Trước
cuộc Quốc Hội khóa 13 đã khai mạc kỳ họp thứ hai vào hôm thứ Năm ngày
20/10, ba tháng sau kỳ họp đầu tiên bầu lãnh đạo và nội các mới, Nguyễn
Tấn Dũng đã đọc một bài diễn văn dài về tình hình Kinh tế Việt Nam và
thú nhận rằng “Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô trở thành thách thức
lớn”. Những điểm nguy cơ của Kinh tế được tóm tắt như sau: “Kinh tế
vĩ mô chưa ổn định, lạm phát và lãi suất cao, nợ xấu của ngân hàng tăng,
dự trữ ngoại tệ thấp, áp lực phá giá tiền đồng còn lớn; chứng khoán và
bất động sản đều đi xuống trong khi tình hình sản xuất, kinh doanh còn
rất khó khăn.”
Cái
tình trạng ấy là hậu quả của chủ trương Độc tài Chính trị nắm Độc quyền
Kinh tế đã kéo dài trong suốt 20 năm gọi là Phát triển Kinh tế mà Nhà
Nước “kiên trì “ chủ đạo Kinh tế theo quyết định mới đây nhất của Đại
Hội đảng. Hôm 30/9, tờ Thời báo kinh tế Việt Nam dẫn lời nhà kinh tế kỳ
cựu Lê Đăng Doanh, nguyên cố vấn kinh tế của chính phủ, rằng kinh tế
Việt Nam đang trong tình hình tồi tệ nhất trong vòng 20 năm qua.
Đối
với khối đại đa số dân chúng, ngay cả đối với 98% công chức thiếu ăn vì
vật giá tăng vọt dù họ đã được tăng lương 8 lần rồi, vấn đề không phải
là chỉ thú nhận một tình trạng tụt dốc Kinh tế, mà phải đền cái tội làm
cho Kinh tế đi đến chỗ phá sản. Tỉ dụ đối với vụ Vinashin mất USD.4.4
tỉ, không thể tuyên bố mất trắng số tiền khổng lồ đó là đủ, mà phải lôi
ra những người trách nhiệm, mà Nguyễn Tấn Dũng đứng đầu, để đền cái tội
mất tiền cũng như phải tìm ra và đòi lại số tiền đó đang cất giấu ở đâu.
Tình trạng tụt dốc, nguy cơ Kinh tế Việt Nam ở những phương diện chủ chốt nào ?
Chính
Nguyễn Tấn Dũng nhắc ra trước Quốc Hội về những phương diện chủ chốt
cho một nền Kinh tế. Chúng tôi lần lượt nói đến những phương diện này và
tác hại sẽ ra sao để thấy rằng phần “Chỉ tiêu năm 2012 “ mà Dũng hứa trước Quốc Hội chỉ là hứa cuội để những Nghị gật mơ tưởng. Những phương diện chủ chốt ấy được tóm tắt:
“Kinh tế vĩ mô chưa ổn định (1), lạm phát và lãi suất cao (2), nợ xấu
của ngân hàng tăng (3), dự trữ ngoại tệ thấp (4), áp lực phá giá tiền
đồng còn lớn (5), chứng khoán và bất động sản đều đi xuống (6), trong
khi tình hình sản xuất, kinh doanh còn rất khó khăn (7)”
1) Lạm phát 23% cao nhất Á châu
Theo
Bản Tin của Bloomberg ngày 08.07.2011, thì Ngân Hàng Thế Giới đã cảnh
cáo Việt Nam về độ tăng Lạm phát “không thể tha thứ“ được (intolerable):
“The
World Bank last month described price gains in Vietnam as “intolerable”
and had called upon policy makers to maintain tight monetary conditions
until inflation is sustainably below 10 percent.”
