"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Sonntag, 24. Oktober 2010

Tìm thủ phạm “ám sát” văn hiến

Võ Thị Hảo
Những tâm hồn thấp kém thì không thể thấu hiểu các bậc vĩ nhân. Cũng như những kẻ nô lệ nhe răng cười nhạo khi nghe hai tiếng Tự do.
(J.J Rouseau - 1762)
Nhân đại lễ ngàn năm Thăng Long, Hà Nội (HN) được ngắm nghía đặc biệt kỹ. Chăm sóc nhiều. Khen chê cũng lắm.

Nhiều người không khỏi hoang mang tự hỏi: Văn hiến Thăng Long, còn hay mất? Nếu mất, ai đã cầm nó trên tay và đánh mất? Bọn Người nhập cư đã đánh mất lối thanh lịch Tràng An? Hay kẻ nào? Cần phải tìm địa chỉ để “bắt đền” chứ?!

Quan niệm và ứng xử thế nào về khái niệm Người HN trong kỷ nguyên của Người nhập cư? Liệu còn làm gì được không để cứu vãn nền văn hiến? Ta hãy ngắm xem văn hiến còn hay mất.

* Thân xác: đế chế kiến trúc “quan tài bê tông và hộp diêm vụn”

Nếu đến HN từ các ngõ vào thành phố, đặc biệt là từ phía sân bay Nội Bài đến cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Thanh Trì, cầu Pháp Vân..., với lợi thế ngắm HN từ trên cao, nhiều người sẽ không khỏi băn khoăn: Lẽ nào, đây là nơi mà chúng ta vẫn tự hào là Thăng Long ngàn năm văn hiến?

HN hôm nay trình diện dưới mắt kẻ qua người lại với vô số nhà cửa như một mớ “hộp diêm” hoặc các “quan tài” bằng bê tông lắp ghép bằng các mảnh vụn đủ mọi kích cỡ rồi được ném vô lối xuống mặt đất thành phố qua bàn tay của đứa trẻ chưa biết suy tính đến hậu hoạ ngàn năm.

Những hộp diêm vô hồn ấy ngự ngạo nghễ trên đất HN. Chân của lũ hộp diêm cắc cớ ấy cắm sâu xuống đất, trơ gan cùng tuế nguyệt. Rồi đây, theo các dự án đã được duyệt, sẽ có tới khoảng mấy trăm cao ốc lừng lững dựng ngược dậy, như cọc bùa yểm linh khí, như chông lởm chởm, cắm vào mảnh đất nội đô vốn đã quá tải, vốn đã méo mó hình thù và vô cùng chật chội.

Rồi đây, HN sẽ còn thêm rất nhiều “hộp diêm”, “quan tài” bê tông và toà cao ốc, những chung cư không linh hồn được xây nên. Có đặc điểm nguy hại mà những nhà quy hoạch không để ý. Mỗi lần họ không để ý là một lần bầu trời hoặc những gương hồ HN bị xẻo đi một miếng, mà toàn là những miếng lớn, không có cơ hội vá víu được. Đó là cho phép những toà cao ốc trấn yểm các ngã ba ngã tư thành phố. Cứ theo đà này, sẽ đến ngày một ngày không xa, người HN ngẩng đầu lên mà ngày không thấy trời, đêm không thấy trăng. Đến mặt trăng và mặt trời mà ngày càng xa lạ với con người, thì đương nhiên tầm nhìn của con người ngày càng chật hẹp và bức bối.

Hậu quả là kiến trúc nội đô HN hiện tại không có cách gì sửa chữa được. Nó khủng bố thẩm mỹ của những kẻ hậu sinh, khiến cho thế hệ này đến thế hệ khác ngày càng xa lạ với văn hiến và nền văn minh. Tự động hình thành một tầm nhìn chật hẹp, manh mún, tạp nham nửa quê nửa tỉnh. Một số nhà chuyên môn còn gọi đó là hiện tượng phỉ nhổ kiến trúc, phỉ nhổ những con đường cây xanh, không khí mơ màng bốn mùa, phỉ nhổ những gương hồ quý giá...

Hầu hết mỗi con đường mới tôn tạo đều như những con đê chắn đường thoát nước. Mỗi ngôi nhà mới xây tương tự một cái chốt khổng lồ làm thương tổn nền đất và mạch nước ngầm, đường dẫn nước thải .

