnh sẽ làm nảy sinh những quan hệ đối đầu. Dĩ nhiên, họ giả định rằng Trung Quốc sẽ theo đuổi những mục đích hòa bình và rằng lẽ tất yếu của cuộc đời có thể giúp thiết lập ổn định tại khu vực này, mặc dù sự cân bằng quyền lực nền tảng được cho là sẽ thay đổi triệt để.

Tôi xin được mổ xẻ ba luận điểm căn bản mà thường được viện dẫn để bảo vệ cho tiên lượng bệnh có tính chất lạc quan này.

Thứ nhất, có một số người khẳng định rằng Trung Quốc có thể làm dịu đi nỗi e sợ đối với sự trỗi dậy của mình bằng việc bạch thị cùng những quốc gia lân bang và Hoa Kỳ rằng Trung Quốc chỉ theo đuổi những mục đích hòa bình, và sẽ không sử dụng vũ lực để làm thay đổi cán cân quyền lực. Kiến giải này có thể tìm thấy trong Bạch thư quốc phòng như thế nầy: “Cường độ, qui mô và cấu trúc của công cuộc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc có khả năng gây ra quan ngại cho những quốc gia lân bang nếu nó không được giải trình cẩn thận, và nếu Trung Quốc không mở rộng vòng tay ra với những quốc gia khác để xây dựng niềm tin liên quan đối với những kế hoạch quân sự của mình.” Tự trong bản chất, niềm tin này cho rằng Trung Quốc có khả năng có thể gởi tín hiệu về những mục đích tương lai và hiện tại của mình cho Australia và những quốc gia khác theo những cách thức thật sự gợi mở.

Bất hạnh thay, các quốc gia trên thế giới không bao giờ có thể xác định được những mục đích hay dự định của nhau. Họ không thể biết được với một độ xác quyết cao liệu họ đang đối đầu với một quốc gia theo khuynh hướng xét lại hay một cường quốc theo khuynh hướng mặc định hiện trạng. Chẳng hạn, các chuyên gia vẫn không nhất trí được với nhau liệu có phải chăng Liên bang Sô viết đã có chủ định muốn thống trị cả lục địa Âu Á suốt thời gian Chiến tranh Lạnh. Cũng như không có đồng thuận nào đối với nghi vấn phải chăng Đế quốc Đức là một quốc gia hung hăng gây hấn cao độ phải chịu trách nhiệm chính đã gây ra Đệ nhất Thế chiến. Cội rễ của vấn đề là ở chỗ không giống như những khả năng quân sự có thể thấy bằng mắt và đo đếm được, những dự định không thể chứng minh trên cơ sở thực nghiệm. Những dự định nằm ở trong đầu của những nhà đưa ra quyết định và chúng đặc biệt rất khó nhận biết rõ bằng các giác quan. Quí vị có thể bảo rằng những nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể sử dụng ngôn từ để giải thích cho những dự định của họ. Nhưng lời nói thì rẻ và các nhà lãnh đạo rất nổi tiếng về việc chuyên lừa dối đối với thính giả ngoại quốc. Do vậy, thật khó biết được những dự định của những nhà lãnh đạo hiện thời của Trung Quốc, mà không có ý nói rằng họ nhất thiết là theo chủ trương xét lại.

Nhưng thậm chí giả định rằng quí vị có thể xác định được những dự định mục đích của Trung Quốc ngày hôm nay đi chăng nữa, thì cũng không có cách nào để biết được họ sẽ như thế nào trong tương lai. Tóm lại, không tài nào có thể chỉ đích danh ai là người thực thi những chính sách ngoại giao của quốc gia nào đấy từ 5 cho đến 10 năm trong tương lai, chứ chưa nói tới chuyện làm sao biết được những quốc gia đó có những dự tính xâm lược hay không. Nói bao nhiêu cũng không nhấn mạnh đủ một thực tế rằng chúng ta phải đối mặt với sự bất định triệt để bất cứ khi nào chúng ta muốn xác định rõ những dự tính tương lai của một quốc gia nào đó, bao gồm cả Trung quốc.

Luận điểm thứ hai là một Trung Quốc hòa nhã có thể tránh được sự đối đầu bằng cách xây dựng những lực lượng quân sự để tự vệ thay cho tấn công. Nói cách khác, Bắc Kinh có thể đưa ra chỉ dấu rằng mình là một cường quốc thực theo hiện trạng qua việc tự mình từ bỏ khả năng sử dụng vũ lực để làm thay đổi thế quân bằng quyền lực. Tóm lại, một quốc gia không có khả năng tấn công không thể là một quốc gia theo khuynh hướng xét lại, bởi vì nó không có phương tiện để thực thi hành động xâm lấn. Không ngạc nhiên chút nào khi chúng ta vẫn thường nghe những nhà lãnh đạo Trung Quốc ra rả tuyên bố rằng quân đội của họ được thiết dựng chủ yếu là cho những mục đích tự vệ. Lấy ví dụ, tờ New York Thời báo mới đây cho đăng một bài tường trình quan trọng về quân chủng hải quân Trung Quốc mà qua đó những cấp lãnh đạo vẫn khẳng định rằng quân lực hải quân của họ chỉ “thuần là một lực lượng tự vệ.”

