"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Samstag, 13. November 2010

Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản (phần 1)

Một trang nhất báo Le Paria (Người cùng khổ) của đảng Cộng sản Pháp.
Một trang nhất báo Le Paria (Người cùng khổ) của đảng Cộng sản Pháp.
 
Thụy Khuê, RFI
 
Bất cứ một người có suy nghĩ nào, khi đọc cuốn Hồ Chí minh toàn tập cũng phải hồ nghi về xuất xứ các văn bản in trong tập sách nhiều nghìn trang này. Vậy sự vơ vét liều lĩnh các văn bản khác nhau của những người viết khác nhau vào một toàn tập của một tác giả mà học sinh phải học như kinh điển, là đáng ngại. Vì vậy, vấn đề tái tạo lại các tác giả ký tên Nguyễn Ái Quốc là cốt tử. Bởi nền giáo dục của chúng ta cần được xây dựng trên một nền tảng lành mạnh không ngụy tạo.


Hồ Chí Minh toàn tập, 12 cuốn (nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000), 8410 trang, gồm:
- 80 % diễn văn, công văn chính thức, do các bí thư viết, văn phong thay đổi tùy theo sách lược chính trị mỗi thời và bút pháp từng người.
- 5% chú thích.
- 15% còn lại là văn bản (gần 1000 trang). Khoảng một nửa là bút hiệu Nguyễn Ái Quốc. Nửa kia gồm những bài viết ngắn, đăng trên báo ở Việt Nam, dưới những bút hiệu C.B (tập 7 và tập 8), Trần Lực (tập 9 và 10), và Chiến Sĩ (tập 11). Theo Bùi Tín, C.B là viết tắt của hai chữ Của Bác. Loạt bài này phản ảnh một tư chất: thực tiễn, ngắn gọn, dễ hiểu, không lý thuyết, không lý luận, không khôi hài, có lẽ đó mới đích thực là văn viết của Hồ Chí Minh.

Bài Việt nam yêu cầu ca, có thể xem là bài thơ đầu tay, phản ánh lối làm thơ nôm na của ông, sau này ông còn làm nhiều bài khác, cùng phong cách: thơ chúc Tết, thơ Trung thu và thơ ngâm vịnh, in trong văn thơ Hồ Chí Minh, và in lại trong tập 3.

Khoảng 500 trang (469 trang tập 1 và và 239 trang tập 2) là dịch những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc/Quấc, trên báo Pháp từ 1919 tới 1927. Bản dịch, đôi khi chưa lột hết cá tính của nguyên bản, nhưng cũng làm lộ phẩm chất, tư tưởng, lòng ái quốc và chí khí của người viết.

Vậy có thể nói, chính bút hiệu Nguyễn Ái Quấc/Quốc đã xác định "tư tưởng Hồ Chí Minh".
Bút hiệu được viết dưới hai dạng Nguyễn Ái Quấc, trong thời gian đầu, sau này có lẽ Nguyễn Thế Truyền đổi lại là Nguyễn Ái Quốc. Chúng tôi dùng cả hai cách viết.

 Bài này có hai mục đích:
- Truy nguyên lai lịch bút hiệu Nguyễn Ái Quấc.
- Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc

 
I. Lai lịch bút hiệu Nguyễn Ái Quấc
 
Muốn truy nguyên lai lịch này, chúng ta phải trở lại sự thành lập nhóm Người An Nam yêu nước.

1- Sự thành lập nhóm Người An Nam yêu nước
 
Xin tóm tắt một số dữ kiện chính:
Phan Văn Trường sang Pháp cuối 1908, dạy ở trường Sinh ngữ Đông phương và học Luật. 1912, ông lập hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité des compatriotes).
Phan Châu Trinh và con trai Phan Châu Dật, rời Sàigòn tháng 5/1911. Đến Paris, thời gian đầu ở nhà trọ (pension de famille) sau đổi sang ở hôtel. Dật học một trường ở khu Montparnasse. Tháng 4/1913, Phan Châu Trinh ở hôtel rue de l'Abbé-de-l'Epée, Paris 5e. Tháng 10/1913, ở khách sạn rue Cujas, Paris 5e. Khoảng 1913-1916, Phan Văn Trường có appartement nhỏ ở rue Bertholet, Paris 5e; ông giữ địa chỉ này, trong thời gian nhập ngũ và bị tù.