Nếu như năm 2008, mọi người đều quá hoảng sợ khi thấy chỉ sau ba ngày mưa mà HN đã thành sông biển và nhiều người chết đuối ngay trên mặt phố nội đô. Để phòng ngừa, Ngân sách đã phải chi một khoản tiền lớn đầu tư chống úng ngập. Hiệu quả sau khi bơm thêm rất nhiều tiền, hai năm sau, kỷ lục chuyển phố thành sông biển sau mưa ở HN nhanh hơn gấp nhiều lần. Sau trận mưa to kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ sáng ngày 13/7/2010, lượng nước mưa ấy không thể tự tiêu. Sau năm giờ đồng hồ các trạm bơm hút cật lực, giao thông HN mới khả dĩ nối lại.

Bên cạnh các đền chùa miếu mạo mà hồn đã lìa khỏi xác, là những khu dân cư lộm nhộm đủ kiểu nhà, đủ kiểu người, đủ kiểu quần áo phơi phóng giăng mắc cơi nới điện mạng nhện lâu nay được điểm tô thêm một cái nốt mụn cóc: đó là tấm biển thô thiển đề “Khu dân cư văn hoá”. Hoàn thiện thêm bức tranh ấy, tiếng loa phóng thanh theo lối thời chiến ngày hai ba lần bất thần nổ ra trên đầu toàn thể cư dân, theo cách tuyên truyền áp đặt, buộc tất cả nam phụ lão ấu và khách nước ngoài đều phải nghe những nội dung tuyên truyền nghèo nàn, chủ yếu là mục chính quyền cơ sở tự khen mình, những bài hát chiến tranh đã cũ mèm, những nội dung thông tin xa rời sự thật, góp phần làm hỏng thẩm mỹ và tâm hồn nhiều thế hệ.
Có thể gọi kiến trúc HN mấy chục năm qua cho đến hiện tại là đế chế kiến trúc “quan tài bê tông và hộp diêm vụn”. Loại ô nhiễm môi trường ở tầm vĩ mô.

Dường như người Việt Nam, đặc biệt là HN, có một năng lực đặc biệt trong việc làm xấu đi những ân sủng do thiên nhiên ban tặng. Quy hoạch đô thị từ mấy chục năm nay vẫn là manh mún và chắp vá, luôn chỉnh sửa theo ý chí của nhiều vị lãnh đạo có khi chỉ mới tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở hoặc không có kiến thức gì về quy hoạch. Theo một số kiến trúc sư cho biết, năm 1972-1973, một đại diện của Hội Mỹ thuật đã đề nghị “nên vẽ một HN hình nắm đấm hướng về phía Nam để thể hiện ý chí “đánh cho Mỹ cút...”.

Còn vùng HN mới xây và đang xây có duyên không? Có “văn hiến” không?

Có một HN mới được tính từ khu Mỹ Đình và mở rộng ra các vùng lân cận ngoại thành HN, một chuỗi những khu đô thị vệ tinh sắp hình thành nay mai.

Nhưng bằng vào tất cả những gì đã xuất hiện, lại đã thấy cái thẩm mỹ trọc phú, manh mún vụn vặt, vô hồn, bắt chước kiến trúc la liệt chung cư của một số TP biên giới của Trung Quốc mà bây giờ người ta đã nhận ra sai lầm và đang cố khắc phục mà không nổi. Bắt chước lối kiến trúc ấy nhưng lại kém xa về thẩm mỹ và về nhịp không gian thư giãn so với Trung Quốc. Những ngôi nhà chọc trời ganh đua mọc trên một diện tích chật hẹp là thứ kiến trúc đã bị nhiều nước tẩy chay, bỗng trở nên mới mẻ và thịnh hành ở HN và Việt Nam. Ta đã thấy kết quả tội nghiệp của việc nhặt nhạnh kiến trúc Trung Quốc Hàn Quốc, những toà nhà không linh hồn được đua nhau đẩy lên cao hết cỡ để kiếm lợi nhuận tối đa bất luận hậu quả thế nào.
Sự tham nhũng gần như không bị ngăn cản của một hệ thống vận hành ráo riết khiến cho mỗi toà nhà cao tầng có thể biến thành những lò nướng người nếu có xẩy ra hoả hoạn. Theo thống kê của ngành phòng cháy chữa cháy, khoảng 90% toà nhà cao tầng đã xây hiện nay không trang bị hoặc trang bị rất hời hợt về thiết bị báo cháy, chống cháy và thoát hiểm, nhìn chung là rất ít khả năng vận hành. Các nhà đầu tư và quản lý cao ốc đã kiếm rất nhiều tiền và còn tiếp tục móc túi người tiêu dùng bằng nhiều lối bội tín.