Lập luận này có một nan đề: thật khó mà phân biệt được đâu là khả năng phòng vệ và đâu là khả năng tấn công của một lực lượng quân sự. Các nhà đàm phán tại Hội nghị Giải trừ vũ khí họp năm 1932 đã nỗ lực đưa ra những phân biệt như thế nhưng cuối cùng thấy mình bị mắc kẹt khi không thể phân định được những loại vũ khí cụ thể chẳng hạn như xe tăng hay khu trục hạm là có thuộc tính tự vệ hay tấn công. Vấn đề căn cốt là những khả năng mà các quốc gia phát triển chỉ để tự vệ lại thường có tiềm năng tấn công rất đáng kể. Hãy xem xét những gì Trung Quốc đang làm ngày hôm nay. Họ đang xây dựng những lực lượng quân sự có khả năng triển khai sức mạnh tầm xa đáng kể, và giống như Bạch thư quốc phòng cho chúng ta hay, “công cuộc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc càng ngày càng thiên về đặc tính phát triển những khả năng triển khai sức mạnh tầm xa.” Ví dụ, Trung Quốc đang xây dựng những lực lượng hải quân có khả năng triển khai sức mạnh ra xa tới “Chuỗi đảo thứ hai” [Trong chiến lược vươn ra đại dương Trung Quốc đã định ra 2 chuỗi đảo, chuỗi đảo thứ nhất gồm cả Biển Đông, chuỗi đảo thứ hai được nói đến ở đây. ND ghi chú] nằm ở phía Tây Thái Bình Dương. Và họ còn tuyên bố đang lên kế hoạch để xây dựng lực lượng “hải quân biển xanh” có khả năng hoạt động ở vùng biển Ả Rập và Ấn Độ Dương. Vì những lý do thật dễ hiểu, họ muốn có khả năng tự bảo vệ những tuyến đường biển của họ mà không phải lệ thuộc vào hải quân Hoa Kỳ để giải quyết nhiệm vụ nầy. Mặc dù bây giờ họ chưa có được khả năng đó, như Robert Kaplan chỉ ra trong một bài báo mới đây đăng trên tờ Foreign Affairs (Những vấn đề ngoại giao), “Những nhà lãnh đạo hải quân của Trung Quốc đang phô diễn triết lý xâm lăng của Alfred Thayer Mahan – chiến lược gia về hải quân Hoa Kỳ tại-khúc-quanh-thế-kỷ-hai-mươi, người chủ trương kiểm soát mặt biển và những trận đánh quyết định.”

Hiển nhiên, đa số các nhà lãnh đạo của Trung Quốc đều nghĩ rằng hải quân của họ chỉ thiên về tự vệ, mặc dù thực tế nó có khả năng tấn công rất đáng kể và khả năng đó sẽ mạnh hơn nữa trong tương lai. Thực ra, họ gán cho chiến lược hải quân của họ là “Phòng thủ Biển xa.” Như những nhận xét của Kaplan đã chỉ ra, gần như chắc chắn rằng khi hải quân của Trung Quốc phát triển cả qui mô lẫn khả năng, không một quốc gia lân bang nào của Trung Quốc, kể cả Australia, xem đó là để tự vệ. Tất cả các quốc gia đó đều xem đó là lực lượng tấn công kinh khủng. Cho nên, bất kì ai muốn xác định những dự tính tương lai của Trung Quốc qua việc quan sát lãnh vực quân sự của nó đều có thể đi đến kết luận rằng Bắc Kinh có quyết tâm gây hấn xâm lược.

Sau cùng là, có một số người vẫn cho rằng những ứng xử mới đây của Trung Quốc đối với những quốc gia lân bang, mà chưa có thể coi là xâm lược theo ý nghĩa trọn vẹn của nó, là những chỉ dấu đáng tin cậy về cách thức hành động của Trung Quốc trong những thập kỷ tới. Nan đề trung tâm của luận điểm này là hành tung trong quá khứ không phải lúc nào cũng là chỉ định đáng tin cho hành vi trong tương lai, bởi vì những nhà lãnh đạo đến rồi đi và có một số thì hiếu chiến hơn một số khác. Thêm vào đó, tình hình tại quốc nội và tại hải ngoại có thể biến chuyển theo cách khiến việc muốn sử dụng lực lượng quân đội trở nên hấp dẫn hơn hoặc kém đi.

Trường hợp Trung Quốc là một minh thị cho lập luận này. Hiện tại Bắc Kinh chưa sở hữu một quân đội có sức mạnh kinh khủng và chắc chắn nó chưa ở vào vị thế có thể gây chiến với Hoa Kỳ. Nói như thế không có ý cho Trung Quốc là một con cọp giấy, mà không có khả năng gây ra nhiều rắc rối trong khu vực này. Mặc dù vậy, tình hình như thế có triển vọng là sẽ thay đổi rất nhiều theo thời gian, và trong một trường hợp Trung Quốc sẽ có khả năng tấn công đáng kể. Đến lúc đó, chúng ta sẽ thấy nó “tận tụy” với hiện thực nguyên trạng như thế nào. Nhưng bây giờ chúng ta không thể nói gì nhiều về hành vi trong tương lai của Trung Quốc, bởi vì hiện tại nó chỉ có khả năng rất giới hạn để hành động theo cách gây hấn hung hãn.

Tất cả những thứ này báo cho chúng ta một điều là không hiện hữu một cách thức tốt đẹp nào để phỏng định Trung Quốc sẽ có những dự định gì trong tương lai hoặc tiên đoán hành vi trong tương lai của nó bằng cách chỉ căn cứ vào những chính sách ngoại giao gần đây của họ. Tuy nhiên, dường như không rõ rằng Trung Quốc sẽ hiển nhiên có một quân đội có tiềm năng tấn công đáng kể.


Từ nãy đến giờ, tôi chỉ mới đề cập đến cách thể một người Mỹ hoặc một người Úc bất kỳ nào có thể đánh giá hành tung tương lai của trung Quốc. Nhưng để hiểu rõ một cách tường tận sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng như thế nào đến nền an ninh ổn định trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, chúng ta cũng phải xem xét những gì các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể tiên liệu về những hành tung tương lai của Hoa Kỳ, bằng qua việc xem xét những dự định, khả năng, và hành vi trong hiện tại của họ.

