Quỳnh Chi, RFA
Ngày 14 tháng 3 năm 1988 đã xảy ra trận chiến đẫm máu giữa hải quân Việt Nam và Trung Quốc tại Gạc Ma, Trường Sa.
Trận chiến kết thúc, hải quân Việt Nam chỉ có chín người sống sót. Từ
đó, Gạc Ma được cho là đã thuộc về Trung Quốc. Bối cảnh và diễn biến
cuộc chiến tại Gạc Ma như thế nào? Mời quý vị nghe chính người lính năm
xưa kể chuyện của họ.
Tay không bảo vệ tổ quốc
Từ đầu năm 1988, Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng tại một số bãi đá
thuộc quần đảo Trường Sa, cũng như đưa lực lượng của hai hạm đội xuống
khu vực này. Nhận thấy tình hình có thể diễn biến phức tạp, Bộ tư lệnh
hải quân Việt Nam ra lệnh cho xây dựng và bảo vệ đảo tại Gạc Ma, Cô Lin
và Len Đao bởi vì các đảo này có vị trí quan trọng trong tuyến đường
tiếp tế của Việt Nam cho các căn cứ khác tại Trường Sa. Chiến dịch này
còn được biết đến với tên gọi CQ-88, tức Chủ quyền 88.
Bắt đầu ngày 12 tháng 3 năm 1988, ba chiếc tàu vận tải của Lữ đoàn
125 mang số hiệu HQ-604, HQ-605 và HQ-505 mang theo một số phân đội của
Trung đoàn công binh 83 và Lữ đoàn 146 đến các đảo này. Ba con tàu neo
tại 3 đảo, với nhiệm vụ “Xây dựng và bảo vệ đảo”. Tuy nhiên, giao tranh
chủ yếu diễn ra ở Gạc Ma. Đó cũng là một cuộc chiến đẫm máu nhất trong
chiến dịch CQ-88.
Con tàu HQ-604 chở khoảng 74 chiến sĩ, đa phần là công binh có nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ đảo Gạc Ma. Trước khi đi, tất cả các chiến sĩ đều
được quán triệt là bảo vệ tổ quốc nhưng không nổ súng. Anh Nguyễn Văn
Thống cho biết “Bên mình lúc ra đi là quán triệt không được nổ súng bằng
bất cứ giá nào”.
Chính vì được quán triệt là không được nổ súng, trên các con tàu
trong chiến dịch CQ-88 đều chỉ mang lương thực, xi măng, cốt thép và các
cột bê tông đúc sẵn mà không mang theo bất cứ một loại vũ khí nào, chỉ
trừ vài khẩu súng AK. Các chiến sĩ trên tàu, chủ yếu chỉ là công binh,
chưa một lần cầm súng chiến đấu, để rồi cho đến bây giờ, tim họ vẫn còn
nhói khi nghĩ lại. Theo lời kể của 8 nhân vật còn sống cho đến hôm nay,
họ không hề có một khẩu súng trong tay và chỉ thấy khoảng 3¬-4 người
lính Việt Nam có cầm súng AK. Anh Trần Thiện Phung chua xót nhớ lại:
“Đơn vị tôi là đơn vị công binh mà, ra đảo chỉ biết là để xây dựng
chứ đâu biết để chiến đấu. Nhưng ra đó, tàu chiến của Trung Quốc đánh
mình”.
Chiều 13 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-604 vừa đến Gạc Ma và bị quân Trung
Quốc dùng loa cảnh báo. Theo lời những người tham gia trận đánh, Trung
Quốc lúc ấy triển khai 3 tàu chiến, đứng vị trí hình tam giác bao vây
con tàu vận tải HQ-604, chỉ cách nhau chừng vài trăm mét. Anh Dương Văn
Dũng nhớ lại:
“Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung
Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo,
vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra.”
Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo, vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra.
Anh Dương Văn Dũng
Đến sáng sớm ngày 14 tháng 3, khi hải quân Việt Nam đổ bộ, bốc vật
liệu xây dựng từ tàu xuống đảo, đó là lúc phát súng đầu tiên vang lên,
để rồi tiếp sau đó là một tràn tiếng súng dài và máu văng tung tóe. Hiện
tại, Trung Quốc cho sản xuất một phim tư liệu ghi lại trận chiến tại
Gạc Ma với hình ảnh một vòng người bị bắn tan tành trên nước. Đó chính
là đoạn nghi lại hình ảnh này. Anh Thống nói:
"Bởi vì chúng tôi nhận được lệnh là chuyển cột bê tông từ tàu xuống
đảo để xây dựng đảo cho nên các anh em đổ bộ vào đảo. Khi mình đổ bộ như
thế thì họ từ trên tàu bắn xuống một hàng dài. Khi mình đưa cờ vào thì
trong vòng 30 phút sau là bị bắn.”