* Linh hồn: Đốt đuốc đi tìm bản sắc

Trong phố HN mà chúng ta vẫn mơ mòng nựng tai mình bằng các mỹ từ: thanh lịch, ngàn năm văn hiến, hào hoa..., thì trớ trêu thay, lại cứ có những “hiện vật” nhỡn tiền giễu cợt đám mỹ từ đó, khiến cho người ta cứ phải hoang mang trăn trở.
Nói chuyện Thăng Long, đương nhiên phải kể đến Hồ Gươm. Thiên nhiên đã hào phóng đeo chiếc nhẫn ngọc lục bảo quý giá ấy cho HN. Hồ Gươm còn duyên bội phần bởi là nơi duy nhất có các cụ rùa thiêng ngộp thở thỉnh thoảng lên phơi nắng, tha hồ cho lũ con cháu kẻ tưởng bở kẻ lo sợ, khấp khởi đoán già đoán non.

Nhưng Hồ Gươm lâu nay lại là nơi chiếm hữu của những chúng nhân quần đùi áo may ô, đồ bộ, quần lửng nhàu nát mướt mồ hôi... của lũ lượt những người đi tập thể dục ngày vài ba bận dưới cái nhìn ngỡ ngàng của du khách.

Văn hiến và thanh lịch đó chăng? Người HN xung quanh Hồ Gươm, quanh các dẫy phố cổ ăn mặc thế sao? Đâu rồi những bóng áo dài? Kể cả áo dài của những người xay thóc giã gạo và buôn thúng bán mẹt thuở trước? Cái thuở HN còn rất nghèo, còn rất quê mùa, chỉ là nơi ở của những người đánh cá trồng hoa trồng lúa nước và buôn bán vặt vãnh nhưng hễ bước chân ra khỏi ngõ, người ta coi việc ăn vận không tươm tất là một sự tự xỉ nhục.

Thanh lịch đâu rồi? Khi những hậu sinh của họ lâu nay, trên môi luôn trề dài hai chữ “nhà quê “ để miệt thị những người không làm vừa mắt họ?

Những người không làm vừa mắt họ thì quá nhiều. Có thể là những người lao động nhập cư dạt về thành phố kiếm sống và đang phục vụ nhu cầu thuê mướn của người thành phố với giá rẻ mạt và bị chính sách hộ khẩu đã lỗi thời gạt ra rìa xã hội. Cũng có thể là những chúng sinh thành công hơn họ kể cả về địa vị và tài chính do nỗ lực, do có ý chí và dám thay đổi nên nắm bắt được thời cơ... Cái từ nhà quê thường trực nhả ra trên môi nhiều người HN và cách nhìn kỳ thị ghen tỵ không những không làm cho họ thanh lịch lên mà còn thể hiện một sự tự ti thảm hại.

Rất nhiều người từ nơi khác đến đã thốt lên: ở xa nghe phố Hàng Đào Hàng Ngang, tưởng tượng đó là dãy phố hào hoa đẹp đẽ, mang bản sắc HN ghê lắm, đến nơi mới biết trông chẳng khác gì dãy phố chợ quê với rất nhiều hàng rởm hàng nhái và chủ yếu là hàng Trung Quốc.

Nhiều người, dù đã ở HN vài ba đời và kiếm được nhiều tiền nhưng vẫn nói ngọng và chửi tục, nhiều hộ gia đình dùng chung những “chuồng xí” thời đổ thùng cách đây vài thế kỷ và luôn đùn đẩy trách nhiệm vệ sinh cho nhau. Họ vận quần áo xộc xệch nhếch nhác đi quanh phố. Họ thà chen vai thích cánh cắn rứt nhau mười mấy người trong vài chục mét vuông, còn hơn là đồng lòng chung sức ra khỏi ngõ hẻm chật hẹp, tìm một lối thoát mới.