(Tháng
vừa rồi, Ngân Hàng Thế giới đã vạch rõ vật giá leo thang ở Việt Nam như
điều “không thể tha thứ “ và đã kêu gọi những người hữu trách hoặch
định Kinh tế phải xiết chặt những điều kiện tiền tệ cho đến khi nào Lạm
phát có thể chịu đựng nổi bên dưới 10%”
Ngày 04.07.2011, CREDIT SUISSE tiên đoán việc Lạm phát sẽ tăng vọt trong năm 2012:
“The
State Bank of Vietnam said it lowered the rate to 14 percent from 15
percent effective today, according to an e- mailed statement.”
“The State Bank of Vietnam on July 4 lowered its repurchase rate to 14 percent from 15 percent.”
“Vietnamese
inflation will be higher next year than previously forecast as a result
of a central bank rate cut this week that was “premature” and may
confuse investors, Credit Suisse Group AG (CSGN) said.”
(Ngân
Hàng Nhà Nước Việt Nam tuyên bố hạ Lãi suất xuống 14% từ 15% có hiệu
lực từ ngày hôm nay, theo khẳng định trong một E-mail.
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã hạ Lãi suất vào ngày 04.07 từ 15% xuống 14%.
Lạm
phát Việt Nam sẽ tăng cao hơn nữa so với ước tính trước đây do hậy quả
của việc hạ Lãi suất của ngân hàng trung ương tuần này, việc này được
coi như “sinh non“ và có thể làm hỗn loạn những người đầu tư, Credit
Suisse Group (CSGN) đã tuyên bố như vậy)
2) Nợ xấu của ngân hàng tăng
Tình
trạng nợ xấu này là nợ từ những Tập đoàn Kinh tế Nhà nước, từ những
Tỉnh thi nhau thực hiện Dự án để có cơ hội ăn bẩn, cắt xén công quỹ. Như
vậy, nợ xấu ở đây là NỢ CÔNG. Việt Nam đang đi đến khủng hoảng nợ công
vừa cao vừa ăn quỵt nợ.
Theo
các số liệu do Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại ( Bộ Tài chính )
công bố vào đầu tháng 7/2011, nợ công của Việt Nam- bao gồm vay của nước
ngoài lẫn trong nước- năm 2010 là 56,7% tổng sản phẩm nội điạ GDP và
theo dự kiến, năm nay sẽ tăng lên thành 58,7% GDP.
Hiện
giờ, nhìn lại những năm gần đây, món nợ công đã tăng nhanh một cách
đáng ngại, khoảng 25% tính từ năm 2007 đến cuối năm 2011, tức là trung
bình tăng 5% mỗi năm. ( Số liệu Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia: nợ
công 2007:33,8% GDP, 2008: 36,2% GDP, 2009: 41,9%, 2010: 56,7% GDP và
2011 dự báo 58,7% GDP ). Nợ công tăng nhanh trong bối cảnh mà ngân sách
của Việt Nam luôn bị thâm hụt, buộc chính phủ phải vay nợ thêm, cho nên
nợ nần sẽ chồng chất, lãi mẹ đẻ lãi con.
Trong
thời gian qua, nhiều chuyên gia đã lên tiếng khuyến cáo chính phủ về
nguy cơ nợ công vượt khỏi tầm kiểm soát. Trả lời phỏng vấn tờ Thanh Niên
đầu tháng 10 vừa qua, tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc nghiên cứu của
Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright, giải thích rằng nguyên nhân
khiến tỷ lệ nợ công ngày càng tăng là do “tỷ lệ đầu tư của VN trong
những năm qua trung bình từ 40-42% GDP, trong đó khu vực công chiếm
khoảng 45%. Tỷ lệ đầu tư lớn, tăng liên tục nhiều năm trong khi ngân
sách luôn ở tình trạng thâm hụt “báo động đỏ” (trên 5% GDP) khiến chính
phủ phải đi vay nợ. “
Tiến
sĩ Nguyễn Quang A, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Hà Nội, nhấn mạnh
rằng, tốc độ tăng nhanh của nợ công Việt Nam là dấu hiệu đáng ngại: “Nói
rằng nợ công dưới 60% GDP là an toàn, thì tôi không nghĩ là như vậy.