Một điều hiển nhiên là không có cách nào để những nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể biết ai sẽ là người có trách nhiệm điều hành chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ trong tương lai, chưa nói tới những dự định của họ đối với Trung Quốc sẽ như thế nào. Nhưng họ thừa biết tất cả những tổng thống Hoa Kỳ trong thời hậu Chiến tranh Lạnh, kể cả Tổng thống Barack Obama, đều đã tuyên bố rằng họ vẫn giữ vững chính sách Hoa Kỳ dẫn đầu như từ trước đến nay. Điều này có nghĩa là Washington có thể tiếp tục ngăn cản Trung Quốc không cho nó trở nên quá hùng mạnh trong một thời gian dài đáng kể.

Nói về khả năng quân sự của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã chi một số tiền khổng lồ cho quốc phòng nhiều hơn tất cả các quốc gia khác trên thế giới gộp lại. Hơn thế nữa, bởi vì quân đội của Hoa Kỳ được thiết kế để tác chiến ở bất cứ nơi đâu trên toàn cầu, nó đã có sẵn những khí tài dư thừa cho việc triển khai sức mạnh tầm xa. Đa phần khả năng đó hoặc đã được đồn trú sẵn trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương hoặc có thể nhanh chóng chuyển vận đến bất cứ khi nào có nhu cầu. Trung Quốc không thể nào không nhận ra rằng Hoa Kỳ đã có sẵn những lực lượng quân sự rất hùng hậu có mặt tại khu vực lân bang của mình, được thiết kế phần lớn là cho những mục đích tấn công. Đó là điều chắc chắn, khi Hoa Kỳ cho chuyển những khu trục hạm vào trong vùng biển Đài Loan – như đã xảy ra hồi năm 1996 – hoặc khi Hoa Kỳ tái triển khai những tàu ngầm đến vùng Tây Thái Bình Dương, Trung Quốc phải xem những khí tài hải quân này là có tính chất tấn công hơn là tự vệ. Điều này không loại trừ thực tế rằng đa số người dân Mỹ, giống như đa số người dân Trung Quốc, nghĩ rằng lực lượng quân sự của họ là công cụ tự vệ; nhưng đó không phải là cách nhìn nhận khi bạn ở phía đằng kia của họng súng. Do vậy, bất kỳ người dân nào ở Trung Quốc khi cố công lượng định những dự tính của Hoa Kỳ qua việc đánh giá những khả năng quân sự của nó cũng đều có thể nghĩ Hoa Kỳ là quốc gia theo khuynh hướng xét lại, không phải là một cường quốc theo khuynh hướng hiện thực nguyên trạng.

Tóm lại là, còn tồn tại một vấn đề liên quan hành động mới đây của Hoa Kỳ và điều có thể nói cho chúng ta hay những hành động trong tương lai của Hoa Kỳ như thế nào. Như tôi đã nói khi nãy, hành động quá khứ thường không phải là chỉ định đáng tin cậy cho hành vi trong tương lai, bởi vì tình thế luôn thay đổi và những nhà lãnh đạo mới thường suy nghĩ khác về chính sách ngoại giao so với những người tiền nhiệm của họ. Nhưng nếu giới lãnh đạoTrung Quốc muốn lượng định Hoa Kỳ có thể hành xử ra sao trong tương lai bằng cách xem xét chính sách ngoại giao mới đây của Hoa Kỳ, họ gần như chắc chắn sẽ kết luận rằng Hoa Kỳ là một quốc gia hiếu chiến và nguy hiểm. Cuối cùng là, Hoa Kỳ đã và đang lâm vào chiến tranh hết 14 năm của 21 năm từ sau Chiến tranh Lạnh kết thúc. Nghĩa là cứ 3 năm là có 2 năm lâm chiến. Và xin lưu ý rằng chính quyền Obama đang lăm le một cuộc chiến mới chống lại Iran.

Giáo sư John Mearsheimer, hiện giảng dạy tại Đại học Chicago, là một trong những nhà tư tưởng táo bạo và gây nhiều tranh cãi nhất Hoa Kỳ trong lãnh vực quan hệ quốc tế. Tác phẩm Những nhà vận động hành lang Do Thái và chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ do ông và Stephen Walt thuộc Đại học Harvard đứng tên đồng tác giả làm dấy lên những cuộc tranh luận nảy lửa, và đã được dịch sang 17 thứ tiếng.

Có thể có người phản bác lại rằng cho dù tất cả đó đều là sự thật, nhưng Hoa Kỳ chưa hề hăm dọa tấn công Trung Quốc. Một vấn đề trong luận điểm này là những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ từ cả hai Đảng Dân chủ cũng như Cộng hòa đều tuyên bố rõ ràng rằng họ tin Hoa Kỳ là, xin trích dẫn lời của bà cựu ngoại trưởng Madeleine Albright, “quốc gia không thể thiếu được”, cho nên nó vừa có quyền vừa có trách nhiệm làm sen đầm trên toàn thế giới. Hơn thế nữa, đa số người Trung Quốc đều ý thức rất rõ Hoa Kỳ đã lợi dụng Trung Hoa yếu kém như thế nào bằng cách thúc ép đẩy nhanh chính sách “Mở cửa” bỉ ổi vào hồi đầu thế kỷ hai mươi. Những giới chức Trung Hoa cũng biết rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc đã choảng nhau trong cuộc chiến đẫm máu ở Triều Tiên giữa những năm 1950 và 1953. Không ngạc nhiên gì khi tờ Economist mới đây tường trình rằng, “Một vị tướng hồi hưu Trung Quốc đã so sánh hải quân của Hoa Kỳ giống như một người có thành tích tội phạm ‘cứ lảng vảng trước cửa nhà của một gia đình người ta’.”