Trung Quốc tấn công và chiếm đảo
Lúc đó cũng là lúc tàu Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và khoảng 40 lính
có trang bị vũ khí đổ bộ lên đảo giật cờ Việt Nam. Dưới nước, lúc giáp
lá cà, 2 bên chỉ cách nhau khoảng 100 mét. Phía trên, tàu Trung Quốc bao
vây. Anh Dũng cho biết:
“Khi họ tràn qua như thế thì mình cử một người bảo vệ cây cờ của mình trên đảo. Khi họ bắn một phát súng thì một hàng lính của họ bắn tới tấp. Mình vẫn đứng ôm cây cờ Việt Nam chịu chết. Một đồng chí khác cũng đứng gần đó bảo vệ cây cờ cũng bị thương nặng.
Tất cả các anh em hô to giữ chặt cây cờ, không bao giờ để mất cây cờ cũng như không bao giờ để mất tổ quốc. Mình hô to “Bảo vệ! bảo vệ! bảo vệ”. Khi họ tràn qua đánh mình là mình chống trả ngay lập tức. Mình chấp nhận tay không bảo vệ cây cờ tổ quốc”.
Thiếu úy Trần Văn Phương là người giữ lá cờ Việt Nam trên đảo Gạc Ma,
cũng là người nhận phát đạn đầu tiên và tử thương đầu tiên. Nhiều người
kể rằng, trước khi chết, anh Phương còn hô to “Thà hy sinh chứ không
chịu mất đảo, hãy để máu chúng ta nhuộm đỏ Biển Đông”.
Theo anh Trần Thiện Phụng, lúc tình hình bắt đầu căng thẳng, lữ đoàn
phó lữ đoàn 146 Trần Đức Thông ra lệnh “Đây là lãnh thổ của Việt Nam,
các đồng chí hãy bảo vệ lãnh thổ”. Lúc ấy cũng là lúc nhiều người dù
không có vũ khí trong tay cũng nhảy xuống tàu bơi vào bám trụ trên đảo,
để rồi tất cả đều phải hi sinh nhanh chóng sau đó. Anh Dũng nói tiếp:
“Chúng tôi biết rằng đã bị thua thế và mắc mưu Trung Quốc, cho nên
chỉ làm bia đỡ đạn cho địch thôi chứ không biết nói sao. Họ là phía hành
động tất cả. Khi họ tràn qua đánh thì chúng tôi biết rằng chỉ có chết
thôi chứ làm sao sống được? Ở đó chỉ có nước và trời, không phải rừng
rú, trốn vào đâu được? Khi hành động là họ vây mình hết rồi, nên mình
chỉ có chết thôi. Tất cả các anh em đều bị bắn xối xả hết. Tôi vẫn nhớ
kỹ mà. Tôi nhìn rõ hết mà. Dễ sợ lắm.”
Lúc ấy, phía Trung Quốc có 1 hộ vệ hạm và 2 hải vận hạm, được trang
bị hỏa lực 100mm với hơn 200 binh sĩ (tài liệu từ Trung Quốc). Theo tài
liệu từ phía Bắc Kinh, quân Trung Quốc luôn sẵn sàng chiến đấu. Thậm
chí, trước đêm trận chiến xảy ra, quân lính nước này còn được xem phim
tuyên truyền nói rằng Việt Nam ăn cắp tài nguyên của Trung Quốc.
Sau khi bắn xối xả vào vòng người trên đảo, Trung Quốc bắt đầu nả
pháo liên tiếp vào con tàu HQ-604. Anh Lê Minh Thoa bồi hồi nhớ lại:
“Tôi lo về máy móc của tàu không có súng ống gì cả. Lúc bắt đầu giao
chiến thì tôi còn ở trên boong tàu. Nhưng khi thuyền thưởng ra lệnh sẵn
sàng chiến đấu thì ngành nào theo ngành nấy và tôi xuống hầm máy. Khi
tôi đang ở hầm máy thì tàu bị bắn và xăng dầu trong hầm máy cũng bùng
cháy. Tôi bị cháy sau lưng và bỏ chạy lên boong tàu rồi nhảy xuống nước.