Thử vào quán ăn, nhà hàng, công sở, đường phố nào ở HN mà xem, tai bạn thường khi sẽ chứa đầy những tiếng văng tục chửi thề miệt thị mang tính côn đồ. Thậm chí, HN là nơi gần như duy nhất trên cả nước cho phép tồn tại và nhiều người còn vui vẻ chấp nhận kiểu chủ quán ăn tha hồ chửi bới khách hàng. Miếng ăn phải trả tiền ở đây thực sự là mua miếng nhục. Thế mà người HN còn ngồi ăn, ăn đi ăn lại, và nhăn nhở cười! Đó là một dạng bạo lực tinh thần không thể chối cãi.

Nhiều người Sài Gòn và khách nước ngoài lấy làm ngạc nhiên về điều này lắm, hỏi bạn bè rằng, có phải người HN lấy văng tục chửi thề và khạc nhổ làm đầu vị để khẳng định bản sắc không?

Ta có thể tựa vào đám di tích văn hoá lịch sử của cổ nhân để lại để kể lể về bản sắc và hồn cốt dân tộc? Những chùa đình miếu mạo sau trùng tu tổn phí biết bao mồ hôi nước mắt của dân, đang nói lên điều gì?

Theo nhận định của nhiều người trong giới báo chí và giới chuyên môn, thì cần phiên dịch lại cho đúng khái niệm. “Tôn tạo” cần được hiểu là “đổ tiền dân vào để phá nốt”.

Đa phần các di tích đành ngậm ngùi lâm cảnh mất mát rất nhiều cổ vật, với những những đường nét, nghi trượng mới tạo nên bằng bê tông với những bàn tay thô vụng, đứng tẽn tò phô sự giả tạo trước khách thập phương.

Sự hãi hùng quyền lực trong lề thói cầu cúng, không khí hối lộ và mua chuộc, tham lam khẩn thiết xin xỏ vật chất đã hoàn toàn thoán đoạt tín ngưỡng và tôn giáo thuần khiết. Thật đáng sợ khi vào các đền chùa đình miếu ở khu vực HN.
Khấn lạy van vái quyền lực ở cõi dương khốn khổ nhục nhã thế chưa đủ, người ta hăng hái hối lộ cõi âm, dùng cả đến những hành vi bỉ ổi do đám buôn thần bán thánh xúi giục, nhét cả tiền vào tay các pho tượng thần phật để cầu lợi. Những hòm công đức mọc lên như nấm tại các đền chùa miếu mạo là thí dụ cực kỳ nhục nhã đối với sự xuống cấp của nhân cách sống, thế giới tinh thần và tín ngưỡng của HN và người Việt Nam nói chung.

Rồng sẽ bay trên bầu trời nào? Liệu có còn thấy được rồng bay?

Còn làm gì được nữa với một HN cũ – nhiều người nói vớt vát rằng nó cổ. Không nhúc nhích được. Không sửa chữa được. Định mệnh của những kẻ sinh ra và sống ở HN này là mở mắt ra là phải nhìn thấy cái xấu, cái vỡ vụn, cái quái thai hậu quả của một nền giáo dục và kiến trúc, văn học nghệ thuật được chăng hay chớ, thiếu thẩm mỹ cho đến nay đã phát tác đến đỉnh.

Theo khảo sát của ngành du lịch thì hơn 85% du khách đến HN chỉ một lần, không quay lại. Những ưu điểm như cảnh sắc thiên nhiên phong phú tươi đẹp, giá sinh hoạt còn rẻ so với giá ở những nước phát triển, tàn tích của lối sống lộn xộn quê kiểng ở một xứ sở còn nhiều mông muội pha lẫn sự hối hả ban đầu của thời kỳ tư bản hoá còn có thể nhìn thấy ở VN không đủ kéo du khách trở lại bởi sự bẩn thỉu cổ lỗ của những phương tiện đi lại, sự thiếu linh hồn văn hoá và không giữ chữ tín của dịch vụ cùng tai nạn giao thông rình rập.

* Phác thảo bức tranh HN

Để mô tả bức tranh HN ngày nay, lại là những nét phác thảo “nhát gừng”, làm nhức mắt người xem.

HN là:

Là khoảng 700 cái hồ tự nhiên hồi đầu thế kỷ 20 nay đã bị ám sát gần hết, chỉ còn khoảng 44 chiếc, và đang biến thành ao.

Là mấy dòng sông đẹp đựơc biến thành cống rãnh.

Là phố cũ HN bẩn thỉu, nhếch nhác được tự an ủi thành phố cổ và mấy chục năm nay vẫn chưa biết nên bảo tồn và tôn tạo thế nào.