Có vẻ như đây là trường hợp mà chúng ta nên tỏ lòng biết ơn mà nhiều quốc gia thường không chú ý đến hành tung quá khứ của một đối thủ tiềm năng trong khi cố gắng định ra những dự tính tương lai của mình.

Tất cả những điều đó nói lên cho chúng ta hay một điều rằng môi trường an ninh trong tương lai của khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ xoay quanh Hoa Kỳ và Trung Quốc, và mỗi một cường quốc lớn đó đều sở hữu một quân đội với khả năng tấn công rất đáng kể cùng với những dự tính không tài nào biết trước được.

Còn một yếu tố khác đóng vai trò rất quan trọng trong quan hệ Mỹ-Trung trong tương lai. Không hiện hữu một tổ chức thế quyền tập trung cao nào để cho những quốc gia quay sang nương tựa trong trường hợp có kẻ xâm lăng nguy hiểm hăm dọa họ. Không có người canh gác đêm trong hệ thống quốc tế; điều này có nghĩa là các quốc gia phải tự lực cánh sinh để đảm bảo sự tồn vong của mình. Do vậy, câu hỏi cốt lõi mà bất cứ nhà lãnh đạo nào cũng phải tự đặt ra cho mình là như thế này: đâu là phương cách để có thể tối ưu hóa nền an ninh của quốc gia mình trong một thế giới nơi mà một quốc gia khác có trong tay khả năng quân sự tấn công hùng hậu cũng như những dự định tấn công, và nơi không có tổ chức nào mạnh hơn mà ta có thể quay đến nương tựa nếu quốc gia hung hãn đó tỏ hăm dọa quốc gia ta? Câu hỏi này – hơn bất cứ câu hỏi nào khác – sẽ kích thích các giới lãnh đạo Hoa Kỳ cũng như Trung Quốc trong những năm tháng còn ở phía trước, giống như nó từng có trong quá khứ.

Tôi tin tưởng có một lời đáp thẳng cho câu hỏi này và rằng tất cả các cường quốc đều biết lời đáp đó và căn cứ theo đó mà hành động. Cách thức tốt nhất cho bất kỳ quốc gia nào có thể đảm bảo được sự tồn vong của mình là phải trở nên hùng mạnh hơn rất nhiều tất cả những quốc gia khác trong toàn hệ thống, bởi vì những quốc gia yếu hơn không thể tấn công nó vì sợ rằng sẽ bị đánh bại thảm hại. Ví dụ, không một quốc gia nào ở Tây bán cầu dám đánh lại Hoa Kỳ bởi vì Hoa Kỳ quá hùng mạnh so với tất cả những nước lân bang của nó.

Xin nói cụ thể hơn, điều kiện lý tưởng cho bất kỳ cường quốc lớn nào là phải duy trì vị trí bá chủ trong toàn hệ thống, bởi vì từ đó sự tồn vong của nó mới được hầu như bảo đảm. Một quốc gia bá chủ là một quốc gia rất hùng mạnh khiến có thể thống trị tất cả những quốc gia khác. Nói theo cách khác, không một quốc gia riêng lẻ nào khác có đầy đủ sức mạnh quân sự để có thể gây nên một cuộc chiến ra trò chống lại nó. Căn bản là, một quốc gia bá chủ là một cường quốc lớn duy nhất trong toàn hệ thống.

Khi người ta bàn đến chuyện quốc gia bá chủ ngày nay, họ thường đề cập đến Hoa Kỳ, mà theo mô tả của họ là một bá chủ toàn cầu. Tôi không thích gì cái thuật ngữ này, bởi vì dường như không có quốc gia nào – kể cả Hoa Kỳ - có thể đạt được danh hiệu bá chủ toàn cầu này cả. Trở ngại chính trong việc thống trị thế giới đó là khó khăn trong việc triển khai lực lượng vượt qua những khoảng cách lớn, đặc biệt là vượt qua những vùng nước mênh mông như Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.

Một giải pháp tối ưu mà một cường quốc lớn có thể hy vọng với tới là phải trở thành bá chủ khu vực, và có khả năng kiểm soát một khu vực khác gần kề và có thể thâm nhập dễ dàng bằng đường bộ. Hoa Kỳ, hiện tại đang thống trị khu vực Tây bán cầu, là bá chủ khu vực duy nhất trong lịch sử hiện đại. Năm cường quốc lớn khác đã nỗ lực thống trị từng khu vực riêng của mình – Đế chế Pháp thời Napoleon, Đế quốc Đức, Đế quốc Nhật, Đức Quốc xã, và Liên bang Sô viết – nhưng không một cường quốc nào đạt được thành công.

Hoa Kỳ, xin được nhấn mạnh, đã không ngẫu nhiên mà trở thành bá chủ ở Tây bán cầu. Khi Hoa Kỳ giành được độc lập vào năm 1783, nó chỉ là một quốc gia yếu bao gồm 13 bang nằm dọc theo bờ Đại Tây Dương. Suốt một thời kỳ kéo dài 115 năm sau đó, những nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ đã bền bỉ làm việc cố theo đuổi ngôi vị bá chủ trong khu vực. Họ đã mở rộng biên cương từ Đại Tây Dương sang đến Thái Bình Dương như một phần của chính sách thường được nhắc đến dưới tên gọi “Biểu thị Vận mệnh.” Thực vậy, Hoa Kỳ là một cường quốc bành trướng hàng đầu. Henry Cabot Lodge [một sử gia nổi tiếng kiêm chính trị gia thuộc Đảng Cộng hòa, 1850-1924 - ND] nhận xét rất đích đáng khi ông viết rằng Hoa Kỳ có “thành tích chinh phục, thuộc địa hóa, và bành trướng lãnh thổ không một dân tộc nào có thể sánh nổi trong cả thế kỷ mười chín.” Và tôi có thể thêm vào cả thế kỷ hai mươi nữa.