Khi ấy, nước đã bắt đầu tràn vào tàu và chìm dần”.
Khi quả những khẩu đạn pháo nhắm vào thân con tàu HQ-604 già nua,
cũng là lúc quân Việt Nam chết nhiều nhất, người thì chết vì ngạt khi co
cụm dưới khoang tàu, người thì chết vì đạn pháo, người thì chết vì ngạt
nước - hỗn loạn, tan tác và kinh hãi. Anh Thoa chua xót nói tiếp:
“Khi lính của mình chết gần hết rồi, xác họ trôi lơ lửng, máu tràn
lan trên biển, máu của lính từ mạn tàu chảy xuống. Tôi thấy ghê gớm
thật. Lúc đó chẳng biết suy nghĩ gì, chạy loạn xạ hết. Nhìn thấy cảnh
tượng ấy tôi rất buồn bởi vì anh em mới đêm trước còn nói chuyện với
nhau, bây giờ người sống kẻ chết. Tôi thấy rất buồn. Sau này tôi có xem
lại đoạn phim về trận hải chiến này do Trung Quốc quay. Mỗi lần nhìn
thấy đoạn phim ấy là hai hàng nước mắt chảy ra.”
Sau khi nhận quả đạn pháo đầu tiên, con tàu HQ-604 bắt đầu bùng cháy
và chìm hẳn chỉ 30 phút sau đó. Cùng với xác con tàu, là xác của hàng
chục chiến sĩ hải quân Việt Nam với vũng máu lớn loan cả một vùng biển
Đông. Khi đó cũng là lúc hải quân Trung Quốc hoan hô reo rò chiến thắng.
Họ bắt tay, ôm nhau, nói cười vui vẻ. Anh Dũng uất ức kể lại:
“Tôi tức chứ, tức vô cùng. Tôi tức vì mình không đủ khả năng đánh lại
họ vì mình không chuẩn bị. Họ đã được chuẩn bị và họ đánh mình. Họ đánh
nát tan thuyền của mình. Họ đánh xong, họ hoan hô. Tôi nằm dưới nước
thấy cảnh ấy mà tức vô cùng”.
Tàn sát lính Việt Nam
Tuy nhiên, đó còn chưa phải là kết thúc của những đau thương và mất mát. Anh Thoa nói tiếp:
Cứ như thế, hải quân trên con tàu HQ-604 tại đảo Gạc Ma gần như tử
thương tất cả chỉ sau hơn một giờ đồng hồ giao tranh. Trong số 74 chiến
sĩ trên con tàu ấy, chỉ có 9 người còn sống sót. Cho đến bây giờ, họ
cũng không giải thích được lý do vì sao họ có được cái may mắn còn sống
để kể về câu chuyện của chính họ ngày hôm nay. Anh Thoa cho biết vì sao
mình không chết trong trận chiến ấy:
“Chín người chúng tôi còn sống sót là do có những người nổi lên nhưng
nhìn cũng như chết rồi. May mắn cho tôi là tôi có được hai quả bí. Khi
nghe tiếng xuồng của địch chạy đến thì tôi lặn xuống biển, hết tiếng
xuồng là tôi ngoi lên”.
Sau khi nghĩ rằng đã tiêu diệt hết tất cả hải quân Việt Nam cùng con
tàu HQ-604, ba chiếc tàu chiến cùng hải quân Trung Quốc bỏ đi. Lúc này
thủy triều đang lên, đảo Gạc Ma lại chìm trong biển nước mênh mông (đảo
Gạc Ma còn gọi là đảo chìm; nổi lên và lặn xuống theo con nước). Không
còn tiếng súng nổ, không còn tiếng động cơ, cũng chẳng còn tiếng la hét,
trả lại cho Gạc Ma sự yên ắng đến rợn người.
Biển không gợn chút sóng, mà lòng những người sống sót đau đến lạ.