Là hầu hết di tích gặp nạn trùng tu tôn tạo mà hồn lìa khỏi xác.

Là một nền học thuật và văn hoá phong tục lễ nhạc dựa vào chữ Hán và văn hoá Trung hoa làm gốc và ngày nay nhiều người còn nô lệ tới mức khấn khứa cầu xin van vái cũng phải bằng chữ nho( chữ Hán), trong khi 99,9% thần phật ông bà cha mẹ tổ tiên ngự ở trên kia không biết lấy một chữ Hán bẻ đôi.

HN là nơi nhiều người tham nhũng nhất nước. HN là nơi tỉ lệ người cân gian đong thiếu, trộm ngày cướp ngày, nói năng tục tĩu và nói xấu sau lưng nhau nhiều nhất nước và văn hoá thô tục được người ta sử dụng như một cách khẳng định cá tính và ăn trên ngồi trốc thiên hạ.

Những đường phố thơ mộng của HN xưa, nay là những dòng sông người ăn mặc xấu xí bởi áo chống nóng khăn bịt mặt vì quá ô nhiễm, như cả một thế giới khủng bố, một thế giới nặc danh, đi lại hết đờ đẫn là náo loạn trong tiếng động cơ xe rền vang và tiếng còi xé tai. Xê dịch như một đàn kiến đã bị tước bỏ lý trí.

Những công trình chào mừng ngàn năm Thăng Long chủ yếu mang tính hình thức, chủ yếu đầu tư vào lễ hội và công trình xây dựng tốn kém đáng ngờ, mang tính đối phó ăn xổi ở thì...

Cái đẹp và văn hiến Thăng Long, đương nhiên chưa phải đã chết. Nhưng khi cái đẹp chỉ còn rơi rớt đâu đó mà ngoi ngóp ngộp thở trong cái xấu, cái thô lậu, con người vin vào đâu để đảm bảo cho sáng tạo tương lai?

Văn hiến là gì? Có thể có nhiều cách hiểu.

Nhưng không thể quan niệm văn hiến như một mớ thư tịch, khuôn phép, trước tác ...đã định hình và được đóng thành khuôn mẫu. Văn hiến được xây dựng, bồi đắp từ các cư dân trong cộng đồng, luôn vận động và thích ứng để cuối cùng, phục vụ cho nền văn minh và chất lượng sống của con người. Về đại thể, văn hiến chỉ trạng thái phát triển của mỗi dân tộc. trạng thái đó bộc lộ khả năng khắc phục tình trạng sơ khai, thấp kém lạc hậu để vươn tới sự tiến bộ, cao đẹp hơn, với sự phong phú của đời sống tinh thần. Văn hiến còn bao gồm một nội dung hết sức quan trọng khác, là phải tạo môi trường đào tạo được những con người ưu tú cả về trí tuệ, phẩm cách, tài năng cho đất nước.

Một khi nền văn hiến suy vi, đương nhiên ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống của con người.

Ám sát văn hiến, cũng có nghĩa là một nền văn minh và tương lai bị ám sát.
Lâu nay, người lạc quan nhất thì cũng nhận thấy rằng nền văn hiến HN đã suy vi tột độ. Thì phải có thủ phạm chứ.

Nếu nhận diện không trúng thủ phạm, lại tự an ủi bằng cách đổ quanh cho nhau, thì nền văn hiến lại cứ bị “ám sát” tiếp.
Ai?

Dân nhập cư đã “ám sát” văn hiến? 

Một số người HN thường hay nói rằng, chúng tôi vốn thanh lịch lắm, chúng tôi làm nên nền văn hiến Thăng Long, chẳng qua dân nhập cư tứ chiếng đến đây bê nguyên những thói hư tật xấu của họ về làm xấu mặt thủ đô đấy thôi.
Có đúng không? Phải chăng người HN đã bắt được thủ phạm ám sát nền văn hiến Thăng Long và chỉ đích danh: dân nhập cư!

Vậy, dân nhập cư là ai?

Quan niệm về dân nhập cư càng ngày càng mở rộng nội hàm. Dân nhập cư bao gồm những người đến từ các địa phương trong cả nước và cả đến từ các quốc gia khác trên thế giới.

Ta hãy xét xem, có phải dân nhập cư là thủ phạm ám sát nền văn hiến không?