Nhưng những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ vào hồi thế kỷ thứ mười chín không chỉ quan tâm muốn biến Hoa Kỳ trở thành một quốc gia hùng mạnh về lãnh thổ. Họ còn quyết tâm đẩy những cường quốc lớn châu Âu ra khỏi Tây bán cầu, và tỏ rõ cho những cường quốc ấy thấy là họ không được hoan nghênh quay trở lại. Chính sách này, vẫn còn hiệu lực đến tận ngày hôm nay, được biết đến với tên gọi “Học thuyết Monro.” Khoảng vào năm 1898, đế quốc cuối cùng của châu Âu thống trị ở châu Mỹ sụp đổ và Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia bá chủ trong khu vực.

Các quốc gia đã đạt được ngôi vị bá chủ khu vực có một mục đích xa hơn: chúng cố ngăn cản những cường quốc lớn tại những khu vực địa lý khác không được rập khuôn kỳ công của nó. Một quốc gia bá chủ khu vực, nói cách khác, không muốn có đối thủ cạnh tranh ngang vai cùng vế. Hoa Kỳ, chẳng hạn, đã đóng vai trò chính trong việc ngăn cản đế quốc Nhật, đế quốc Đức, Đức Quốc xã, và Liên bang Sô-viết tranh hùng ngôi bá khu vực. Những quốc gia bá chủ khu vực nỗ lực kiểm soát những quốc gia bá chủ đầy tham vọng tại những khu vực khác, bởi vì chúng sợ rằng một cường quốc đối thủ lớn nắm ngôi bá chủ tại khu vực của nó sẽ trở thành một kẻ thù đặc biệt hùng mạnh mà có thể tự do thong dong khắp toàn cầu và gây rắc rối ngay tại sân sau của chúng. Những quốc gia bá chủ khu vực chỉ mong muốn rằng cần có ít nhất hai cường quốc lớn cùng cát cứ tại những khu vực khác, bởi vì sự gần gũi của chúng sẽ buộc chúng phải tập trung canh chừng nhau hơn là để chừng đến quốc gia bá chủ xa xôi. Hơn nữa, nếu có một nước bá chủ tiềm năng nổi trội lên trong đám bọn chúng, những cường quốc lớn khác trong khu vực đó có thể tự kìm hãm nó lại, cho phép quốc gia bá chủ xa xôi kia có thể tồn tại an toàn đứng ngoài cuộc không can dự.

Điều mấu chốt là vì những lý do chiến lược đúng đắn, Hoa Kỳ đã phải vật lộn vất vả hơn một thế kỷ để đạt được ngôi vị bá chủ khu vực, và từ sau khi đạt được mục đích đó, nó phải đảm bảo rằng không một cường quốc lớn nào có thể thống trị hoặc châu Á hoặc châu Âu theo cái lối nó đang thống trị vùng Tây bán cầu.

Hành tung trong quá khứ của Hoa Kỳ mách bảo cho chúng ta điều gì về sự trỗi dậy của Trung Quốc? Cụ thể là, chúng ta nên trông mong Trung Quốc hành động ra sao khi nó trở nên hùng mạnh hơn?

Tôi mong muốn Trung Quốc cũng hành xử giống như Hoa Kỳ đã từng trong suốt quá trình lịch sử của nó. Đặc biệt, tôi tin rằng Trung Quốc sẽ cố gắng thống trị khu vực châu Á-Thái Bình Dương giống như Hoa Kỳ đang thống trị khu vực Tây bán cầu. Vì những lý do lợi ích chiến lược, Trung Quốc sẽ tối đa hóa hố ngăn cách quyền lực giữa nó với những quốc gia lân bang nguy hiểm tiềm tàng như Ấn Độ, Nhật Bản và Liên bang Nga. Trung quốc chắc chắn rất muốn mình phải trở nên thật hùng mạnh để không một quốc gia nào ở châu Á có đủ sức lực uy hiếp lại mình. Có thể Trung Quốc sẽ không theo đuổi con đường siêu vượt về quân sự để có thể đi theo con đường chiến tranh và chinh phục những quốc gia khác trong khu vực, mặc dù đó luôn luôn là một khả năng. Thay vào đó, có nhiều khả năng hơn là Trung Quốc rất muốn vạch ra những giới hạn cho những hành động có thể chấp nhận được đối với các quốc gia lân bang, gần giống như cách thức Hoa Kỳ đã tỏ rõ cho những quốc gia khác ở châu Mỹ biết rằng Hoa Kỳ là ông trùm. Nhắm đến ngôi vị bá chủ khu vực, tôi xin thêm vào, có thể là cách thức duy nhất Trung Quốc sử dụng để lấy lại Đài Loan.

Một Trung Quốc hùng mạnh gấp nhiều lần cũng có thể, trong mong ước, thử sức đánh đuổi Hoa Kỳ ra khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương, giống như cách thức Hoa Kỳ đã từng đuổi những cường quốc châu Âu ra khỏi khu vực Tây bán cầu vào hồi thế kỷ 19. Chúng ta nên mong sao Trung Quốc tạo ra được một phiên bản Học thuyết Monroe cho riêng mình, giống như Đế quốc Nhật đã làm hồi thập niên 1930. Sự thực là chúng ta đã thấy những nét tương tợ của chính sách đó. Hãy xem xét sự kiện sau, vào hồi tháng Ba, giới chức Trung Quốc đã nói với hai nhà hoạch định chính sách cao cấp Hoa Kỳ rằng Hoa Kỳ không còn được phép can thiệp vào khu vực Biển Đông, mà Trung Quốc xem như là vùng “quyền lợi cốt lõi” giống như Đài Loan và Tây Tạng vậy. Và dường như Trung Quốc cũng nghĩ giống như vậy với vùng biển Hoàng Hải. Tuần vừa rồi Hoa Kỳ và Nam Hàn cùng tập trận hải quân chung để tỏ phản ứng đối với vụ tàu chiến của Nam Hàn bị nghi là do Bắc Hàn đánh chìm. Những cuộc thao diễn hải quân đó đã được lên kế hoạch từ ban đầu là sẽ được thực hiện trên vùng biển Hoàng Hải, tiếp giáp với vùng bờ biển của Trung Quốc, nhưng do bị Trung Quốc phản đối mãnh liệt khiến chính quyền Obama phải quyết định dời xa về hướng đông gần Biển Nhật Bản.

