"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Mittwoch, 26. Oktober 2011

Trận chiến đẫm máu tại Gạc Ma 1988

Quỳnh Chi, RFA 

Ngày 14 tháng 3 năm 1988 đã xảy ra trận chiến đẫm máu giữa hải quân Việt Nam và Trung Quốc tại Gạc Ma, Trường Sa.

Photo courtesy of daidoanket.vn
Bức tranh miêu tả cuộc chiến đấu bảo vệ đảo Gạc Ma của Hải quân Việt Nam ngày 14-3-1988 được treo tại Phòng Truyền thống của Vùng 4 Hải quân.

Trận chiến kết thúc, hải quân Việt Nam chỉ có chín người sống sót. Từ đó, Gạc Ma được cho là đã thuộc về Trung Quốc. Bối cảnh và diễn biến cuộc chiến tại Gạc Ma như thế nào? Mời quý vị nghe chính người lính năm xưa kể chuyện của họ.


Tay không bảo vệ tổ quốc

Từ đầu năm 1988, Trung Quốc bắt đầu chiếm đóng tại một số bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa, cũng như đưa lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực này. Nhận thấy tình hình có thể diễn biến phức tạp, Bộ tư lệnh hải quân Việt Nam ra lệnh cho xây dựng và bảo vệ đảo tại Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao bởi vì các đảo này có vị trí quan trọng trong tuyến đường tiếp tế của Việt Nam cho các căn cứ khác tại Trường Sa. Chiến dịch này còn được biết đến với tên gọi CQ-88, tức Chủ quyền 88.

Bắt đầu ngày 12 tháng 3 năm 1988, ba chiếc tàu vận tải của Lữ đoàn 125 mang số hiệu HQ-604, HQ-605 và HQ-505 mang theo một số phân đội của Trung đoàn công binh 83 và Lữ đoàn 146 đến các đảo này. Ba con tàu neo tại 3 đảo, với nhiệm vụ “Xây dựng và bảo vệ đảo”.  Tuy nhiên, giao tranh chủ yếu diễn ra ở Gạc Ma. Đó cũng là một cuộc chiến đẫm máu nhất trong chiến dịch CQ-88. 

Con tàu HQ-604 chở khoảng 74 chiến sĩ, đa phần là công binh có nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đảo Gạc Ma. Trước khi đi, tất cả các chiến sĩ đều được quán triệt là bảo vệ tổ quốc nhưng không nổ súng. Anh Nguyễn Văn Thống cho biết “Bên mình lúc ra đi là quán triệt không được nổ súng bằng bất cứ giá nào”.

Chính vì được quán triệt là không được nổ súng, trên các con tàu trong chiến dịch CQ-88 đều chỉ mang lương thực, xi măng, cốt thép và các cột bê tông đúc sẵn mà không mang theo bất cứ một loại vũ khí nào, chỉ trừ vài khẩu súng AK. Các chiến sĩ trên tàu, chủ yếu chỉ là công binh, chưa một lần cầm súng chiến đấu, để rồi cho đến bây giờ, tim họ vẫn còn nhói khi nghĩ lại. Theo lời kể của 8 nhân vật còn sống cho đến hôm nay, họ không hề có một khẩu súng trong tay và chỉ thấy khoảng 3¬-4 người lính Việt Nam có cầm súng AK. Anh Trần Thiện Phung chua xót nhớ lại:

“Đơn vị tôi là đơn vị công binh mà, ra đảo chỉ biết là để xây dựng chứ đâu biết để chiến đấu. Nhưng ra đó, tàu chiến của Trung Quốc đánh mình”.