HN, vốn xưa là Đại La thành, dân cư thưa thớt, đánh cá buôn bán nhỏ và cày ruộng. HN năm 2010 dân số khoảng 5 triệu người. Và trong một tương lai gần, HN là thủ đô có tới khoảng 10 triệu dân.

Ta có thể nhìn rõ trong dân số hùng hậu đó, tỉ lệ cơ bản là người nhập cư.

Về cội nguồn, HN từ trước đến nay, là TP của người nhập cư. Ngay cả Lý Thái Tổ – tức Lý Công Uẩn – người sáng lập kinh thành Thăng Long lại càng đích thị là dân nghèo nông thôn từ ngôi làng heo hút Cổ Pháp, Tiên Sơn, Hà Bắc nhập cư về kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) rồi về HN. Đến Hồ Chí Minh – người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà – cũng là dân nhập cư. Và hiện nay, tỉ lệ những người nhập cư chiếm phần lớn trong hầu khắp các cấp lãnh đạo đảng và chính quyền VN, chưa kể các tầng lớp văn nghệ sĩ và các nhà khoa học, nhà kinh doanh...

Chính bản thân người nhập cư, bằng mồ hôi nước mắt và máu của mình, đã làm nên HN, từ thuở bán khai, từ thuở Đại La thành, rồi cho đến khi Lý Thái tổ dời đô từ Kinh Hoa Lư về, năm 1010, đặt tên là Thăng Long thành.

Bởi thế, sẽ thậm vô lý, nếu quan niệm HN tách rời khỏi những người nhập cư và ngược lại.

HN là Kẻ chợ. Cội nguồn HN là Tứ chiếng. Động mạch nuôi sống kinh đô là hợp lưu của những dòng máu tứ chiếng. Bản chất của kinh đô là dung nạp. Là cái miệng phễu tham lam không đáy thu hút nhân tài tứ chiếng đem về xây dựng, tôn tạo nên nền kinh tế, nền văn hiến và cuối cùng là để tạo nên nền văn minh Thủ đô, tạo nên một kinh thành ánh sáng về mọi mặt, để làm đầu tàu cho cả nước đi tới tương lai tươi sáng.

Nếu một thủ đô, một thành phố, ngay cả một vùng nông thôn, mà không thu hút được người nhập cư, để thu hút tài năng, kinh nghiệm, sức sáng tạo của tứ xứ về làm giàu và làm vui cho vùng đất mình, thì đó là một xứ sở tù đọng và rất dễ chết yểu do bế quan toả cảng và tăm tối.

Đất Thủ đô thời phong kiến là nơi tổ chức những cuộc thi đình và nhiều cuộc thi khác để chọn người tài. Nơi đây trong nhiều năm là cơ hội rồng mây của những hàn sĩ thức chảy máu mắt, dùng ánh sáng đom đóm để học hành tu luyện. Qua lối mở của cách quản lý nhân khẩu và cư trú, qua những cuộc sát hạch ngặt nghèo, người nghèo có năng lực cũng được ngang bằng cơ hội với những công tử, những phú hào trong việc được vua giao những trọng trách gánh vác sơn hà xã tắc và trở nên sang quý bằng kiến thức và ý chí.

Tiếp nối truyền thống đó, đất thủ đô trong chừng ấy năm cho đến ngày nay, đã vớt vát được nhiều học sinh nghèo thực sự có năng lực và bền bỉ. Bằng thi cử, bằng nỗ lực, họ đã có nhiều cơ hội gia nhập vào đội ngũ trí thức và tầng lớp kinh doanh, tầng lớp lao động công nghệ cao, làm nên dưỡng chất nuôi sống HN cả về tinh thần và vật chất.

Cần phải phân định rõ rằng, nếu nền văn hiến HN có bị suy vi, hay những tình trạng tồi tệ đó xẩy ra ở bất kỳ nơi đâu tại VN và trên thế giới, thì hoàn toàn không chỉ do dân nhập cư, cũng không chỉ do dân sở tại( cần nói rõ là dân HN gốc là dân nhập cư sớm hơn so với dân HN mới nhập cư gần đây). Đổ tội cho dân nhập cư là đổ tội cho chính mình. Đó là một nhầm lẫn khiến cho tình trạng càng thêm thảm hại.

Và do nhầm lẫn về nhận định “thủ phạm”, nên gần đây, có một số biện pháp từ phía những người có trách nhiệm thể hiện một thái độ phân biệt đối xử rất rõ ràng với người nhập cư HN.