Chín người còn sống sót nằm trên đảo, bên cạnh những xác chết nghiêng
ngửa của những người bạn mà chỉ mới hôm qua thôi, còn chúc nhau sống lâu
trăm tuổi. Họ nhìn đồng đội, nhìn Gạc Ma mà nhòe đi vì nước mắt. Có lẽ
không một lời nào có thể diễn tả tâm trạng của họ lúc này; nó trống rỗng
như cái khoảng không trên bầu trời cao vợi, sâu thắt như đáy biển Đông
và mênh mông như Trường Sa lúc này.
Tất cả chín người sống sót đều bị thương nặng, như những xác chết nằm
cùng vô vàng các xác chết khác. Có lẽ ngay chính họ cũng không biết là
mình còn sống. Trong cơn đau đến nỗi tưởng như có thể chết đi, các anh
vẫn ý thức rằng, lá cờ Việt Nam trên tay đồng chí Phương cũng không còn
nữa. Anh Thống buồn rầu nói:
Khi tàu của Việt Nam đã bị chìm rồi, lính Việt Nam nhảy xuống biển mà nổi lên trên là họ bắn hết. Trung Quốc cho những chiếc xuồng chạy trên biển và bắn tất cả lính Việt Nam nào nổi lên.
Anh Lê Minh Thoa
“Đá trên đảo là đá san hô cho nên không thể cắm cờ trên đảo được. Chỉ
có thể cho người cầm cờ mà thôi. Tuy nhiên, khi người cầm cờ ấy mất thì
lá cờ cũng mất theo”.
Trận chiến trên đảo Gạc Ma kết thúc, phía Trung Quốc chỉ có một người
bị thương. Họ vinh danh một đặc nhiệm hải quân tên Du Xiang Hou, là
người đã xé bỏ lá cờ Việt Nam trên đảo. Họ làm phim giáo dục con cháu về
trận chiến mà đối với họ là một sự vẻ vang kiêu hùng. Và họ xem đó là
bằng chứng không thể chối cãi đối với chủ quyền tại đảo Gạc Ma. Vậy mà
đã 23 năm tại Việt Nam, cuộc chiến này bị né tránh không nói đến, như
thể nó là một phần lịch sử cần được giấu đi. Có lẽ trận chiến trên đảo
Gạc Ma không phải là một vết son trong lịch sử như những chiến thắng của
đội quân Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn hay vua Quang Trung. Tuy nhiên,
người ta vẫn cần một lịch sử thật hơn một lịch sử đẹp. Huống chi, các
chiến sĩ CQ-88 tay không đánh giặc, há chẳng phải đẹp lắm sao?
Họ vẫn còn sống
Chín người sống sót bao gồm anh Lê Văn Đông, Nguyễn Văn Thống, Trần
Thiện Phụng, Phạm Văn Nhân, Nguyễn Tiến Hùng, Trương Văn Hiền, Lê Minh
Thoa, Mai Văn Hải và Dương Văn Dũng. Số phận của họ sau cuộc chiến như
thế nào?
Anh Thống cho biết: "Tàu chìm lúc khoảng 7 giờ 30 sáng. Sau đó tôi bị
thương và vớt được một miếng gỗ và trôi đến khoảng 4 giờ chiều thì bị
bắt. Tôi bị thương nặng nhưng lại ôm được tấm gỗ mang ra làm nhà. Tôi ôm
và cứ để mặc nó trôi thế nào thì trôi. Lúc bị họ kéo khỏi mặt nước thì
tôi đau lắm. Tôi biết rằng có vài người cũng bị bắt lên khoang tàu rồi
nhưng không nhìn rõ ai cả vì tôi bị thương ở mắt”.
Đó là lý do anh Thống còn sống sót sau trận chiến. Nếu không nhờ
những tấm gỗ mà các chiến sĩ hải quân Việt Nam dự định dùng làm nhà trên
đảo, có lẽ cũng chẳng ai còn sống sót kể chuyện của họ ngày hôm nay.
Trong số những người không tử thương trong trận chiến, có lẽ anh Thoa là
người tỉnh táo nhất. Anh còn nhớ rõ cảm xúc của mình khi thấy tàu Trung
Quốc xuất hiện trở lại:
“Đến 6 giờ chiều thì tôi nhìn thấy một con tàu từ hướng đông chạy
đến. Lúc ấy tôi rất mừng và nghĩ là tàu Việt Nam. Nhưng khi tàu này dừng
lại và chuyển hướng gió thì tôi nhìn thấy hai chữ “Trung Quốc”. Lúc đó
tôi đã xác định rằng cuộc đời tôi đến đây là hết rồi. Họ bắt từng người
lên tàu. Tôi là người bị bắt cuối cùng và khi lên tàu thì đã thấy tám
anh em trên tàu rồi.”