Tháng 10/1912 Phan Châu Trinh (với sự giúp đỡ của Phan Văn Trường) gửi bản thỉnh nguyện lên hội Nhân quyền, nhờ can thiệp vào việc trả tự do cho các nhân sĩ bị bắt cùng với Phan Châu Trinh, năm 1908 trong vụ Trung Kỳ dân biến (tài liệu đăng trong Bulletin Officiel de la Ligue des droits de l'homme et du citoyen, số 20, ngày 31/10/1912). Hai người bị buộc tội chống Pháp, lần đầu.  Vì hoạt động của hội Đồng bào thân ái, Phan Văn Trường bị mất việc dạy học, anh và em của ông ở Hà Nội bị bắt, bị đầy sang Nouvelle-Calédonie.

Ngày 13/3/1914, Phan Văn Trường diễn thuyết về đề tài Les revendications indigènes (Những thỉnh nguyện của người bản xứ) tại trường Cao Đẳng Xã Hội (Ecole des Hautes Études Sociales), bài nói chuyện này là nguồn cội của bản Thỉnh nguyện của Dân tộc An Nam (Revendications du Peuple Annamite, gửi Hội nghị hoà bình thế giới ở Versailles, năm 1919.

Đại chiến thứ nhất bùng nổ, tháng 7/1914 Phan Văn Trường bị gọi đi lính, đóng ở trung đoàn 102 bộ binh, tại Chartres. Giữa tháng 8/1914, appartement của ông ở rue Bertholet, Paris bị an ninh lục soát, nhiều giấy tờ và tài liệu bị tịch thu, trong đó có bài diễn văn đọc tại trường Cao đẳng xã hội. Ngày 12/9/1914, ông bị hiến binh bắt, giam vào nhà tù Chartres. Cùng thời gian này, Phan Châu Trinh bị bắt ở Paris, có lẽ tại khách sạn đường Cujas.

Ngày 13/9/1914, Phan Văn Trường bị giải lên Toà án binh Paris, bị giam vào binh ngục Cherche- Midi, Paris 6e. Phan Châu Trinh bị giam vào ngục Santé, Paris 13e. Tội danh: Xúi giục sinh viên du học căm thù chính phủ Pháp, tụ tập thành hội, gieo mầm nổi loạn. Cả hai bị giam đến tháng 7/1915 mới được thả. Trong thời gian này Thiếu Tá Roux hết sức bênh vực cho Phan Châu Trinh và luật sư Marius Moutet, cho Phan Văn Trường, được tại ngoại. Hội Đồng Bào Thân Ái phải giải tán.

Ra tù, Phan Châu Trinh bị cắt trợ cấp, phải học nghề rửa ảnh, sống ở Paris và Pons (vùng Charente-Maritine, gần Đại Tây Dương). Phan Văn Trường được chuyển xuống Arsenal de Toulouse (Công binh xưởng Toulouse) làm việc văn phòng và thông ngôn cho lính và thợ Việt. (Trong thế chiến có khoảng 80.000 người Việt sang Pháp làm lính thợ).

Từ 1916 đến 1920, Nguyễn Thế Truyền học kỹ sư ở Toulouse. Rất có thể Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền đã bí mật lập hội Người An Nam yêu nước trong thời gian này. 1918, Nguyễn An Ninh sang Pháp học luật tại Sorbonne. Trong khoảng tháng 5 hay tháng 6/1919, Nguyễn Tất Thành từ Luân Đôn qua Paris.

2- Hoạt động của Phan Văn Trường tại Công binh xưởng Toulouse
 
Ra tù, Phan Văn Trường tiếp tục là phần tử "nguy hiểm", luôn luôn bị theo dõi. Mật thám dò hỏi người concierge (giữ nhà) về mọi hoạt động, giao du của ông. Trong thời gian ở Toulouse, ông đổi nhà 2 lần, đều ở Rue du Taur. Tháng 9/1917, nhân việc ông dịch đơn xin hồi hương cho một người thợ, bộ thuộc địa mở cuộc điều tra. Viên sĩ quan phụ trách tìm cách ép những người lính thợ phải khai rằng chính Phan Văn Trường đã "chủ mưu xúi giục" họ viết đơn xin giải ngũ.

Thực ra, Phan đã dựa trên sự kiện: chính quyền thuộc địa dán áp-phích quảng cáo khắp nơi rằng đi chỉ một năm rồi về, để khuyến dụ mọi người "tình nguyện" đi lính. Nhưng lần này Phan Văn Trường không bị bắt, một phần vì Thiếu tá chỉ huy trưởng Malacamp có thiện cảm, và nhất là nhờ những người lính thợ, không những không khai mà còn nói chính ông ấy đã ngăn cản chúng tôi nộp đơn xin giải ngũ! [Une histoire de conspirateurs annamites à Paris (Chuyện những người An Nam âm mưu tại Paris), hồi ký của Phan Văn Trường, L'insomniaque, 2003, trang 170-171].