*Cụ Lý Công Uẩn bị từ chối nhập cư

UBND TP HN hiện có dự án Luật Thủ đô (DL) trình Quốc hội (đã soạn thảo đến lần thứ 4 – dự dịnh ban hành nhân kỷ niệm ngàn năm Thăng Long nhưng có nhiều ý kiến phản đối nên tạm hoãn, dự định thông qua và công bố năm 2010). Trong bản DL có nhiều vấn đề bất cập.

Thứ nhất là, có cần phải ban hành luật Thủ đô không?

Trước hết, ban hành Luật Thủ đô là không hợp hiến. Theo ông Trần Thế Vượng, Trưởng Ban dân nguyện của Quốc hội, Hiến pháp không có quy định riêng về Thủ đô. Ý kiến của nhiều luật gia và đại biểu Quốc hội là có một số điều DL trái với Hiến pháp. Chẳng hạn quy định cho HĐND TP HN quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong khi Hiến pháp quy định chỉ có Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Rõ ràng, nếu ban hành Luật thủ đô thì các thành phố khác cũng có cớ để xin ban hành luật riêng cho các tỉnh, thành phố của họ. Chẳng hạn, TP Sài Gòn, là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, đóng góp phần lớn GDP, họ có lý do để đề nghị ban hành Luật TP đặc thù? Điều này sẽ dẫn tới tình trạng khu biệt và cát cứ quyền lực, dễ bị lạm dụng.

Theo công bố của Bộ Tư pháp, trên thế giới rất hiếm nước có luật thủ đô, chỉ trừ một số nước theo mô hình Liên bang như Canađa, Ấn Độ... Cho một thủ đô, chỉ cần quy chế là đủ.

Thứ hai, DL có những quy định ngăn trở quyền tự do đi lại và tự do cư trú của công dân như điều 68, điều 55 của Hiến pháp và điều 5 Bộ luật lao động VN. Bên cạnh đó, những quy định này cũng vi phạm điều 23 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá mà VN đã gia nhập và ký cam kết thực hiện từ nhiều năm nay.

Theo DL, người nhập cư phải tạm trú liên tục 5 năm mới có hy vọng được chấp nhận thường trú HN, trong khi Luật cư trú quy định một năm là đủ điều kiện. Chưa kể một bất công khác: khoản 2 điều 19 dự thảo quy định về điều kiện làm việc tại HN phải có Giấy phép lao động do Sở Thương binh Xã hội của thành phố cấp. Đây là một điều khoản gây kinh hoàng cho những công dân đã thấm thía thế nào là thủ tục hành chính và nạn giấy tờ ở HN nói riêng và VN nói chung!

Trên thực tế, việc phân biệt đối xử ấy cũng sẽ không ngăn cản được dòng công dân nhập cư về HN do điều chỉnh tự nhiên của chuyển dịch cơ học dân số. Dẫu cho số người này sẽ họ bị bần cùng hoá do bị phân biệt đối xử, con cái của họ bị gạt ra ngoài lề xã hội không được vào các trường học, bệnh viện, các loại bảo hiểm và phúc lợi xã hội khác như đã từng xẩy ra... Như thế, chẳng những không kiểm soát được mà còn là ngược đãi người lao động lương thiện và làm cho bộ mặt thủ đô càng nhếch nhác hơn.

Xét về phương diện hợp hiến cũng như hợp tình hợp lý, việc ban hành Luật thủ đô là không cần thiết, là xác định sai thủ phạm “ám sát” nền văn hiến và văn minh HN, gây phân biệt đối xử, nạn giấy tờ, nạn sách nhiễu, ảnh hưởng đến quyền con người và hạn chế sự phát triển tự nhiên của Thủ đô.

Để xây dựng một Thủ đô HN có văn hiến và văn minh, không thể dùng các biện pháp hành chính thô bạo, hẹp hòi, những luật lệ riêng biệt để hạn chế người nhập cư và ngăn trở cơ hội thi thố tài năng, cơ hội việc làm của những người nghèo trong cả nước.

Hầu hết các đế vương khởi nghiệp tại Việt Nam đều xuất thân từ con nhà nghèo và từ những miền xa tới, do tài năng mà “nhập cư” về kinh đô. Giả sử thời đó, các đế chế, hoặc những vị cai quản đất Hoa Lư, đất Thăng Long hay đất Huế...mà có chủ trương hạn chế người nghèo nhập cư như bây giờ, thì lịch sử VN đã không là những trang sử anh hùng quật cường như thế này.