Tất cả những người bị bắt lên tàu đều bị thương, đều bị yêu cầu cởi
bỏ hết quần áo ngoài và đều bị bỏ cùng một khoang tàu chở về nhà tù
Trung Quốc ở Quảng Đông. Lúc đó, tất cả nghĩ rằng đời họ đến đây là hết.
Mọi người đều im lặng, chỉ nhìn nhau nhưng không nói được lời nào.
Trong số chín người trên khoang tàu, anh Thống là người bị thương
nặng nhất. Theo lời anh kể, lúc lên tàu, anh không phân biệt được ngày
đêm và bất tỉnh ngay sau đó. Khi tỉnh lại, anh chỉ biết kêu than và xin
quần áo mặc vì lạnh. Anh Thoa nói tiếp:
“Lúc bị bắt lên tàu Trung Quốc thì suốt ba ngày ba đêm cũng không ai
ăn uống gì cả. Có lúc tôi khát nước, nhìn thấy một người nữ trên tàu và
xin cô ấy chút nước vì cô ấy đang ăn dưa hấu. Nhưng cô ấy còn không cho,
còn dùng giày đá vào chân tôi đau điếng. Lúc đó, người thì bị thương.
Trời thì lạnh, chúng tôi chỉ mặc quần đùi và áo lót.
Tôi bị thương nặng nhưng lại ôm được tấm gỗ mang ra làm nhà. Tôi ôm và cứ để mặc nó trôi thế nào thì trôi.
Anh Nguyễn Văn Thống
Tất cả đều bị thương và mệt mỏi vì phải bơi gần một ngày trên biển.
Tất cả những người bị bắt lên khoang tàu đều không được băng bó gì cả.
Sau 3 ngày 3 đêm, chúng tôi về đến đảo Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, thì
những người bị thương nặng mới được băng bó. Lúc đó thì những vết thương
đã bốc mùi lên rồi”.
Sau 3 ngày 3 đêm, chín hải quân Việt Nam bị đưa về làm tù binh ở bán
đảo Lôi Châu. Tại đây, mỗi người nuôi một niềm hy vọng riêng. Tuy nhiên,
không ai dám hy vọng sẽ lại bước chân trên mảnh đất quê hương lần nữa.
Anh Dũng tâm sự:
“Lúc ấy tôi không hề nghĩ có ngày mình được trở về. Bởi vì các loại tù khác thì còn có án, còn có ngày về. Còn tù như chúng tôi thì không thể biết được ngày về”.
Bị bắt làm tù binh
Họ vẫn còn sống – là sự thật. Họ bị bắt làm tù binh tại Trung Quốc –
là sự thật. Tất cả không hề hoài nghi gì về điều ấy. Điều duy nhất họ
chưa biết rõ lúc ấy là việc Trung Quốc có chiếm đảo Gạc Ma hay không.
Chính vì thế mà họ hy vọng. Anh Thoa thở dài nhớ lại:
Cũng tại đây, họ bắt đầu một cuộc đấu mới: cuộc đấu trí với cai ngục
Trung Quốc. Theo lời kể, trong năm đầu tiên bị giam, cứ cách vài ngày họ
bị gọi đi cung một lần để tìm hiểu về những người giữ chức vụ quan
trọng trong hải quân Việt Nam. Họ còn phải đấu trí với những bài báo
được viết bằng tiếng Việt được đưa vào ngục mà theo họ là “của những
người phản quốc”. Thậm chí, các anh đã xé bỏ những tờ báo xuyên tạc ấy.
Anh Dũng nói:
"Khi cai ngục đưa cho chúng tôi những bài báo ấy thì chúng tôi không
đọc, thậm chí xé, đốt trước mặt cai ngục luôn. Có lúc đánh với cai ngục,
tôi cũng không sợ. Tôi nghĩ mình cá đã nằm trên thớt, tôi không sợ gì
nữa. Họ muốn chặt con cá lúc nào cũng được, nhưng họ có dám chặt không?”