Sự kiện này cho thấy tinh thần tương trợ của đồng bào và nói lên bộ mặt chìm của ăng- kết: Bộ thuộc địa nghi ngờ hoạt động bí mật của nhóm Phan Văn Trường tại Công binh xưởng Toulouse, nên họ muốn diệt trừ.
Vậy hoạt động của Phan Văn Trường tại đây là gì?

Một mật báo, không ghi rõ ngày, viết : "Hội những người An Nam yêu nước đã được thành lập từ nhiều năm nay do hai nhà cách mạng chống Pháp là Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh. Đó là một nhóm hoạt động rất tích cực. Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia. Vào năm 1915, tuy Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường vẫn giữ vai trò lãnh đạo hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã là do chính Nguyễn Ái Quốc." (Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông Nam Á, Paris, 1983, trang 44)

Trong mật báo này có 2 câu đáng chú ý :
- Câu "Vào năm 1915, tuy Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường vẫn giữ vai trò lãnh đạo hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã là do chính Nguyễn Ái Quốc." Câu này có chỗ sai, vì năm 1915 Nguyễn Tất Thành chưa sang Paris, và chưa chắc đã có tên Nguyễn Ái Quấc trên báo. Nhưng cũng có thể đúng, nếu thám tử coi Nguyễn Ái Quấc là Nguyễn Thế Truyền hay một người nào khác.
- Câu: "Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực". Câu này, nếu đúng, nó xác định hoạt động và mối liên lạc giữa Phan Văn Trường với binh lính, sĩ quan Việt, từ tháng 7/1915 đến tháng 5/1919, tại Toulouse. Trụ sở hội ở đâu, không thấy nói rõ, có thể là nhà Phan Văn Trường, phố Taur, hoặc một nơi khác.

Họ gặp nhau để làm gì?
Phan Văn Trường trong hồi ký chỉ viết về việc ông bị theo dõi, bị nghi "oan" vì đã dịch thư xin hồi hương cho một đồng bào, mà không hở chút gì về hoạt động của ông. Lý do dễ hiểu: hồi ký Phan Văn Trường đăng từng kỳ trên báo La Cloche Fêlée, từ 30/11/1925 đến 15/3/1926, chủ đích "vạch trần chính sách thực dân" nên không phải việc gì cũng "công bố" được.

Về tội xúi giục binh lính Việt xin hồi hương, chắc không oan, có thể Phan Văn Trường đã vận động một phong trào phản chiến trong lòng những sĩ quan và binh lính Việt. Việc họ đòi hồi hương, theo đúng hạn kỳ một năm mà chính phủ Pháp đã hứa hẹn, là đúng luật. Việc này Phan còn làm lại lần thứ nhì, trên báo L'Annam ở Sàigòn năm 1926, kêu gọi lính Việt ở Trung Hoa, ngừng chiến đấu cho Pháp, và lần thứ hai này ông bị bắt, bị kết án cùng với một số tội trạng khác, phải sang Pháp tự biện hộ, nhưng vẫn bị tù (1929).

Một mặt khác, khi đọc toàn bộ những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc và hai tác phẩm Bản Án chế độ thực dânĐông Dương (1923-1924), chúng ta có thể hiểu được hoạt động của nhóm Yêu nước tại Toulouse: Nội dung tố cáo tội ác thực dân một cách xác thực, toàn diện và ghê gớm, chứa đựng trong toàn bộ các văn bản ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc này, cho chúng thấy đây là một công trình dài hơi đã được thu thập tài liệu một cách quy mô trong một thời gian dài, trước khi các tác giả chấp bút. Vì vậy thời gian Phan Văn Trường ở Toulouse có thể là thời gian hình thành cuộc cách mạng bằng ngòi bút trên báo chí từ 1919 trở về sau.

Từ 1915 đến 1819, tại Toulouse, nhóm Yêu Nước đã tập hợp tài liệu và nhân chứng để chuẩn bị cho cuộc tranh đấu công khai bằng ngòi bút:

1- Hàng ngày tiếp xúc với lính thợ và sĩ quan Việt, Phan Văn Trường đã thu thập những nhân chứng quan trọng về chính sách dã man của thực dân. Đó là kho lưu trữ lớn nhất, gồm những thông tin từ hai phía: phía chính quyền, qua hồ sơ quân đội Pháp mà Phan có thể tiếp cận được và phía nạn nhân, qua những điều mà người lính thợ Việt nam kể lại với ông.
2- Phan Châu Trinh có những thông tin từ những người Việt sang Pháp, đem lại.
3- 1918, Nguyễn An Ninh từ Sàigòn sang (trước khi đi Pháp, Ninh đã ra Hà Nội học hai năm). Ông biết rõ tình hình cả Bắc lẫn Nam. Sau này, ông còn về nước nhiều lần.
4- Nguyễn Thế Truyền sau khi học xong ở Toulouse, cũng về Bắc một năm, từ tháng 8/1920 đến tháng 8/1921, trong thời gian này, ông quan sát và đã thấy hiệu lực của phong trào: tên Nguyễn Ái Quấc được người Việt trong nước thần thánh hoá (ông kể lại trong bài "Một người Bôn-Sê-Víc da vàng"). Khi trở lại Paris, Nguyễn Thế Truyền mở rộng địa bàn tranh đấu trên tờ le Paria của hội Liên hiệp thuộc địa, cùng các nhà văn, nhà báo Châu Phi, Madagascar. Tại trụ sở báo Le Paria, Nguyễn Thế Truyền thu thập thêm thông tin các nơi, qua nhân chứng của bạn đọc ở các thuộc địa gửi về toàn soạn.

Tất cả những dữ kiện đó, tạo ra một ngân hàng thông tin, mà các tác giả sử dụng để viết những bài báo, đúng ra là những bản cáo trạng, phơi bày sự thật về chính sách thực dân tại Đông Dương, dưới một bút danh bí mật Nguyễn Ố Pháp, rồi Nguyễn Ái Quấc.
 
Khi viết về thời kỳ lịch sử này, phần lớn, nếu không muốn nói là hầu hết các nhà nghiên cứu Pháp-Việt đều coi Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc là ba nhân vật chính. Điều đó không sai. Nhưng sự sai lầm đến từ sự kiện Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc, tác giả các bài báo. Sở dĩ có sự sai lầm này, vì ba nguyên do sau đây:

1- Hồ Chí Minh tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và chế tạo các bằng chứng để biện minh điều đó.
2- Sau khi thua trận, người Pháp có mặc cảm tự ti đối với Hồ Chí Minh, mặc cảm này dường như đã thấm vào vô thức của nhiều người, kể cả các nhà nghiên cứu. Vì vậy, dù họ có đặt ra một số nghi vấn về tác giả Nguyễn Ái Quốc (cũng như trường hợp Thu Trang-Gaspard trong cuốn Hồ Chí Minh à Paris), nhưng rồi vẫn mặc nhiên kết luận Nguyễn Ái Quốc là Hồ Chí Minh. Hiện tượng này chứng tỏ có một khuynh hướng cho rằng ai viết thì cũng thế thôi, nhưng nếu lãnh tụ vĩ đại viết thì mới đáng kể. Nhưng đối với người Việt, dưới vấn đề văn bản, còn cả một sự ngụy trang lịch sử không thể bỏ qua.
3- Sự nhầm lẫn của các nhà nghiên cứu, còn đến từ một sự kiện khác: việc sử dụng những báo cáo sai lầm của mật thám. Sự kiện này cần phải nói rõ.

3- Sự nhầm lẫn của mật thám
 
Chính quyền thuộc địa dùng nhiều mật thám người Việt, để dễ len lỏi vào môi trường Việt kiều. Những người có bí danh như Jean (theo dõi Nguyễn Tất Thành) hay Désiré (theo dõi Nguyễn Thế Truyền) đều là người Việt. Trong số mật thám có cả các quan: Đốc Phủ Bảy là một trường hợp. Mật thám Nguyễn Như Chuyên là "sinh viên", gần gụi Phan Châu Trinh, thông dịch cho ông, thư từ trao đổi "tâm huyết" trong nhiều năm, được ông coi như đồ đệ. Chuyên cũng mon men đến với Phan Văn Trường. Ông Trường là người cực kỳ thận trọng, đã cảnh cáo nhưng ông Trinh không nghe. Trong hồi ký, ông Trường trách ông Trinh "khinh xuất" là như thế. Chính Nguyễn Như Chuyên đã mạo khai để Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt về tội "phiến loạn", bị đi tù 11 tháng (1914-1915).

Pháp dùng mật thám theo dõi các thân chủ của Phan Văn Trường, dọa họ, nếu cứ tiếp tục mượn Phan Văn Trường (một kẻ phiến loạn, chống nhà nước Pháp) biện hộ, thì có ngày sẽ mang họa. Phan Văn Trường nêu những vụ việc này trên bức thư ngỏ gửi Bộ Trưởng Nội Vụ và Thuộc Điạ, đăng trên báo Le Paria.