Chiều 13 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-604 vừa đến Gạc Ma và bị quân Trung Quốc dùng loa cảnh báo. Theo lời những người tham gia trận đánh, Trung Quốc lúc ấy triển khai 3 tàu chiến, đứng vị trí hình tam giác bao vây con tàu vận tải HQ-604, chỉ cách nhau chừng vài trăm mét. Anh Dương Văn Dũng nhớ lại:

“Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo, vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra.”
Lính Trung Quốc cầm loa thông báo rằng đây là lãnh thổ của Trung Quốc, yêu cầu lính Việt Nam rời ngay. Tuy nhiên, mình vẫn không rời đảo, vẫn bám trụ đảo. Cho đến sáng mai thì trận chiến xảy ra.
Anh Dương Văn Dũng
Đến sáng sớm ngày 14 tháng 3, khi hải quân Việt Nam đổ bộ, bốc vật liệu xây dựng từ tàu xuống đảo, đó là lúc phát súng đầu tiên vang lên, để rồi tiếp sau đó là một tràn tiếng súng dài và máu văng tung tóe. Hiện tại, Trung Quốc cho sản xuất một phim tư liệu ghi lại trận chiến tại Gạc Ma với hình ảnh một vòng người bị bắn tan tành trên nước. Đó chính là đoạn nghi lại hình ảnh này. Anh Thống nói:

"Bởi vì chúng tôi nhận được lệnh là chuyển cột bê tông từ tàu xuống đảo để xây dựng đảo cho nên các anh em đổ bộ vào đảo. Khi mình đổ bộ như thế thì họ từ trên tàu bắn xuống một hàng dài. Khi mình đưa cờ vào thì trong vòng 30 phút sau là bị bắn.”

Trung Quốc tấn công và chiếm đảo

Lúc đó cũng là lúc tàu Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và khoảng 40 lính có trang bị vũ khí đổ bộ lên đảo giật cờ Việt Nam. Dưới nước, lúc giáp lá cà, 2 bên chỉ cách nhau khoảng 100 mét. Phía trên, tàu Trung Quốc bao vây. Anh Dũng cho biết:

HQ-604-250-youtube.jpg
Tàu vận tải HQ-604 bị tàu chiến Trung Quốc nã pháo, bắn cháy, đang chìm xuống biển ngày 14-3-1988. Ảnh lấy từ youtube do TQ quay lại

“Khi họ tràn qua như thế thì mình cử một người bảo vệ cây cờ của mình trên đảo. Khi họ bắn một phát súng thì một hàng lính của họ bắn tới tấp. Mình vẫn đứng ôm cây cờ Việt Nam chịu chết. Một đồng chí khác cũng đứng gần đó bảo vệ cây cờ cũng bị thương nặng.
 
Tất cả các anh em hô to giữ chặt cây cờ, không bao giờ để mất cây cờ cũng như không bao giờ để mất tổ quốc. Mình hô to “Bảo vệ! bảo vệ! bảo vệ”. Khi họ tràn qua đánh mình là mình chống trả ngay lập tức. Mình chấp nhận tay không bảo vệ cây cờ tổ quốc”.

 

Thiếu úy Trần Văn Phương là người giữ lá cờ Việt Nam trên đảo Gạc Ma, cũng là người nhận phát đạn đầu tiên và tử thương đầu tiên. Nhiều người kể rằng, trước khi chết, anh Phương còn hô to “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để máu chúng ta nhuộm đỏ Biển Đông”.

Theo anh Trần Thiện Phụng, lúc tình hình bắt đầu căng thẳng, lữ đoàn phó lữ đoàn 146 Trần Đức Thông ra lệnh “Đây là lãnh thổ của Việt Nam, các đồng chí hãy bảo vệ lãnh thổ”. Lúc ấy cũng là lúc nhiều người dù không có vũ khí trong tay cũng nhảy xuống tàu bơi vào bám trụ trên đảo, để rồi tất cả đều phải hi sinh nhanh chóng sau đó. Anh Dũng nói tiếp:

“Chúng tôi biết rằng đã bị thua thế và mắc mưu Trung Quốc, cho nên chỉ làm bia đỡ đạn cho địch thôi chứ không biết nói sao. Họ là phía hành động tất cả. Khi họ tràn qua đánh thì chúng tôi biết rằng chỉ có chết thôi chứ làm sao sống được? Ở đó chỉ có nước và trời, không phải rừng rú, trốn vào đâu được? Khi hành động là họ vây mình hết rồi, nên mình chỉ có chết thôi.  Tất cả các anh em đều bị bắn xối xả hết. Tôi vẫn nhớ kỹ mà. Tôi nhìn rõ hết mà. Dễ sợ lắm.”