Bởi vì tỷ lệ nợ công có thể thấp hơn mức đó mà không có khả năng trả nợ,
tức là có khả năng vỡ nợ, thì như thế là không an toàn. Còn cho dù nó
có lên tới 80% GDP mà có khả năng trả nợ thì cũng không sao. Tức là phải
xét khả năng trả nợ, bởi vì những khoản vay là có thời hạn. Với tình
trạng nợ công gia tăng nhanh như vậy, đó là một lời cảnh báo rất nghiêm
túc đối với chính phủ là phải hết sức thận trọng với nợ công. Trong bối
cảnh mà Hy Lạp, rồi Ý bị hạ mức tín nhiệm và nợ của chính phủ các nước
trong Liên Hiệp Châu Âu đang lan sang hệ thống ngân hàng, chính phủ Việt
Nam càng cần phải lưu ý."
Trong
bài phỏng vấn với Thanh Niên, tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh lưu ý rằng nợ
công của Việt Nam chỉ là nợ của chính phủ, trong khi theo thông lệ quốc
tế, nợ công phải bao gồm cả nợ của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN ), nhất
là ở Việt Nam nợ của DNNN có quy mô xấp xỉ với nợ của chính phủ, nên
càng không được loại nó ra khỏi nợ công.
Theo
tiến sĩ Nguyễn Quang A: Nếu tính các khoản vay của ngân hàng Việt Nam
và của ngoại quốc thì con số có thể lên rất cao. Còn nếu tính toàn bộ nợ
của chính phủ trung ương, các chính quyền địa phương, những khoản do
Nhà nước bảo lãnh, những khoản của các doanh nghiệp quốc doanh, thì tỷ
lệ không còn là năm mươi mấy phần trăm GDP nữa."
Theo
tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, nợ công của Việt Nam hiện có nhiều rủi ro: “
Rủi ro lớn nhất xuất phát từ việc chi tiêu và đầu tư công kém hiệu quả.
Rủi ro thứ hai là một bộ phận rất lớn nợ công của các DNNN chưa được đưa
vào trong các thống kê về nợ công. Khi không đo lường được và không
hiểu hết “tảng băng chìm” này, thì cũng không thể quản lý rủi ro mà nó
có thể gây ra. Rủi ro thứ ba là nợ công tăng quá nhanh, trong khi thâm
hụt ngân sách luôn ở mức rất cao. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản
của quản lý nợ công, đó là nợ ngày hôm nay phải được trang trải bằng
thặng dư ngân sách ngày mai. Ở Việt Nam còn có một vấn đề nữa, mà có lẽ
cũng gần giống như ở Trung Quốc, tức là chi tiêu công có phần của chính
phủ trung ương và phần của các chính phủ địa phương. Có lẽ phải xem xét
lại việc phân cấp như thế nào để làm sao có thể kiểm soát được, chứ nếu
không, 61 tỉnh thành mà đều nợ tùm lum thì rất là nguy hiểm. Tỷ lệ nợ
của các chính quyền địa phương thường là cao hơn trung ương. Đó là những
căn bệnh đã xảy ra rất nhiều ở Việt Nam. Tỉnh nào cũng có cảng, tỉnh
nào cũng muốn xây sân bay, trong khi chỉ cách nhau chưa tới 100 cây số!
Làm như thế thì thật vô cùng lãng phí “
Trên
tờ Tiền Phong , số ra vào đầu tháng 10, chuyên gia kinh tế Bùi Kiến
Thành cũng cảnh báo là “nợ công tăng cao mà không có khả năng trả nợ thì
có thễ dẫn đến vỡ nợ như Hy Lạp bây giờ”. Ông Bùi Kiến Thành nhấn mạnh :
“ Ở Việt Nam đang có vấn đề cực kỳ nghiêm trọng, đó là nạn tham nhũng
và rút ruột các công trình đầu tư từ nợ công”. Chuyên gia kinh tế này
cho biết, theo báo cáo của Quốc hội, công trình nào cũng bị rút ruột 5,
10, 20%, thậm chí đến 30% !