Những mục đích đầy tham vọng này rất có ý nghĩa chiến lược đối với Trung Quốc. Bắc Kinh những muốn một Nhật Bản yếu về quân sự và Liên bang Nga là những quốc gia lân bang của mình, cũng giống như Hoa Kỳ thích có Mexico và Canada yếu kém về quân sự nằm tiếp giáp với nó. Không quốc gia tỉnh táo và sáng suốt nào mà lại muốn những quốc gia hùng mạnh khác hiện hữu trong khu vực của nó. Mọi người dân Trung Quốc chắc chắn vẫn còn nhớ rõ những gì đã xảy ra trong thế kỷ qua khi mà Nhật Bản hùng mạnh và Trung Quốc suy yếu. Hơn nữa, tại sao một Trung Quốc hùng mạnh lại có thể chấp nhận được những lực lượng quân sự Hoa Kỳ vào hoạt động ngay tại sân sau của mình?

Rốt lại, những nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ phải bày tỏ sự giận dữ một khi những cường quốc xa xôi phái lực lượng quân sự đến trong vùng Tây bán cầu. Những lực lượng ngoại quốc đó được xem như một mối đe dọa tiềm năng đối với nền an ninh Hoa Kỳ. Lý lẽ tương tự như thế nên áp dụng cho Trung Quốc. Tại làm sao Trung Quốc có thể thấy an toàn với lực lượng của Hoa Kỳ triển khai đến sát ngay trước cửa nhà mình? Căn cứ theo lý lẽ của Học thuyết Monroe, phải chăng nền an ninh của Trung Quốc sẽ được tốt hơn lên nhiều nếu tống khứ được lực lượng quân đội Hoa Kỳ ra khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương?

Tại sao chúng ta lại mong mỏi Trung Quốc nên hành xử khác hơn so với Hoa Kỳ trong suốt tiến trình lịch sử của nó? Có phải họ nguyên tắc hơn người Mỹ? Đạo đức hơn? Có phải họ kém dân tộc chủ nghĩa hơn người Mỹ? Kém quan ngại hơn về sự tồn vong của họ? Với tất cả những thứ nầy, câu trả lời của họ luôn luôn là không, hiển nhiên, đó là lý do tại sao Trung Quốc tỏ ra như đang bắt chước Hoa Kỳ và phấn đấu để trở thành một quốc gia bá chủ khu vực.

Và Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao nếu Trung Quốc vươn lên thống trị châu Á? Theo cứ liệu lịch sử thì rõ rành rành rằng Hoa Kỳ không bao giờ chịu có đối thủ cạnh tranh ngang vai bằng vế. Như được minh chứng qua suốt cả thế kỷ 20, Hoa Kỳ kiên quyết duy trì vị trí quốc gia bá chủ khu vực duy nhất của thế giới. Do vậy, có thể thấy rõ Hoa Kỳ sẽ tiếp tục kìm hãm Trung Quốc một thời gian lâu dài nữa và tuyệt đối làm cho Trung Quốc suy yếu đến mức không còn có thể đe dọa thống trị tại khu vực châu Á mới thôi. Trong bản chất, Hoa Kỳ muốn đối xử với Trung Quốc theo cách tương tự như nó đã đối xử với Liên bang Sô-viết trong suốt thời gian Chiến tranh Lạnh.

Những quốc gia lân bang của Trung Quốc trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương chắc chắn phải e sợ trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, và họ sẽ làm tất cả mọi cách để có thể ngăn cản không cho nó trở thành bá chủ khu vực. Thực tế là, đã có được những chứng cớ xác đáng cho thấy rằng những quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản, và Liên bang Nga, cũng như những cường quốc nhỏ như Singapore, Nam Hàn, và Việt Nam, đang lo ngại trước sự vươn lên của Trung Quốc và đang tìm mọi cách để kìm hãm Trung Quốc. Ví dụ, vào tháng 10 năm 2008, Ấn Độ và Nhật Bản đã ký kết “Tuyên bố An ninh Chung,” một phần chính là do họ lo sợ trước sức mạnh càng ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Ấn Độ và Hoa Kỳ, đã có quan hệ với nhiều thử thách suốt thời gian Chiến tranh Lạnh, đã trở trành đôi bạn thân thiết hơn một thập kỷ qua, phần lớn chỉ vì cả hai đều sợ Trung Quốc. Chỉ mới tháng rồi, chính quyền Obama, với đầy những con người luôn cao giọng rao giảng cho cả thế giới về tầm quan trọng của nhân quyền, đã tuyên bố tái lập quan hệ với những lực lượng đặc biệt thuộc thành phần ưu tú của Indonesia, bất chấp thành tích vi phạm nhân quyền dày cộm của nhóm này. Nguyên nhân của sự thay đổi này là Washington muốn có Indonesia đứng về phía họ trong khi Trung Quốc ngày càng trở nên hùng mạnh, và như tờ New York Thời báo tường trình, giới chức Indonesia “để lộ gợi ý rằng nhóm lực lượng đặc biệt này có thể khai thác và tạo dựng liên kết với quân đội Trung Quốc nếu Hoa Kỳ vẫn duy trì cấm vận họ.”