Lúc ấy, phía Trung Quốc có 1 hộ vệ hạm và 2 hải vận hạm, được trang bị hỏa lực 100mm với hơn 200 binh sĩ (tài liệu từ Trung Quốc). Theo tài liệu từ phía Bắc Kinh, quân Trung Quốc luôn sẵn sàng chiến đấu. Thậm chí, trước đêm trận chiến xảy ra, quân lính nước này còn được xem phim tuyên truyền nói rằng Việt Nam ăn cắp tài nguyên của Trung Quốc. 

Sau khi bắn xối xả vào vòng người trên đảo, Trung Quốc bắt đầu nả pháo liên tiếp vào con tàu HQ-604. Anh Lê Minh Thoa bồi hồi nhớ lại:

“Tôi lo về máy móc của tàu không có súng ống gì cả. Lúc bắt đầu giao chiến thì tôi còn ở trên boong tàu. Nhưng khi thuyền thưởng ra lệnh sẵn sàng chiến đấu thì ngành nào theo ngành nấy và tôi xuống hầm máy. Khi tôi đang ở hầm máy thì tàu bị bắn và xăng dầu trong hầm máy cũng bùng cháy. Tôi bị cháy sau lưng và bỏ chạy lên boong tàu rồi nhảy xuống nước. Khi ấy, nước đã bắt đầu tràn vào tàu và chìm dần”.

Khi quả những khẩu đạn pháo nhắm vào thân con tàu HQ-604 già nua, cũng là lúc quân Việt Nam chết nhiều nhất, người thì chết vì ngạt khi co cụm dưới khoang tàu, người thì chết vì đạn pháo, người thì chết vì ngạt nước - hỗn loạn, tan tác và kinh hãi. Anh Thoa chua xót nói tiếp:
“Khi lính của mình chết gần hết rồi, xác họ trôi lơ lửng, máu tràn lan trên biển, máu của lính từ mạn tàu chảy xuống. Tôi thấy ghê gớm thật. Lúc đó chẳng biết suy nghĩ gì, chạy loạn xạ hết. Nhìn thấy cảnh tượng ấy tôi rất buồn bởi vì anh em mới đêm trước còn nói chuyện với nhau, bây giờ người sống kẻ chết. Tôi thấy rất buồn. Sau này tôi có xem lại đoạn phim về trận hải chiến này do Trung Quốc quay. Mỗi lần nhìn thấy đoạn phim ấy là hai hàng nước mắt chảy ra.”
Sau khi nhận quả đạn pháo đầu tiên, con tàu HQ-604 bắt đầu bùng cháy và chìm hẳn chỉ 30 phút sau đó. Cùng với xác con tàu, là xác của hàng chục chiến sĩ hải quân Việt Nam với vũng máu lớn loan cả một vùng biển Đông. Khi đó cũng là lúc hải quân Trung Quốc hoan hô reo rò chiến thắng. Họ bắt tay, ôm nhau, nói cười vui vẻ. Anh Dũng uất ức kể lại:

“Tôi tức chứ, tức vô cùng. Tôi tức vì mình không đủ khả năng đánh lại họ vì mình không chuẩn bị. Họ đã được chuẩn bị và họ đánh mình. Họ đánh nát tan thuyền của mình. Họ đánh xong, họ hoan hô. Tôi nằm dưới nước thấy cảnh ấy mà tức vô cùng”.

Tàn sát lính Việt Nam

Tuy nhiên, đó còn chưa phải là kết thúc của những đau thương và mất mát. Anh Thoa nói tiếp:

tusi-305.jpg
Buổi gặp gỡ các cựu chiến binh trận hải chiến Trường Sa ngày 14 tháng 3 năm 1988 diễn ra tại khu Du Lịch Suối Lương – Đà Nẵng hôm 03/9/2011. RFA files 
 
“Khi tôi nhảy khỏi tàu thì thật tình tôi thấy hiện trường có rất nhiều lính Trung Quốc. Tôi chứng kiến thấy rằng Trung Quốc ác quá. Khi tàu của Việt Nam đã bị chìm rồi, lính Việt Nam nhảy xuống biển mà nổi lên trên là họ bắn hết. Trung Quốc cho những chiếc xuồng chạy trên biển và bắn tất cả lính Việt Nam nào nổi lên”. 
 