Mặt
khác, ông Bùi Kiến Thành lưu ý là báo cáo của Phòng thương mại và công
nghiệp cho thấy là 30% doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ phá sản và
50% doanh nghiệp gặp khó khăn. Ông đặt câu hỏi: “ Nếu tình hình kinh tế
đình đốn như thế này thì lấy đâu ra nguồn thu để trả nợ công?”
Trong
khi đó nhiều tập đoàn Nhà nước lại đang trong tình trạng báo động về
nợ. Tờ Dân Trí, số ra tháng 9 vừa qua, có trích dẫn dự thảo báo cáo của
Đảng ủy khối doanh nghiệp Trung ương về tình hình 8 tháng đầu năm 2011
của các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thuộc khối này. Kết quả cho
thấy là chỉ trong 8 tháng đầu năm, nhiều đơn vị đã lỗ tới hàng nghìn tỷ
đồng như Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN, Vinashin, Petrolimex… Đứng đầu
là EVN nợ gần 11,7 nghìn tỷ đồng.”
Nguyễn
Tấn Dũng, Thủ tướng, phải chịu trách nhiệm của tình trạng nợ công mà
không có khả năng thanh trả này của Chính phủ, của hệ thống Dịa phương,
của những Tập đoàn Kinh tế quốc doanh.
3) Dự trữ ngoại tệ thấp
Theo
tuyên bố của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF/FMI) vào tháng 4 năm 2011, dự trữ
ngoại tệ của Việt Nam chỉ còn đủ nhập siêu không tới một tháng rưỡi. Sở
dĩ dự trữ ngoại tệ xuống thấp như vậy là vì những Tập đoàn Kinh tế nhà
nước đã không sản xuất những linh kiện cần thiết tại chính trong nước,
mà chỉ mua những linh kiện từ nước ngoài về để ráp nối. Một số những Tập
đoàn sản xuất, thay vì sản xuất, lại mua hàng có sẵn từ nước ngoài về
để bán lại. Họ trở thành những Tập đoàn phấn phối, nhất là hàng hóa
Trung quốc, thay vì sản xuất lấy. Nhập siêu còn là cơ hội để tham nhũng
bằng tăng giá để mua.
4) Áp lực phá giá tiền đồng
Tiền
ĐỒNG là tiền độc tài do quyền lực Chính trị quyết định. Ai áp lực để
phá giá đồng tiền ? Chính là Chính phủ, để tiếp tục các Tập đoàn Kinh tế
nhà nước, để có thể trả lương công chức, quân đội, công an, vì bệnh
thành tích muốn có độ tăng trưởng Kinh tế cao, đã tự mình phá giá tiền
tệ bằng bơm tiền mới vào lưu hành.
Ngày
16.09.2011, theo bản tin trên báo Thanh Niên, Ngân Hàng Nhà Nước Việt
Nam sẽ bơm thêm vào thị trường tài chính 300,000 tỉ đồng để các ngân
hàng thương mại có thể cho vay với tổng số tiền lên đến 59,500 tỉ đồng
một tháng. Lạm phát tại Việt Nam cứ tháng sau cao hơn tháng trước vì tín
dụng cấp phát bừa bãi cho các công ty quốc doanh và kinh tài đảng đoàn.
Lạm phát tháng 8, 2011 lên đến 23.20%, cao thứ nhì trên thế giới nhưng
cao nhất tại Á Châu.
Xin đọc:
VIỆT NAM BƠM 300 NGÀN TỶ ĐỒNG VÀO THỊ TRƯỜNG
Chính
quyền độc tài, trong hoàn cảnh bí lối về ngân sách, thường sử dụng biện
pháp phá giá đồng tiền. Đây là quyết định ăn cướp tiết kiệm của dân.