Tuy vậy, mật thám vẫn có thể đưa những thông tin sai lầm.

Cuốn Cochinchine (Nam Kỳ) (Rieder, 1926, Viviane Hamy, 1997) của nhà văn Léon Werth là một tác phẩm văn học giá trị, nói lên sự khâm phục kín đáo của tác giả đối với Nguyễn An Ninh và mô tả tỷ mỷ đời sống hàng ngày ở Nam kỳ dưới sự áp bức của bọn thực dân vô giáo dục lên một dân tộc có truyền thống văn hóa lâu đời nhưng cam chịu. Léon Werth kể lại một giai thoại: hai mật thám người Việt có nhiệm vụ theo dõi Nguyễn An Ninh ở Sàigòn, nhưng thay vì theo Ninh, họ lại theo Dejean de la Bâtie (Chủ nhiệm báo La cloche fêlée, người Pháp lai, bạn của Nguyễn An Ninh). Khi Werth và Ninh rời Sàigòn đi Lục tỉnh, họ vẫn tiếp tục theo dõi La Bâtie và làm báo cáo hàng ngày. Đến lúc cơ quan an ninh ở Rạch Giá đánh điện lên, Sàigòn mới biết là nhầm, hình như hai người này bị đuổi! (Cochinchine, trang 156)

Vấn đề theo dõi Nguyễn Ái Quốc, còn phức tạp hơn nhiều. Vì những lý do:

1- Người Pháp (và người Tây phương nói chung) thường gọi Họ thay Tên. Vì vậy, đối với người Pháp, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Ái Quấc, đều có thể là M. Nguyễn.

2- Thời gian đầu, mật thám chưa phân biệt được 3 người họ Nguyễn: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành. Vì vậy, có một số mật báo hoàn toàn trái ngược nhau, ví dụ tả Nguyễn Ái Quốc là người miền Nam (Nguyễn An Ninh), học ở Pháp từ nhỏ (Nguyễn Thế Truyền), có người nhầm Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Như Chuyên (kẻ theo dõi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường)... Đến khi chụp được ảnh Nguyễn Tất Thành, đưa cho những người đã đi theo những Nguyễn khác, xem, thấy không phải. Lúc đó mới vỡ lẽ.

3- Chính bộ ba Truyền, Ninh, Thành cũng tung hoả mù: Truyền và Ninh cố tình giao các văn bản họ viết cho Thành đem khoe với mật thám rằng mình vừa viết xong. Vì thế, từ cuối năm 1919, đã có những bản báo cáo ghi rõ: Nguyễn Ái Quốc vừa viết xong cuốn sách này, cuốn sách kia...

Việc vở kịch Le dragon de bambou (Rồng tre), là một ví dụ, có thể Truyền (hay Ninh) viết, rồi đưa Thành đem đến cho Léo Poldès, người điều khiển các buổi tranh luận ở Câu lạc bộ Ngoại ô (Club du Faubourg), nơi mà Nguyễn Tất Thành, từ khi ở Compoint, hay đến để tập nói tiếng Pháp giữa công chúng. Léo Poldès đọc thích quá, ông nhận xét về vở kịch như sau: "Hoàn chỉnh, hóm hỉnh, đối thoại hài hước quất vun vút như roi, sống động như lối khôi hài của Aristophane (Kịch tác gia danh tiếng của Hy Lạp)" Và ông giúp việc dựng vở kịch (được trình diễn một lần ở hội L'Humanité năm 1922).

4- Trong số những mật báo, có một bản viết ngày 28/11/1919, mô tả khá đúng Nguyễn Tất Thành như sau:
"Chúng tôi thấy ở Paris có một người An Nam hình như gốc Bắc, tự nhận là Nguyễn Ái Quốc. Hắn giấu kỹ danh tánh thật. Chính hắn đã ký những bản truyền đơn đòi tự trị ở Đông Dương. Hắn ở số 6, villa des Gobelins, nhà luật sư Phan Văn Trường, hắn chuyên về vấn đề chính trị và cả ngày ở thư viện Quốc gia, phố Richelieu, thư viện Sainte-Geneviève, Place du Panthéon, ở văn phòng Hội Nhân Quyền, phố L'Université, hoặc nậm nọa với bọn khả nghi cùng chủng loại.
Hắn thư từ với Phan Châu Trinh ở Pons, Phan Văn Trường và Khánh Ký hiện đang ở Mayence. Tình báo cho biết tại nhà số 6 Villa des Gobelins bọn An Nam có khi tụ họp tới 1 giờ sáng, cãi nhau ỏm tỏi đến nỗi láng giềng phải than phiền. (...) Các thám tử của ta theo dõi rất sát tên được gọi là Nguyễn Ái Quốc, một người đã kết thân được với hắn, sớm muộn gì rồi hắn cũng sẽ thổ lộ cho biết danh tánh thật". (Thu Trang- Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 82-83).