Cứ như thế, hải quân trên con tàu HQ-604 tại đảo Gạc Ma gần như tử thương tất cả chỉ sau hơn một giờ đồng hồ giao tranh. Trong số 74 chiến sĩ trên con tàu ấy, chỉ có 9 người còn sống sót. Cho đến bây giờ, họ cũng không giải thích được lý do vì sao họ có được cái may mắn còn sống để kể về câu chuyện của chính họ ngày hôm nay. Anh Thoa cho biết vì sao mình không chết trong trận chiến ấy:

“Chín người chúng tôi còn sống sót là do có những người nổi lên nhưng nhìn cũng như chết rồi. May mắn cho tôi là tôi có được hai quả bí. Khi nghe tiếng xuồng của địch chạy đến thì tôi lặn xuống biển, hết tiếng xuồng là tôi ngoi lên”.

Sau khi nghĩ rằng đã tiêu diệt hết tất cả hải quân Việt Nam cùng con tàu HQ-604, ba chiếc tàu chiến cùng hải quân Trung Quốc bỏ đi. Lúc này thủy triều đang lên, đảo Gạc Ma lại chìm trong biển nước mênh mông (đảo Gạc Ma còn gọi là đảo chìm; nổi lên và lặn xuống theo con nước). Không còn tiếng súng nổ, không còn tiếng động cơ, cũng chẳng còn tiếng la hét, trả lại cho Gạc Ma sự yên ắng đến rợn người. 

Biển không gợn chút sóng, mà lòng những người sống sót đau đến lạ. Chín người còn sống sót nằm trên đảo, bên cạnh những xác chết nghiêng ngửa của những người bạn mà chỉ mới hôm qua thôi, còn chúc nhau sống lâu trăm tuổi. Họ nhìn đồng đội, nhìn Gạc Ma mà nhòe đi vì nước mắt. Có lẽ không một lời nào có thể diễn tả tâm trạng của họ lúc này; nó trống rỗng như cái khoảng không trên bầu trời cao vợi, sâu thắt như đáy biển Đông và mênh mông như Trường Sa lúc này.

Tất cả chín người sống sót đều bị thương nặng, như những xác chết nằm cùng vô vàng các xác chết khác. Có lẽ ngay chính họ cũng không biết là mình còn sống. Trong cơn đau đến nỗi tưởng như có thể chết đi, các anh vẫn ý thức rằng, lá cờ Việt Nam trên tay đồng chí Phương cũng không còn nữa. Anh Thống buồn rầu nói:
Khi tàu của Việt Nam đã bị chìm rồi, lính Việt Nam nhảy xuống biển mà nổi lên trên là họ bắn hết. Trung Quốc cho những chiếc xuồng chạy trên biển và bắn tất cả lính Việt Nam nào nổi lên.
Anh Lê Minh Thoa
“Đá trên đảo là đá san hô cho nên không thể cắm cờ trên đảo được. Chỉ có thể cho người cầm cờ mà thôi. Tuy nhiên, khi người cầm cờ ấy mất thì lá cờ cũng mất theo”.

Trận chiến trên đảo Gạc Ma kết thúc, phía Trung Quốc chỉ có một người bị thương. Họ vinh danh một đặc nhiệm hải quân tên Du Xiang Hou, là người đã xé bỏ lá cờ Việt Nam trên đảo. Họ làm phim giáo dục con cháu về trận chiến mà đối với họ là một sự vẻ vang kiêu hùng. Và họ xem đó là bằng chứng không thể chối cãi đối với chủ quyền tại đảo Gạc Ma. Vậy mà đã 23 năm tại Việt Nam, cuộc chiến này bị né tránh không nói đến, như thể nó là một phần lịch sử cần được giấu đi. Có lẽ trận chiến trên đảo Gạc Ma không phải là một vết son trong lịch sử như những chiến thắng của đội quân Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn hay vua Quang Trung. Tuy nhiên, người ta vẫn cần một lịch sử thật hơn một lịch sử đẹp. Huống chi, các chiến sĩ CQ-88 tay không đánh giặc, há chẳng phải đẹp lắm sao? 