Giáo sư Florin AFTALION là người quan sát và kinh nghiệm về những nước
bắt đầu phát triển vào những năm 1980, thời kỳ mà Lạm phát Tiền tệ ở Phi
Châu và Nam Mỹ lên tới 1000%. Về phương diện Nhà Nước độc tài ra lệnh
cho phá giá Tiền tệ để xẩy ra Lạm phát phi mã, Giáo sư Florin AFTALION
đã quá kinh nghiệm với những chính quyền tại các nước đang phát triển,
nhất là những chế độ độc tài
”...
dans les pays en développement le controle de la création monétaire est
le plus souvent entre les mains du pouvoir politique, et non de banques
centrales indépendantes. L’inflation est un moyen de fiancement très
commode. Elle est apprécìee par les hommes politiques dans la mesure òu
elle permet à court terme d’accorder les hausses de salaires et des
subventions, de mettre de l’huile dans les rouages.” (LE MONDE Mercredi
31.10.2007, page 2)
(...
tại những nước đang phát triển, việc kiểm soát phát hành tiền tệ thường
nằm trong tay của quyền lực chính trị, và không ở những ngân hàng trung
ương độc lập. Lạm phát là một cách thế tài trợ rất thuận tiện. Nó được
ưa chuộng bởi những người làm chính trị ở phương diện nó cho phép trong
ngắn hạn tăng lương và trợ cấp các Công ty, cho phép bỏ dầu vào guồng
máy.)
5) Chứng khoán đi xuống
Bản Tin của FreeVietNews ngày 07.09.2011 đã nói về tình trạng sụp đổ của Thị trường Chứng khoán Việt Nam như sau:
Ngay
trong tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam tụt điểm liên tục và
không có khả năng gượng dậy, nhiều chuyên gia kinh tế cho biết dấu hiệu
của một thời kỳ sụp đổ đang tới. Một trong những lý do quan trọng là
việc thiếu minh bạch trong báo cáo tài chính của các công ty tham gia và
cách quản lý thị trường yếu kém của các nhà quản lý Cộng Sản Việt Nam.
Dự kiến, nếu các sàn chứng khoán trong nước bị sập, dẹp, thì quả là kinh
tế Việt Nam bị thụt lùi 20 năm.
Gần
đây, một trong những vụ phá sản lớn của doanh nghiệp Nhà nước là Công
ty Dược Viễn Đông đang kéo theo bao nhà đầu tư mất trắng. Nhưng đó chỉ
là một trong hàng trăm trường hợp từ đầu năm đến nay. Các công ty thanh
tra tài chính buộc phải ghi rõ trong các báo cáo về nghi vấn của họ là
chẳng có xứ nào mà Kế toán trưởng lại lương cao như tại Việt Nam, có
nhiều cổ phiếu, và giàu có như tại Việt Nam. Ở Việt Nam, vào được chức
vụ kế toán này rất khó, vì phải biết làm giả các con số, lừa gạt các
công ty audit, chạy vay tiền ngân hàng và xã hội đen, biết cách hối lộ
cho Thuế vụ, Hải quan để giảm thuế, lừa gạt cổ đông nhẹ dạ…
Hầu
hết các công ty, ngân hàng đều giấu nhẹm sự thật là họ đã thất bại và
lỗ lã thế nào. Việc hào nhoáng bên ngoài của thị trường chứng khoán Việt
Nam hiện nay giống như một cái bẫy để rút ruột những cổ đông có tiền
nhưng thiếu thông tin. Gần đây, 1 chi nhánh của Agribank, môt trong
những hệ thống ngân hàng lớn nhất của Việt Nam, bị phát hiện ra rằng đã
lỗ đến 3000 tỉ đồng Việt Nam, trong khi 2 năm qua (đây là 2009 mà thôi,
chưa tính 2010, 4 tháng đầu 2011) họ vẫn luôn thông báo về những mức lời
lớn, làm hoa mắt không ít nhà đầu tư.