Theo Phan Văn Trường, nhà ông lúc nào cũng có vài người canh gác bên kia đường (Villa des Gobelins là một ngõ cụt nhỏ, immeuble khang trang). Vậy "tìm thấy" Tất Thành ở số 6 Villa des Gobelins là đương nhiên, Thành nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, cũng đương nhiên. Ninh, Truyền chắc chỉ đến họp, như những người khác. Sự tranh luận sôi nổi có thể là về đề tài những bài báo sẽ viết. Thời điểm ấy, nhiều người đến thư viện, vì không có tiền mua than củi để sưởi ở nhà, rất dễ nhầm người này với người kia.

5- Một năm sau, ngày 12/10/1920, Tổng Thanh Tra Pierre Guesde viết bài tổng kết gửi lên Bộ trưởng, tình hình vẫn còn hết sức lộn xộn:

"Paris ngày 12 tháng 10 năm 1920
Thưa ông Bộ trưởng,
(...) Trước hết, Nguyễn Ái Quốc, giấu danh tánh thật của y. Y không muốn bị lộ tung tích; y đã đổi tên nhiều lần khi di chuyển từ nơi này đến nơi khác, cái tên Nguyễn Ái Quốc hiện nay chỉ đánh lừa được kẻ không biết tiếng An nam; Nguyễn Ái Quốc có nghiã đơn thuần là "Nguyễn yêu nước".
Tất cả mọi cố gắng đều dồn vào việc điều tra hộ tịch của Quốc. Những người chỉ điểm An Nam và các thanh tra an ninh đều bắt tay vào việc và trao đổi thường xuyên với Đông Dương.
Những thông tin do Cảnh Sát Cuộc (Préfecture de Police) cung cấp chẳng có gì chính xác (...) Trong buổi nói chuyện với ông Thanh Tra Cảnh Sát Trưởng, tôi đã thông báo là ông Toàn quyền Đông dương rất có lý khi nhấn mạnh đến việc cần xác định danh tánh Quốc. Tôi còn nói thêm: "Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là người An Nam. Có thật thế không? Ai chứng tỏ điều đó? Y nói rằng y không có giấy tờ nào do nhà cầm quyền Đông Dương cung cấp. Y xen vào chính trị, trà trộn vào những nhóm chính trị, phát biểu trong những buổi hội họp cách mạng, và chúng ta không biết rõ đối thủ là ai! (...)"

Sau buổi tôi nói chuyện cùng ông Thanh Tra, Nguyễn Ái Quốc bị gọi đến Cảnh Sát Cuộc. Người ta đã chụp hình và hỏi cung y. Việc này xẩy ra ngày 20 tháng 9 [1920]. Những câu trả lời của Quốc được lưu trữ trong biên bản đính kèm. Y vẫn khăng khăng nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Chúng ta chắc chắn đó là lời mạo nhận.
Trong tình trạng hiện nay của ăng-kết, với những thông tin tiếp được từ Đông Dương, tôi nghĩ có thể xác định rằng Nguyễn Ái Quốc chẳng qua là tên Nguyễn Tất Thành, kẻ đã ở An Nam năm 1908, trong khi xẩy ra bạo loạn, và đã ở Anh trước khi đến Pháp. Mà Nguyễn Tất Thành được coi là kẻ phiến động nguy hiểm.
Ngay từ ngày 25/7/1919, qua điện tín số 1791, chính phủ Đông Dương đã thông báo rằng một bản thỉnh nguyện có ẩn ý, gửi từ Paris, hôm 18/6, cho nhiều tờ báo ở Thuộc địa, dưới cái tựa "Những thỉnh nguyện của dân tộc An nam". Bản thỉnh nguyện này, trước tên ký, có ghi: Thay mặt nhóm người An Nam yêu nước: Nguyễn Ái Quốc" (...)

Nguyễn Ái Quốc đã liên kết với nhiều phần tử cách mạng ở Pháp và ở ngoại quốc. Y giao thiệp cùng lúc với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ ở Pháp và những kẻ cách mạng Trung hoa, Triều tiên, Nga, Ái nhĩ lan, v.v... Y phát biểu trong những buổi diễn thuyết của đảng Xã hội, đáng chú ý là hôm 1 tháng 5 vừa qua [1/5/1920] và trong những cuộc đình công khác nhau. Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương. Chúng tôi đã có được bản cóp-pi những đoạn chính của cuốn sách này. Tài liệu đính kèm.