Cuộc chiến tại Gạc Ma kết thúc, nhưng trận chiến của những người còn sống sót còn chưa đến hồi kết. Số phận chín người còn sống sót như thế nào? 

Họ vẫn còn sống

Chín người sống sót bao gồm anh Lê Văn Đông, Nguyễn Văn Thống, Trần Thiện Phụng, Phạm Văn Nhân, Nguyễn Tiến Hùng, Trương Văn Hiền, Lê Minh Thoa, Mai Văn Hải và Dương Văn Dũng. Số phận của họ sau cuộc chiến như thế nào? 

Anh Thống cho biết: "Tàu chìm lúc khoảng 7 giờ 30 sáng. Sau đó tôi bị thương và vớt được một miếng gỗ và trôi đến khoảng 4 giờ chiều thì bị bắt. Tôi bị thương nặng nhưng lại ôm được tấm gỗ mang ra làm nhà. Tôi ôm và cứ để mặc nó trôi thế nào thì trôi. Lúc bị họ kéo khỏi mặt nước thì tôi đau lắm. Tôi biết rằng có vài người cũng bị bắt lên khoang tàu rồi nhưng không nhìn rõ ai cả vì tôi bị thương ở mắt”.

Đó là lý do anh Thống còn sống sót sau trận chiến. Nếu không nhờ những tấm gỗ mà các chiến sĩ hải quân Việt Nam dự định dùng làm nhà trên đảo, có lẽ cũng chẳng ai còn sống sót kể chuyện của họ ngày hôm nay. Trong số những người không tử thương trong trận chiến, có lẽ anh Thoa là người tỉnh táo nhất. Anh còn nhớ rõ cảm xúc của mình khi thấy tàu Trung Quốc xuất hiện trở lại:

“Đến 6 giờ chiều thì tôi nhìn thấy một con tàu từ hướng đông chạy đến. Lúc ấy tôi rất mừng và nghĩ là tàu Việt Nam. Nhưng khi tàu này dừng lại và chuyển hướng gió thì tôi nhìn thấy hai chữ “Trung Quốc”. Lúc đó tôi đã xác định rằng cuộc đời tôi đến đây là hết rồi. Họ bắt từng người lên tàu. Tôi là người bị bắt cuối cùng và khi lên tàu thì đã thấy tám anh em trên tàu rồi.”

Tất cả những người bị bắt lên tàu đều bị thương, đều bị yêu cầu cởi bỏ hết quần áo ngoài và đều bị bỏ cùng một khoang tàu chở về nhà tù Trung Quốc ở Quảng Đông. Lúc đó, tất cả nghĩ rằng đời họ đến đây là hết. Mọi người đều im lặng, chỉ nhìn nhau nhưng không nói được lời nào.

Trong số chín người trên khoang tàu, anh Thống là người bị thương nặng nhất. Theo lời anh kể, lúc lên tàu, anh không phân biệt được ngày đêm và bất tỉnh ngay sau đó. Khi tỉnh lại, anh chỉ biết kêu than và xin quần áo mặc vì lạnh. Anh Thoa nói tiếp:

“Lúc bị bắt lên tàu Trung Quốc thì suốt ba ngày ba đêm cũng không ai ăn uống gì cả. Có lúc tôi khát nước, nhìn thấy một người nữ trên tàu và xin cô ấy chút nước vì cô ấy đang ăn dưa hấu. Nhưng cô ấy còn không cho, còn dùng giày đá vào chân tôi đau điếng. Lúc đó, người thì bị thương. Trời thì lạnh, chúng tôi chỉ mặc quần đùi và áo lót.
Tôi bị thương nặng nhưng lại ôm được tấm gỗ mang ra làm nhà. Tôi ôm và cứ để mặc nó trôi thế nào thì trôi.
Anh Nguyễn Văn Thống
Tất cả đều bị thương và mệt mỏi vì phải bơi gần một ngày trên biển. Tất cả những người bị bắt lên khoang tàu đều không được băng bó gì cả. Sau 3 ngày 3 đêm, chúng tôi về đến đảo Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, thì những người bị thương nặng mới được băng bó. Lúc đó thì những vết thương đã bốc mùi lên rồi”.