Theo
hồ sơ mật của Ủy ban chứng khoán Việt Nam, thì có ít nhất là 8 trên 10
ngân hàng Việt Nam đã hoàn toàn phá sản lúc này, tức là tổng tài sản
disposable của họ không bằng số họ nợ người gởi vào. Những sự hỗn loạn
của ngân hàng Việt Nam đang hiện ra rất rõ. Tuy nhiên, nếu như các Ngân
hàng có sụp đổ đi chăng nữa, các quan to chức lớn không sao cả, vì họ đã
"tự thưởng" cho họ các món tiền khổng lồ, Tết năm nay họ lãnh mỗi người
bạc tỉ đồng là chuyện thường. Chỉ có dân chúng mang họa, hiện nay, nếu
1/3 số người dân đang gởi tiền ngân hàng quyết định rút ra, thì các ngân
hàng sẽ bị sập ngay tức khắc.
Một
kịch bản bí mật chuẩn bị để cứu thị trường chứng khoán Việt Nam đã được
Nhà nước Cộng Sản Việt Nam chuẩn bị. Một quan chức ngân hàng giấu tên
cho biết, giả sử dân chúng bất tín vào hệ thống ngân hàng và quyết định
rút ra. Chính quyền Cộng Sản Việt Nam sẽ bung một lượng tiền lớn ra cứu,
và như vậy lại gây lạm phát nặng nề. Thảm trạng này sẽ đánh thẳng vào
túi tiền của mọi người dân, và khi đó, chỉ có dân chúng là người sẽ phải
chịu hậu quả kinh khủng nhất.(SBTN)”
Thêm
vào tình trạng sụp đổ này, đó là khủng hoảng tài chánh đang làm Hoa kỳ,
Liên Au điêu đứng, nghĩa là Thị trường Chứng khoán Việt Nam không còn
vốn nước ngoài vào mua nữa.
6) Tình hình sản xuất, kinh doanh rất khó khăn.
Viết về Lạm phát, vật giá tăng vọt tại Việt Nam, chúng tôi luôn luôn tìm thấy ba lý do chính:
Lý
do thứ nhất là Lãnh vực Kinh tế thực: các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh
yếu kém hiệu lực sản xuất. Vì yếu kém sản xuất, nên đồng vốn rót vào
không tương xứng, nghĩa là số vốn không có tương đương hàng hóa, dịch
vụ. Do đó vật giá tăng lên.
Lý
do thứ hai là Nhà Nước, để giữ thể diện, thành tích của các Tập đoàn
quốc doanh, nên càng đổ thêm vốn vào. Số vốn thêm mà sản xuất không có
hiệu lực, thì vật giá tăng, lạm phát nhẩy vọt.
Lý
do thứ ba là khi Nhà Nước đổ vốn ra hoài, nên cạn kiệt, đành phải phá
giá đồng bạc bằng cho vào lưu hành tiền mới in ra. Đây là lạm phát hoàn
toàn về lãnh vực Tiền tệ.
Trở
lại tình trạng yếu kém hiệu lực sản xuất của những Tập đoàn Kinh tế
quốc doanh, chúng tôi muốn trích dẫn chính những nhận định của Tiến sĩ
LÊ ĐĂNG DOANH.
Trong
bài Phỏng vấn do Ký giả Mặc Lâm thực hiện, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đã
khẳng định một câu then chốt kết án cả một hệ thống Tập đoàn nhà nước,
đó là việc yếu kém hiệu năng của những Tập đoàn này:
“Hiện
nay tình trạng chi tiêu kém hiệu quả và đầu tư kém hiệu quả ở Việt Nam
là tương đối nghiêm trọng và công luận cũng đã chỉ ra rất là nhiều công
trình sau khi vừa mới cắt băng khánh thành xong thì đã hư hỏng và không
bảo đảm các tiêu chuẩn như là đã có cam kết”.