Những bài báo phát xuất từ Nguyễn Ái Quốc và đồng bọn được đón nhận khá tốt trong một loại báo (đặc biệt báo L'Humanité). Chúng ta thấy những bài ký tên y trong những báo khác nhau, đặc biệt trong tờ L'Humanité ngày 2/8/1919, và trong tờ Le Populaire ngày 4 và 14/10/1919. Y ở số 6, villa des Gobelins, Paris, trong một nhà lầu (immeuble) do Phan Văn Trường thuê (Phan Văn Trường là một trong những tay phiến động nguy hiểm nhất hiện đang ở Đức cùng với Khánh Ký và François Albert, tất cả đều là bạn Nguyễn Ái Quốc cũng như Phan Châu Trinh thường trực ở nhà Nguyễn Ái Quốc và hiện đang ở đây luôn). Kèm đây là lá thư của Nguyễn Ái Quốc gửi cho M. Outrey, từ Biarritz, ngày 16/10/1919, cho thấy ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về chính phủ ta như thế nào. Nhóm cách mệnh bao gồm những phần tử chính người An Nam mà tên vừa kể trên đây, tuyên bố rằng muốn ở lại Âu Châu để gặp dịp, sẽ hoàn toàn tự do vạch ra, những sai lầm của nhà cầm quyền Pháp và phụng sự lợi ích An Nam ngõ hầu đạt được càng sớm càng tốt: Sự tự chủ của Đông Dương (...) Ta có thể xác định rằng Phan Văn Trường là kẻ thông minh nhất và quỷ quyệt nhất trong nhóm. Nguyễn Ái Quốc là thư ký và là người cho Phan Văn Trường mượn tên"(...) (Carton 87, S. III, Thu Trang - Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 107-108)

Trong bản tường trình này, ông Tổng thanh tra bị rối loạn thông tin vì những báo cáo sai lầm:
- Người mà thám tử thấy viết sách, giao thiệp với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ và diễn thuyết liên miên, năm 1920, là Nguyễn An Ninh. Nguyễn Tất Thành mới học tiếng Pháp, là sao diễn thuyết được? Nhất là câu: "Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương" thì đúng là Nguyễn An Ninh, và chắc là cuốn La France en Indochine.
- Lá thư gửi từ Biarritz cho M. Outrey cũng là Nguyễn An Ninh (sẽ phân tích sau).
- Xét về cách viết tiếng Pháp, ông thanh tra thấy Nguyễn Ái Quốc là người... Pháp.
- Người ở nhà Phan Văn Trường đúng là Nguyễn Tất Thành. Có thể lúc đó Nguyễn An Ninh cũng ở nhà Phan Văn Trường (chúng tôi không tìm được thông tin gì về chỗ ở của Nguyễn An Ninh tại Paris).
- Thám tử bị rơi vào bẫy của nhóm Ngũ Long: ba người viết, một người khác nhận là tác giả.

Nhưng viên Tổng Thanh tra Pierre Guesde cũng rất tinh tường:
- Một mực không tin Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Tất Thành.
- Đọc văn, ông đoán đây là người Pháp viết tiếng Pháp. Đặc biệt ông chú ý đến những bài quan trọng: Bài La question des indigènes en Indochine (Vấn đề dân bản xứ ở Đông dương) do Phan Văn Trường viết. Bài L'Indochine et la Corée; une intéressante comparaison (Đông dương và Triều tiên, một sự so sánh lý thú) và bài Lettre à Monsieur Outrey (Thư gửi ông Outrey), do Nguyễn An Ninh viết.
- Ông xác định Phan Văn Trường là người nguy hiểm nhất.

Tóm lại, tới tháng 10/năm 1920, Pierre Guesde vẫn cho Nguyễn Ái Quốc là tên giả của Phan Văn Trường. Và khi Nguyễn Tất Thành đã đi Nga, Tổng Thanh Tra Pierre Guesde vẫn tiếp tục xác định Nguyễn Ái Quốc không phải là Nguyễn Tất Thành, nhưng ông không tìm ra Nguyễn Ái Quốc là ai.

4- Nguyễn Tất Thành trở thành Nguyễn Ái Quấc và xin vào hội Tam Điểm, tại sao?
 