Trong số những người còn sống sót, có lẽ anh Dũng là người kiên cường
và mạnh mẽ nhất. Thậm chí, có lần anh đã cãi nhau với thông dịch viên
Trung Quốc vì anh không khuất phục. Anh nói tiếp:
“Tôi tuyên bố rằng 'Mày nhốt tao thì mày phải mang cơm cho tao ăn.
Mày dám không đem cơm cho tao ăn không?'. Tôi đã nói câu đó thì tôi
không bao giờ sợ chết.”
Cuộc đấu trí lớn nhất có lẽ là việc trình bày về việc bên nào nổ súng
trước khi một năm sau đó, Hội chữ thập đỏ quốc tế vào trại giam thăm
các hải quân Việt Nam. Anh Dũng nói:
“Khi hội chữ thập đỏ quốc tế đến thì họ yêu cầu mình phải viết tường
trình rằng ai nổ súng trước. Tôi trả lời là Trung Quốc là phía nổ súng
bởi Việt Nam súng đâu mà nổ? Hành động và nổ súng là chỉ có Trung Quốc
thôi. Nhưng Trung Quốc lại không chấp nhận là họ nổ súng trước.”
Một năm sau khi ngày trận chiến xảy ra, đại diện Hội chữ thập đỏ quốc
tế đến thăm các tù binh Việt Nam, đó cũng là lúc gia đình nhận được tin
báo các anh còn sống. Trước đó, báo Nhân dân đăng ngày 28 tháng 3 năm
1988 đăng tin rằng tất cả các chiến sĩ tử trận trong trận hải chiến
Trường Sa. Anh Thoa nói:
“Trong một năm đầu ở tù, chúng tôi hoàn toàn không có tin tức về Việt
Nam. Sau đó, Hội Chữ thập đỏ quốc tế vào tù thăm chúng tôi thì họ cho
phép viết mỗi người một lá thư dài 24 chữ để họ chuyển về gia đình. Tôi
báo cho gia đình là tôi vẫn còn sống và hiện đang ở tù tại Trung Quốc”.
Lúc ấy tôi không hề nghĩ có ngày mình được trở về. Bởi vì các loại tù khác thì còn có án, còn có ngày về. Còn tù như chúng tôi thì không thể biết được ngày về.
Anh Dương Văn Dũng
Và đó là lá thư duy nhất các anh được gởi về nhà trong gần 4 năm ở
nhà tù Trung Quốc. Họ ở trong nhà tù Trung Quốc, tồn tại trong sự lo
lắng với những nỗi niềm riêng. Anh Thống lo cho cha mẹ già cùng bảy anh
chị em khác. Anh Phụng lo cho đứa con vừa mới chào đời được một năm. Anh
Hải lo cho cảnh nhà túng quẫn… Anh Thoa lại có
“Ở trong tù, nhớ nhà kinh khủng, nhất là vào những đêm giao thừa. Nhớ
gia đình, cha mẹ, em út…không biết họ sống như thế nào. Ở trong tù thì
làm sao mà thoải mái được. Lúc đó, đầu óc tôi suy nghĩ rất nhiều. Lao
động thì vất vả. Tôi cứ suy nghĩ về gia đình và cuộc đời của mình. Lúc
ấy tôi còn trẻ, chỉ mới 20-21 mà thôi. Tôi là con cả trong gia đình có 4
người con, đứa em út tôi lúc ấy mới 7 tuổi thôi nên tôi lo cho nó lắm.”
Giấc mơ hồi hương
Và họ cứ sống như thế với những lo toan, mong mỏi cho đến một ngày
vào tháng 11 năm 1991, sau chuyến công du Trung Quốc của Đại tướng Lê
Đức Anh vào tháng 9. Anh Thoa nhớ lại:
Anh Thoa còn cho biết, khi nghe lệnh được phóng thích, anh vừa mừng
vừa sợ. Mừng vì mình có hy vọng được về với gia đình, với tổ quốc thân
yêu; nhưng lo vì không biết thực hư như thế nào. Ngồi trên xe, chín
người lại nhìn nhau mà im lặng, như lúc họ im lặng trên khoang tàu khi
bị bắt mang về Trung Quốc cách đó gần 4 năm. Mỗi người một suy nghĩ, một
nỗi lo. Anh Thống nói:
“Sau hơn 3 năm rưỡi, họ đọc lệnh cho về là tất cả đều mừng rỡ, mừng
mà không ngủ được. Cứ đợi đến sáng để được lên xe qua biên giới. Được
về, dĩ nhiên là vui, nhưng buồn vì mình bị thương nặng thì không biết
cuộc sống sẽ thế nào”.