Là quốc gia nằm án ngữ trong vùng eo biển trọng yếu Malacca và rất lo ngại về sức mạnh ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc, Singapore tha thiết muốn nâng cấp mối quan hệ vốn dĩ đã rất gần gũi với Hoa Kỳ. Nhằm đạt được mục đích đó, vào cuối thập niên 1990, Singapore đã cho xây dựng Căn cứ Hải quân Changi để hải quân Hoa Kỳ có thể triển khai tàu sân bay đến Singapore nếu có yêu cầu. Và một quyết định mới đây của Nhật Bản cho phép lực lượng Thủy quân Lục chiến tiếp tục ở lại căn cứ Okinawa là do xuất phát từ quan ngại của Tokyo đối với thái độ hung hãn của Trung Quốc trong khu vực, đồng thời do nhu cầu liên đới muốn duy trì vững vàng cái ô dù an ninh của Mỹ trên đầu Nhật Bản. Đa số những quốc gia lân bang của Trung Quốc hiển nhiên sẽ tham gia liên minh đối trọng do Hoa Kỳ lãnh đạo được hoạch định để kiểm soát sự trỗi dậy của Trung Quốc, rất giống cách thức Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, và ngay cả Trung Quốc, liên kết lực lượng với Hoa Kỳ để ngăn chặn Liên bang Sô-viết suốt thời gian Chiến tranh Lạnh.

Tôi xin thảo luận chi tiết hơn điều tôi nghĩ như thế nào về sự trỗi dậy của Trung Quốc đặc biệt ảnh hưởng tới Australia ra sao. Australia có được ưu thế do vị trí địa lý của mình mang lại là điều quá hiển nhiên không gì phải bàn cãi; Australia nằm cách rất xa Trung Quốc và hai quốc gia bị chia cắt bởi những vùng biển mênh mông. Australia, hiển nhiên, phải đối mặt với một tình thế tương tự, ý tôi muốn nhắc tới trường hợp Đế quốc Nhật, giúp giải thích tại sao quân đội Nhật đã không xâm lăng Australia khi nó hoành hành khắp khu vực châu Á-Thái Bình Bương vào tháng 12 năm 1941.

Có người đánh liều cho rằng nhờ vị trí địa lý cách biệt như thế nên Australia ít lo sợ Trung Quốc và do thế nó có thể yên tâm đứng ngoài cuộc trong khi liên minh đối trọng liên kết với nhau để kiềm chế Trung Quốc. Thực ra, Bạch thư 2009 nêu lên khả năng “một chính quyền Australia bất kỳ có thể có quan điểm cho rằng trung lập về quân sự là giải pháp tối ưu cho mục đích bảo toàn an ninh quốc gia và lãnh thổ.” Điều này sẽ không bao giờ xảy ra, bởi vì Trung Quốc – nếu vẫn tiếp tục trỗi dậy nhanh chóng – hiển nhiên sẽ phô diễn cho Australia thấy mối đe dọa trầm trọng đến mức khiến Australia không còn cách nào khác là phải tham gia vào liên minh do Mỹ cầm đầu để kiềm chế Trung Quốc. Tôi xin nêu lên ba điểm để củng cố cho lập luận này.

Trước nhất, xin lưu ý rằng lúc này đây chúng ta không nói tới mối đe dọa gây ra bởi lực lượng quân sự hiện thời của Trung Quốc, mà thực ra nó chưa có nhiều khả năng khiển khai lực lượng tầm xa và cũng chưa phải là mối nguy hiểm ghê gớm cho những quốc gia lân bang trong vùng. Chúng ta đang nói tới việc dân chúng Australia sẽ nghĩ như thế nào về một Trung Quốc trải qua hai thập kỷ nữa với mức tăng trưởng kinh tế thật ấn tượng và sẽ sử dụng nguồn tích sản giàu có dư thừa đó để xây dựng một quân đội với trang bị vũ khí tối tân tinh vi thượng thặng. Chúng ta đang nói tới một quân đội Trung Quốc đang tiến gần đến tầm mức có thể kèn cựa với quân đội Hoa Kỳ trên khía cạnh phẩm chất của vũ khí. Một quân đội Trung Quốc như thế nên có hai ưu điểm quan trọng thắng lướt đối thủ Hoa Kỳ. Nó phải lớn, có lẽ phải lớn hơn rất nhiều, bởi vì dân số của Trung Quốc sẽ tối thiểu lớn hơn gấp ba lần dân số Hoa Kỳ vào thời điểm giữa thế kỷ này. Hơn thế nữa, Hoa Kỳ sẽ ở vào thế rất bất lợi trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc, bởi vì quân đội của Hoa Kỳ phải triển khai quân qua hơn 6,000 dặm trên đại dương, trong khi đó quân đội của Trung Quốc chỉ hoạt động trong sân sau của mình. Tóm lại, Trung Quốc có khả năng có một tiềm lực quân sự tấn công mạnh hơn nhiều vào năm 2030 so với hiện nay 2010.

Thứ nhì, mặc dù đế quốc Nhật đã không thực hiện cuộc tấn công gồm thủy và bộ lên Australia vào năm 1942, nó đã nghiền ngẫm nghiêm túc phương án đó, và đã quyết định hủy bỏ nó không chỉ bởi vì những khó khăn hiện hữu trong việc triển khai, mà còn vì Nhật đã nghĩ họ có một giải pháp chiến lược thay thế để xử lý với Australia. Đặc biệt là, Nhật đã nghĩ rằng nó có thể sử dụng tầm kiểm soát của nó ở Tây Thái Bình Dương để cô lập và trung lập hóa Australia. Mặc dù chiến lược đó đã thất bại, chúng ta cũng không nên bỏ qua sự kiện rằng đế quốc Nhật đã là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với Australia. Đó chính là lý do tại sao Australia đã hăng hái chiến đấu sát cánh với Hoa Kỳ trong Đệ nhị Thế chiến.