Sau 3 ngày 3 đêm, chín hải quân Việt Nam bị đưa về làm tù binh ở bán đảo Lôi Châu. Tại đây, mỗi người nuôi một niềm hy vọng riêng. Tuy nhiên, không ai dám hy vọng sẽ lại bước chân trên mảnh đất quê hương lần nữa. Anh Dũng tâm sự:

“Lúc ấy tôi không hề nghĩ có ngày mình được trở về. Bởi vì các loại tù khác thì còn có án, còn có ngày về. Còn tù như chúng tôi thì không thể biết được ngày về”.

Bị bắt làm tù binh

Họ vẫn còn sống – là sự thật. Họ bị bắt làm tù binh tại Trung Quốc – là sự thật. Tất cả không hề hoài nghi gì về điều ấy. Điều duy nhất họ chưa biết rõ lúc ấy là việc Trung Quốc có chiếm đảo Gạc Ma hay không. Chính vì thế mà họ hy vọng. Anh Thoa thở dài nhớ lại:

toquoc.net-250.jpg
Anh Lê Văn Đông (P) và anh Trần Thiện Phụng (T) chụp trước ngày xảy ra trận hải chiến đẫm máu. Photo courtesy of toquoc.net 
 
“Vì đảo Gạc Ma rất dài, nên lúc ấy tôi hy vọng là Trung Quốc không chiếm hết đảo. Nhưng sau này khi trở về Việt Nam thì tôi cũng biết là Trung Quốc chiếm đảo ấy luôn rồi.”


Cũng tại đây, họ bắt đầu một cuộc đấu mới: cuộc đấu trí với cai ngục Trung Quốc. Theo lời kể, trong năm đầu tiên bị giam, cứ cách vài ngày họ bị gọi đi cung một lần để tìm hiểu về những người giữ chức vụ quan trọng trong hải quân Việt Nam. Họ còn phải đấu trí với những bài báo được viết bằng tiếng Việt được đưa vào ngục mà theo họ là “của những người phản quốc”. Thậm chí, các anh đã xé bỏ những tờ báo xuyên tạc ấy. Anh Dũng nói:

"Khi cai ngục đưa cho chúng tôi những bài báo ấy thì chúng tôi không đọc, thậm chí xé, đốt trước mặt cai ngục luôn. Có lúc đánh với cai ngục, tôi cũng không sợ. Tôi nghĩ mình cá đã nằm trên thớt, tôi không sợ gì nữa. Họ muốn chặt con cá lúc nào cũng được, nhưng họ có dám chặt không?”

Trong số những người còn sống sót, có lẽ anh Dũng là người kiên cường và mạnh mẽ nhất. Thậm chí, có lần anh đã cãi nhau với thông dịch viên Trung Quốc vì anh không khuất phục. Anh nói tiếp:

“Tôi tuyên bố rằng 'Mày nhốt tao thì mày phải mang cơm cho tao ăn. Mày dám không đem cơm cho tao ăn không?'. Tôi đã nói câu đó thì tôi không bao giờ sợ chết.”