Kém hiệu năng có nghĩa là phía Lượng Hàng hóa, Dịch vụ trao đổi giảm xuống. Điều này làm cho Lạm phát, vật giá tăng .
Cái
hiệu năng thuần túy Kinh tế được đo bằng Độ lớn rộng của Biên độ Lợi
nhuận (Marges Bénéficiaires) chứ không phải Tổng lượng bán hàng. Trong
Thế giới cạnh tranh hiện nay, nhất là Việt Nam đã vào WTO /OMC, việc
cạnh tranh ở Thị trường rất xít xao đến nỗi các Công ty tham dự khó lòng
tăng giá bán để Tổng lượng bán hàng tăng lên cao. Theo Kinh tế gia Paul
SAMUELSON, Giáo sư Kinh tế Havard và Nobel Kinh tế, thì Biên độ Lợi
nhuận (Marge Bénéficiare) đi đến triệt tiêu trong lâu dài ở Thị trường
cạnh tranh.
Vì
vậy, để có thể có được Biên độ Lợi nhuận nới rộng, các Công ty đặt
trọng tâm ở việc quản trị Giá thành thấp xuống, chứ không phải ở chỗ
tăng Giá bán. Chính vì điểm quan trọng là quản trị Giá thành mà các Tập
đoàn quốc doanh có những sai lỗi, yếu kém không thể chữa trị được. Nó
thuộc vào Cơ chế CSVN. Những Tập đoàn quốc doanh phạm vào việc quản trị
Giá thành yếu kém sau đây:
* Cơ sở Tập đoàn đồ sộ tốn kém, thiết bị sản xuất quá mức sánh với hàng
hóa, dịch vụ cung cấp. Tất cả để lấy cái danh cho Tập đoàn chứ không
theo chỉ tiêu Kinh tế. Đây là Chi tiêu cố định (Charges fixes) quá quan
trọng sánh với lượng hàng hóa hay dịch vụ sản xuất. Chi tiêu cố định là
những Chi tiêu giết chết xí nghiệp (Les Charges fixes sont des charges
qui tuent l’Entreprise)
* Về những Linh kiện và Nguyên vật liệu, thì phần lớn lại nhập cảng từ
nước ngoài khiến Giá thành tăng lên cao, và do đó làm giảm Biên độ Lợi
nhuận.
* Lý do quan trọng hơn cả là Tham nhũng và Lãng phí mỗi khi xây Cơ sở hay
mua thiết bị, mua những Linh kiện hay Nguyên vật liệu. Những người
trách nhiệm Tập đoàn nhằm có những mua bán để Tham nhũng và Lãng phí.
Đây là việc dễ dãi có vốn và không bị kiểm soát gắt gao từ Nhà Nước vì
cùng đảng bao che cho nhau, hay chia phần tham nhũng, lãng phí cho nhau.
Những
lý do thiếu hiệu năng trong quản trị chi tiêu không những làm tăng Lạm
phát, mà còn đang dẫn nền Kinh tế quốc doanh đến phá sản như tình trạng
hiện nay.
7) Tình trạng phá sản Ngân Hàng
Đây
là điểm mà Nguyễn Tấn Dũng không dám nói trước Quốc Hội. Nhưng nếu các
phương diện thuộc Kinh tế đang tụt dốc như Nguyễn Tấn Dũng đã liệt kê
ra, thì hậu quả sẽ làm cho hệ thống Ngân Hàng phá sản.
Thực
vậy, câu nói của Nguyễn Tấn Dũng “Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô trở
thành thách thức lớn” có nghĩa là Kinh tế Việt Nam tụt dốc, đang trong
thời kỳ Khủng hoảng trầm trọng.