Không khí im lặng, hồi hộp kéo dài trong suốt 2 ngày đường đi, để khi
họ nhìn thấy được lá cờ Việt Nam bay phất phới phía bên kia biên giới,
họ mới tin là mình được tái sinh. Anh Thoa tâm sự:
“Lúc ấy vừa vui vừa sợ nên mọi người đều nhìn nhau im lặng. Đến khi
được qua bên kia biên giới Việt Nam rồi, chúng tôi rất mừng. Nhìn trong
bản đồ tôi thấy Quảng Đông và Cao Bằng rất gần, nhưng không hiểu sao khi
ngồi lên xe thì thấy đi lâu lắm. Chúng tôi đi 2 ngày mới đến biên giới
Việt Nam.”
Vậy là họ được trả về Việt Nam sau gần 4 năm chịu cảnh tù đày nơi đất
khách. Bây giờ nhớ lại, cái cảm giác sung sướng và hạnh phúc vẫn còn
dâng trào trong từng con tim, từng chân tóc, thớ da của họ. Họ sung
sướng cảm nhận từng bước chân mình trên con đường đất quê hương, mở rộng
lồng ngực hít thật sâu mùi cao nguyên xanh thẫm và ngửa mặt như đón lấy
cái nắng gió trên bầu trời. Lòng họ hân hoan, nôn nao và hạnh phúc như
được sống lại lần thứ hai.
Sau một tháng sống tại khu an dưỡng dành cho hải quân tại vịnh Hạ
Long, chín người lính còn sống sót trong trận hải chiến tại Gạc Ma được
cho về nhà. Trừ anh Phụng được gia đình lên tận khu an dưỡng đón, tám
người còn lại không thể báo tin về nhà. Để rồi khi thấy họ xuất hiện,
gia đình chỉ biết khóc và không nói nên lời. Anh Dũng cho biết:
“Cả làng thấy tôi về họ đến thăm. Lúc ấy vì vui quá mà không biết nói
gì nữa, mừng quá mà khóc thôi. Gia đình tôi rất mừng, không thể tượng
tượng được con mình trở về như thế.”
Rồi trong số họ, có người về nhà và thấy chính ảnh của mình trên bàn
thờ. Cho đến bây giờ, anh Thoa vẫn nhớ như in cái ngày đặc biệt ấy:
“Tôi ngồi tàu đi từ Hà Nội về đến Qui Nhơn khoảng 4 giờ sáng. Không
biết lúc ấy gia đình vì sao gia đình tôi lại có linh tính. Chiếc xe ôm
chở tôi vừa dừng trước nhà thì gia đình mở cửa ra. Lúc ấy tôi mặc trang
phục hải quân. Gia đình thấy tôi thì khóc òa lên. Tôi cũng khóc luôn bởi
vì lúc ấy bố mẹ, anh em, bác của tôi ai cũng khóc cả. Khóc vì quá mừng.
Lúc tôi trở về nhà thì thấy nhà vẫn còn thờ tôi. Đó là bức hình tôi chụp khi chưa vào quân đội. Lúc ấy tôi mới 15-16 tuổi thôi. Gia đình phóng lớn tấm hình ấy và để trên bàn thờ. Bây giờ tôi vẫn còn giữ tấm hình ấy.Anh Lê Minh Thoa
Lúc tôi trở về nhà thì thấy nhà vẫn còn thờ tôi. Đó là bức hình tôi
chụp khi chưa vào quân đội. Lúc ấy tôi mới 15-16 tuổi thôi. Gia đình
phóng lớn tấm hình ấy và để trên bàn thờ. Bây giờ tôi vẫn còn giữ tấm
hình ấy.”
Cho đến bây giờ, anh Thoa vẫn còn giữ tấm ảnh thờ của chính mình. Anh
Dũng vẫn giữ những tấm hình của đồng đội. Anh Phụng, anh Hải, anh Nhân,
anh Đông, anh Thống, anh Hiền vẫn còn giữ những tấm huân chương chiến
sĩ... như để khép lại một quá khứ nhưng không chối bỏ nó. Có lẽ hơn ai
hết, họ hiểu rằng: họ đã sống thay cho 64 đồng đội mãi mãi nằm lại Gạc
Ma ngoài kia.