Cuộc đấu trí lớn nhất có lẽ là việc trình bày về việc bên nào nổ súng trước khi một năm sau đó, Hội chữ thập đỏ quốc tế vào trại giam thăm các hải quân Việt Nam. Anh Dũng nói:

“Khi hội chữ thập đỏ quốc tế đến thì họ yêu cầu mình phải viết tường trình rằng ai nổ súng trước. Tôi trả lời là Trung Quốc là phía nổ súng bởi Việt Nam súng đâu mà nổ? Hành động và nổ súng là chỉ có Trung Quốc thôi. Nhưng Trung Quốc lại không chấp nhận là họ nổ súng trước.”
Một năm sau khi ngày trận chiến xảy ra, đại diện Hội chữ thập đỏ quốc tế đến thăm các tù binh Việt Nam, đó cũng là lúc gia đình nhận được tin báo các anh còn sống. Trước đó, báo Nhân dân đăng ngày 28 tháng 3 năm 1988 đăng tin rằng tất cả các chiến sĩ tử trận trong trận hải chiến Trường Sa. Anh Thoa nói:

“Trong một năm đầu ở tù, chúng tôi hoàn toàn không có tin tức về Việt Nam. Sau đó, Hội Chữ thập đỏ quốc tế vào tù thăm chúng tôi thì họ cho phép viết mỗi người một lá thư dài 24 chữ để họ chuyển về gia đình. Tôi báo cho gia đình là tôi vẫn còn sống và hiện đang ở tù tại Trung Quốc”.
Lúc ấy tôi không hề nghĩ có ngày mình được trở về. Bởi vì các loại tù khác thì còn có án, còn có ngày về. Còn tù như chúng tôi thì không thể biết được ngày về.
Anh Dương Văn Dũng
Và đó là lá thư duy nhất các anh được gởi về nhà trong gần 4 năm ở nhà tù Trung Quốc. Họ ở trong nhà tù Trung Quốc, tồn tại trong sự lo lắng với những nỗi niềm riêng. Anh Thống lo cho cha mẹ già cùng bảy anh chị em khác. Anh Phụng lo cho đứa con vừa mới chào đời được một năm. Anh Hải lo cho cảnh nhà túng quẫn… Anh Thoa lại có 

“Ở trong tù, nhớ nhà kinh khủng, nhất là vào những đêm giao thừa. Nhớ gia đình, cha mẹ, em út…không biết họ sống như thế nào. Ở trong tù thì làm sao mà thoải mái được. Lúc đó, đầu óc tôi suy nghĩ rất nhiều. Lao động thì vất vả. Tôi cứ suy nghĩ về gia đình và cuộc đời của mình. Lúc ấy tôi còn trẻ, chỉ mới 20-21 mà thôi. Tôi là con cả trong gia đình có 4 người con, đứa em út tôi lúc ấy mới 7 tuổi thôi nên tôi lo cho nó lắm.”

Giấc mơ hồi hương

Và họ cứ sống như thế với những lo toan, mong mỏi cho đến một ngày vào tháng 11 năm 1991, sau chuyến công du Trung Quốc của Đại tướng Lê Đức Anh vào tháng 9. Anh Thoa nhớ lại:

000_Hkg4989058-250.jpg
Các chiến sĩ hải quân VN lên đảo Trường Sa Đông hôm 06/6/2011. AFP photo 
 
“Chiều hôm ấy chúng tôi được đãi một bữa ăn tươi mà họ cũng không nói gì cả. Đến khoảng 4 giờ sáng họ bảo chúng tôi thu xếp quân trang. Khi lên xe, họ đọc lệnh phóng thích tù binh”.
Anh Thoa còn cho biết, khi nghe lệnh được phóng thích, anh vừa mừng vừa sợ. Mừng vì mình có hy vọng được về với gia đình, với tổ quốc thân yêu; nhưng lo vì không biết thực hư như thế nào. Ngồi trên xe, chín người lại nhìn nhau mà im lặng, như lúc họ im lặng trên khoang tàu khi bị bắt mang về Trung Quốc cách đó gần 4 năm. Mỗi người một suy nghĩ, một nỗi lo. Anh Thống nói:

“Sau hơn 3 năm rưỡi, họ đọc lệnh cho về là tất cả đều mừng rỡ, mừng mà không ngủ được. Cứ đợi đến sáng để được lên xe qua biên giới. Được về, dĩ nhiên là vui, nhưng buồn vì mình bị thương nặng thì không biết cuộc sống sẽ thế nào”. 