Thứ ba là, những chiến lược gia Trung Hoa đang rất chú ý đến Australia trong những năm tới, chủ yếu là vì dầu hỏa. Việc lệ thuộc vào dầu nhập khẩu của Trung Quốc, hiện đã rất đáng kể, sẽ gia tăng rất lớn trong vài thập kỷ tới. Phần lớn số dầu nhập khẩu đó là từ vùng Trung Đông và hầu hết phải được vận chuyển về Trung Quốc bằng đường biển. Khi bàn đến việc vận chuyển dầu hỏa bằng ống dẫn hoặc bằng tàu lửa qua ngả Miến Điện và Pakistan, một thực tế hiển nhiên là vận chuyển biển vẫn là chọn lựa dễ dàng và rẻ hơn rất nhiều. Và hiển nhiên người Trung Hoa thấu hiểu được điều đó và đó là một trong những lý do họ triển khai kế hoạch xây dựng lực lượng hải quân biển xanh. Họ muốn có khả năng để bảo vệ những tuyến đường biển lưu thông giữa họ và Trung Đông.

Trung Quốc đối mặt với những trở ngại địa lý lớn trong việc đảm bảo an toàn cho những tuyến đường biển đó; điều này mang những hàm ý rất có ý nghĩa đối với Australia. Đặc biệt, có ba luồng biển chính nối Biển Đông với Ấn Độ Dương. Mặt khác, nhiều quốc gia Đông Nam Á khác nhau đang phân chia hai vùng biển lớn trong những số đó. Điều này có nghĩa là Trung Quốc bắt buộc phải có đường vào bất cứ lúc nào tối thiểu một trong các vùng biển đó nếu Trung Quốc hy vọng muốn có khả năng kiểm soát những tuyến đường biển của họ nối liền với vùng Trung Đông giàu dầu hỏa. Tàu thuyền của Trung Quốc có thể đi qua eo biển Malacca, bao quanh bởi Indonesia, Malaysia, và Singapore, hoặc là chúng có thể đi xa hơn xuống phía nam rồi đi qua một trong hai ngả là eo biển Lombok hoặc eo biển Sunda, cả hai đều cắt xuyên qua Indonesia, và cả hai đều đưa quí vị ra tới những vùng biển mênh mông của Ấn Độ Dương, mà lại chỉ ở ngay phía tây bắc của Australia.

Trung Quốc, tuy nhiên, chắc không thể dàn xếp ổn thỏa vụ eo biển Malacca thông qua một cuộc đối đầu với Hoa Kỳ, bởi vì Singapore, là một đồng minh thân cận của Washington, án ngữ ngay tại eo biển này. Đây là điều mà những chiến lược gia Trung Hoa gọi là “cái tiến thoái lưỡng nan Malacca.” Do vậy, Trung Quốc có sự thôi thúc mạnh mẽ để đảm bảo tàu thuyền của họ luôn có thể lưu thông qua hai cửa ngõ chính băng ngang qua Indonesia.

Tình huống này hầu như có nghĩa chắc rằng Trung Quốc sẽ duy trì sự hiện diện quân sự đáng kể tại những vùng biển ngoài khơi bờ biển phía bắc của Australia và có lẽ ngay cả trong lãnh thổ của Indonesia. Trung Quốc chắc chắn rất quan ngại tới những khả năng triển khai sức mạnh tầm xa của Australia, và sẽ làm mọi cách để đảm bảo chúng không thể được dùng để ngăn chặn hai eo biển Lombok và Sunda hoặc đe dọa hoạt động vận tải biển của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương. Những bước đi mà Trung Quốc thực thi để vô hiệu hóa mối đe dọa mà Australia tạo ra cho những tuyến đường biển của họ - và xin hãy nhớ rằng, chúng ta đang nói đến một Trung Quốc hùng mạnh gấp bội lần hơn Trung Quốc hiện tại – chắc chắn sẽ đẩy Canberra đến gần và liên minh với Washington để kìm hãm Trung Quốc. Nói tóm lại, có một số giới hạn nghiêm trọng đối với mức độ như thế nào cái ưu thế địa lý có thể che chở cho Australia khỏi một Trung Quốc bành trướng.

Bức tranh tôi vừa vẽ lên cho quí vị thấy tối hôm nay về những gì có thể xảy ra nếu Trung Quốc tiếp tục có tốc độ phát triển kinh tế ấn tượng như hiện nay quả thật không phải là bức tranh đẹp. Mà thực ra, đó là bức tranh u ám đáng buồn. Tôi những ước gì mình có thể trình bày được một câu chuyện lạc quan hơn về những ngưỡng vọng hòa bình trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhưng thực tế vấn đề chính trị thế giới là một công việc xấu xa và nguy hiểm và không một mảy may thiện chí nào có thể cải thiện được cuộc cạnh tranh gay gắt về an ninh mà đang hiện hình rõ nét khi một quốc gia bá chủ đầy khát vọng xuất hiện trong vùng lục địa Âu Á. Và không hoài nghi chút nào có một quốc gia bá chủ như thế đang lấp ló ở chân trời.

Xin cám ơn tất cả quí vị.

..................................................................................
Giáo sư John Mearsheimer, hiện giảng dạy tại Đại học Chicago, là một trong những nhà tư tưởng táo bạo và gây nhiều tranh cãi nhất Hoa Kỳ trong lãnh vực quan hệNhững nhà vận động hành lang Do Thái và chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ do ông và Stephen Walt thuộc Đại học Harvard đứng tên đồng tác giả làm dấy lên những cuộc tranh luận nảy lửa, và đã được dịch sang 17 thứ tiếng.

Nguồn: “Fourth Annual Michael Hintze Lecture in International Security Wednesday 4th August 2010”