Cuộc
Khủng hoảng Tài chánh/ Kinh tế Thế giới năm 2008, bắt đầu bằng NỢ TƯ,
đã làm giới Ngân Hàng điêu đứng, thậm chí phá sản như Lehman Brothers.
Cuộc Khủng hoảng NỢ CÔNG Hoa kỳ và Liên Au năm 2011 đang đi đến mất mát
lớn cho các ngân hàng, thậm chí Ngân Hàng DEXXIA đã vỡ nợ.
Tình trạng NỢ CÔNG tại Việt Nam mà không hoàn trả được tất nhiên sẽ làm một số Ngân Hàng phá sản.
Theo nhận định FITCH mà RFI (Thụy My) loan tin (http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20111010-fitch-cac-ngan-hang-viet-nam-can-tiep-tuc-tang-von
), thì các ngân hàng lớn của Việt Nam đang có nguy cơ bị lỗ nặng, và
nhất thiết phải tiếp tục tăng vốn. Trên đây là nhận định của cơ quan
thẩm định tài chính Fitch được đưa ra hôm nay 10/10/21011. Tổng lượng
tín dụng của các ngân hàng Việt Nam hiện nay tương đương 120% tổng sản
phẩm nội địa, tính đến cuối năm 2010.
Trong
bản thông báo, cơ quan thẩm địn tài chính Fitch cho là « Các nỗ lực
hiện nay nhằm tăng vốn của các ngân hàng chủ chốt ở Việt Nam là tích
cực, vì hiện nay vốn của các ngân hàng này chưa đạt yêu cầu » so với tỉ
lệ trong khu vực.
Tuy
vậy theo Mikho Irawady, một nhà phân tích của Fitch, thì cho dù tăng
trưởng tín dụng năm 2010 đã chậm lại, và đã được bơm thêm vốn, nhưng «
Một lượng vốn dự phòng cao hơn là hết sức cần thiết, trước khả năng bị
thất thoát vốn, và các kế hoạch phát triển trong tương lai ».
Tổng
lượng tín dụng của các ngân hàng Việt Nam hiện nay tương đương 120%
tổng sản phẩm nội địa, tính đến cuối năm 2010. Đây là tỉ lệ cao đối với
một nước đang phát triển. Nhà phân tích trên nói thêm: «Điều này sẽ
làm chất lượng cổ phiếu của các ngân hàng có nguy cơ bị sa sút và nếu
tình hình chung đang khó khăn, thì sẽ tồi tệ hơn».
Hồi
cuối tháng 9, Ngân hàng Nhật Mizuho Corporate Bank đã loan báo mua lại
15% vốn của Vietcombank, tức Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng
lớn nhất trên thị trường chứng khoán trong nước. Các chuyên gia lo ngại
rằng số nợ xấu của các ngân hàng có thể cao hơn con số chính thức.
Phải
đối mặt với nạn lạm phát hiện ở mức 22%, cộng với thâm hụt thương mại
12,4 tỉ đô la năm ngoái, và đồng tiền quốc gia liên tục mất giá, chính
quyền Việt Nam đành từ bỏ mục tiêu tăng trưởng kỳ vọng. “
KẾT LUẬN
của chúng tôi: cái nguyên do cốt lõi của “Nguy cơ mất ổn định kinh tế
vĩ mô trở thành thách thức lớn” mà Nguyễn Tấn Dũng long trọng xác nhận
trước Quốc Hội, đó là cái CƠ CHẾ CSVN hiện hành chủ trương Độc tài Chính
trị nắm Độc quyền Kinh tế để các đảng viên CSVN THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ,
cướp của chung thành của riêng, tạo nên lớp TƯ BẢN ĐỎ giầu nứt khố và
quần chúng nghèo kiết xác.
Phải
DỨT BỎ CÁI CƠ CHẾ CSVN hiện hành để phát triển Kinh tế do dân, cho dân
và vì dân trong một Môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ phù hợp.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 26.10.2011
Web: http://VietTUDAN.net