Không khí im lặng, hồi hộp kéo dài trong suốt 2 ngày đường đi, để khi họ nhìn thấy được lá cờ Việt Nam bay phất phới phía bên kia biên giới, họ mới tin là mình được tái sinh. Anh Thoa tâm sự:

“Lúc ấy vừa vui vừa sợ nên mọi người đều nhìn nhau im lặng. Đến khi được qua bên kia biên giới Việt Nam rồi, chúng tôi rất mừng. Nhìn trong bản đồ tôi thấy Quảng Đông và Cao Bằng rất gần, nhưng không hiểu sao khi ngồi lên xe thì thấy đi lâu lắm. Chúng tôi đi 2 ngày mới đến biên giới Việt Nam.”

Vậy là họ được trả về Việt Nam sau gần 4 năm chịu cảnh tù đày nơi đất khách. Bây giờ nhớ lại, cái cảm giác sung sướng và hạnh phúc vẫn còn dâng trào trong từng con tim, từng chân tóc, thớ da của họ. Họ sung sướng cảm nhận từng bước chân mình trên con đường đất quê hương, mở rộng lồng ngực hít thật sâu mùi cao nguyên xanh thẫm và ngửa mặt như đón lấy cái nắng gió trên bầu trời. Lòng họ hân hoan, nôn nao và hạnh phúc như được sống lại lần thứ hai.

Sau một tháng sống tại khu an dưỡng dành cho hải quân tại vịnh Hạ Long, chín người lính còn sống sót trong trận hải chiến tại Gạc Ma được cho về nhà. Trừ anh Phụng được gia đình lên tận khu an dưỡng đón, tám người còn lại không thể báo tin về nhà. Để rồi khi thấy họ xuất hiện, gia đình chỉ biết khóc và không nói nên lời. Anh Dũng cho biết:

“Cả làng thấy tôi về họ đến thăm. Lúc ấy vì vui quá mà không biết nói gì nữa, mừng quá mà khóc thôi. Gia đình tôi rất mừng, không thể tượng tượng được con mình trở về như thế.”
Rồi trong số họ, có người về nhà và thấy chính ảnh của mình trên bàn thờ. Cho đến bây giờ, anh Thoa vẫn nhớ như in cái ngày đặc biệt ấy:

“Tôi ngồi tàu đi từ Hà Nội về đến Qui Nhơn khoảng 4 giờ sáng. Không biết lúc ấy gia đình vì sao gia đình tôi lại có linh tính. Chiếc xe ôm chở tôi vừa dừng trước nhà thì gia đình mở cửa ra. Lúc ấy tôi mặc trang phục hải quân. Gia đình thấy tôi thì khóc òa lên. Tôi cũng khóc luôn bởi vì lúc ấy bố mẹ, anh em, bác của tôi ai cũng khóc cả. Khóc vì quá mừng.
Lúc tôi trở về nhà thì thấy nhà vẫn còn thờ tôi. Đó là bức hình tôi chụp khi chưa vào quân đội. Lúc ấy tôi mới 15-16 tuổi thôi. Gia đình phóng lớn tấm hình ấy và để trên bàn thờ. Bây giờ tôi vẫn còn giữ tấm hình ấy.
Anh Lê Minh Thoa
Lúc tôi trở về nhà thì thấy nhà vẫn còn thờ tôi. Đó là bức hình tôi chụp khi chưa vào quân đội. Lúc ấy tôi mới 15-16 tuổi thôi. Gia đình phóng lớn tấm hình ấy và để trên bàn thờ. Bây giờ tôi vẫn còn giữ tấm hình ấy.”

Cho đến bây giờ, anh Thoa vẫn còn giữ tấm ảnh thờ của chính mình. Anh Dũng vẫn giữ những tấm hình của đồng đội. Anh Phụng, anh Hải, anh Nhân, anh Đông, anh Thống, anh Hiền vẫn còn giữ những tấm huân chương chiến sĩ... như để khép lại một quá khứ nhưng không chối bỏ nó. Có lẽ hơn ai hết, họ hiểu rằng: họ đã sống thay cho 64 đồng đội mãi mãi nằm lại Gạc Ma ngoài kia.