Khi Nguyễn Tất Thành đến Paris khoảng tháng 6/1919, hội nghị Hoà bình đã họp từ tháng 1/1919. Hội nghị Hoà Bình, khai trương ngày 18/1/1919, mục đích xây dựng lại những quốc gia Âu Châu mới sau thế chiến. Nhóm An Nam yêu nước muốn lợi dụng tình hình quốc tế thuận lợi, để xác định sự hiện diện của Việt nam, đất nước đã mất chủ quyền và có thể họ cũng đã thảo luận với đại biểu các nước khác trong hậu trường của Hội nghị, trước khi tung ra bản Thỉnh Nguyện.

Bản Thỉnh nguyện hoàn tất. Tại sao Phan Văn Trường lại giao cho Nguyễn Tất Thành đem đến Versailles, mà không giao cho một người khác? Lý do đơn giản: Nguyễn Tất Thành là khuôn mặt "mới toanh", vừa chân ướt chân ráo đến Paris, chưa bị mật thám bao vây, dễ vào hội nghị. Lần xuất hiện đầu tiên này, không ai biết Nguyễn Tất Thành là ai.

Nguyễn Tất Thành, xa nước quá lâu, sống vất vả ở trên tàu, rồi biệt lập ở Luân Đôn, mới sang Pháp, không có đủ điều kiện thông tin về tình hình trong nước, lại không đủ kiến thức và Pháp văn, nên chỉ có thể giữ vai trò khiêm tốn: học Pháp văn, giữ sổ sách, tập viết mấy dòng tin tức, in và phát truyền đơn. Nhưng vì muốn trở thành chính khách, Nguyễn Tất Thành nhận tên Nguyễn Ái Quấc. Việc đưa bản Thỉnh nguyện đến Versailles là chặng đầu.

Xin vào hội Tam Điểm, là chặng thứ nhì. Việc này chắc chắn do sự sắp đặt của Phan Văn Trường (có lẽ Phan Văn Trường cũng có chân trong Hội Tam Điểm), vì Nguyễn Tất Thành mới tới Paris, không thể biết rõ về hội Tam Điểm.
- "Tháng 8/1919, Quốc đệ đơn xin vào nhóm Ernest Renan trong hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie), 16 Rue Cadet, nhưng không được." (Brocheux, Ho Chi Minh, trang 110)
- Ngày 14/6/1922, Nguyễn Ái Quốc được kết nạp vào hội Tam Điểm. (Thu Trang, Phan Châu Trinh, trang 193).
Tháng 8/1919, người ta chưa biết Nguyễn Tất Thành là ai. Tam Điểm từ chối.
Tháng 6/1922, (ba năm sau) Tất Thành đã thành danh Nguyễn Ái Quốc. Tam Điểm mời vào.

Nhưng chỉ được vài tháng, Nguyễn Ái Quốc bỏ Hội Tam Điểm, vì sao?
Tam điểm là một hội kín, có truyền thống lâu đời trên thế giới, dựa trên nguyên tắc cao quý "Thân ái (Fraternité) giữa người và người". Nhưng trên thực tế, hội quy tụ những phần tử ưu tú của xã hội, có thể nắm vận mệnh các dân tộc. Người làm chính trị vào hội Tam điểm để được bảo vệ khi gặp bất trắc.

Có thể Phan Văn Trường môi giới cho Thành vào hội khi mới tới Paris, vì ông tin tưởng ở tương lai người thanh niên nhiệt tình này, và muốn có một thế lực hậu thuẫn Tất Thành. Nhưng khi Nguyễn Ái Quốc được vào hội rồi, có thể vì không chịu nổi không khí trí thức trưởng giả và bị áp lực của đảng cộng sản, nên ít lâu sau, bỏ hội Tam Điểm.

Việc Tất Thành có giấy mời đi dự hội nghị Tours của đảng Xã hội Pháp, cuối năm 1920, chắc cũng do Phan Văn Trường xếp đặt, vì lúc đó Nguyễn Thế Truyền đang ở Việt nam.

Giới chính khách và trí thức Pháp không dễ thâm nhập, phải là bạn ngồi cùng ghế đại học với họ, hoặc có danh, hoặc có tài. Họ có thể tranh đấu cho cần lao, nhưng họ không làm bạn với những người cần lao, ít học. Một nghịch lý nhưng là sự thật. Vừa đến Paris, làm thợ rửa ảnh, tiếng Pháp mới học, làm sao Nguyễn Tất Thành có thể gặp người này, người kia, trong chính giới của Pháp, nếu không được một trí thức (như Phan Văn Trường) giới thiệu, và được "biết đến" qua các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc? Nhờ những yếu tố này, Tất Thành mới có thể được chấp nhận trong môi trường chính trị cánh tả của Pháp.

(Xin xem tiếp phần thứ hai : Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quấc/Quốc)