Một so sánh có thể khập khiễng, nhưng không phải không có cớ để liên tưởng, dù là một giả tưởng hài hước. Nếu hồi cuối thế kỷ 10, đầu thế kỷ 11, tại kinh đô Hoa Lư, thời Lê Ngọa Triều – vị vua nổi tiếng tàn ác nhất trong lịch sử VN – mà áp dụng những điều khoản hạn chế người nhập cư tương tự dự luật Thủ đô bây giờ, thì Lý Công Uẩn sẽ bị trục xuất ra khỏi nội đô Hoa Lư. Không có cơ hội Lý Công Uẩn vào kinh, lĩnh chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, có dịp lên ngôi vua khi Lê Ngọa Triều chết. Thế càng không có chuyện dời đô, sáng lập kinh thành Thăng Long vào mùa xuân 1010!

Máu và nước mắt cùng trí tuệ, tài năng của dân tứ xứ đã để lại, đã hoà nhập cùng người HN bản địa để làm nên kinh đô này từ bao đời. Phân biệt đối xử, bạc đãi họ bằng những quyết định hành chính vội vàng, vi hiến là xoá bỏ cơ may duy nhất còn lại của HN, và quan trọng hơn, xoá bỏ điều kiện sinh tồn cốt tử của đất Kẻ chợ này.

Vậy thủ phạm “ám sát” nền văn hiến là ai?

Về trình độ văn hoá mà nói, thì trình độ cư dân HN hiện nay cao hơn rất nhiều so với cái thời còn gọi là Tràng An. Thời đó dân HN nội đô còn lội bùn, răng đen mắt toét, nhiều người mù chữ. Cái lối “giấy rách giữ lề”, ăn mặc cử chỉ thanh lịch, chỉ xuất phát từ trong số rất ít các nhà nho, nhà quan lại...

Số lượng người này chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thế nhưng ảnh hưởng của lề thói ấy lại có sức lan truyền lớn đến xã hội, khiến cho những người mù chữ nơi thôn quê cũng tự thấy thuyết phục bởi cái hay, cái đẹp mà làm theo.

Cái hay, cái đẹp trong văn hoá và lề thói không phải bao giờ cũng đi cùng với cái tiện lợi và điều kiện vật chất. Chẳng hạn như thói quen mặc áo dài (có thể là áo tứ thân với nữ, áo lương khăn xếp với nam...) khi đi ra cộng đồng. Thời ấy, người dân VN còn rất nghèo, nhiều khi cả mấy người trong nhà mới chung nhau may được một manh áo lành, mà công việc lao động thì rất lam lũ, nặng nhọc, đường sá thì lẩy lội. Còn ngày nay, khi vải vóc và điều kiện mua sắm, điều kiện lao động, giao thông đi lại được cải thiện lên hàng vài chục lần, thì người HN và nhiều nơi trong cả nước lại ăn mặc xốc xếch, đồ bộ quăn queo, quần đùi áo may ô đi ra đường và đua nhau nói tục chửi bậy, đua nhau côn đồ lừa lọc.
Như thế, vấn đề nằm ở đâu?

Để trả lời câu hỏi này, cần những công trình khảo cứu nghiêm túc của các nhà chuyên môn để đề ra những biện pháp hữu hiệu cứu vãn.

Một điều mà mọi người đều thừa nhận, là chính những người có vị thế, có trách nhiệm, các chức sắc, các nhà quản lý văn hoá, các văn nghệ sĩ, trí thức trong xã hội, trước hết, phải có trách nhiệm trở thành những hình mẫu đẹp, thanh lịch, có trí tuệ, phẩm cách, ứng xử đẹp... Sự tuỳ tiện, tham nhũng, thiếu thẩm mỹ, kém văn hoá, tính vật chất thực dụng thô thiển ở nhiều người trong đội ngũ tầng lớp trên này đã khiến dân chúng tuyệt vọng, thậm chí còn muốn phá bĩnh như một cách đối phó hoặc xả bớt nỗi tức giận.

Cần phải thừa nhận một thực tế rằng, thủ phạm của việc ám sát văn hiến, trước hết nằm ở chính những người có trách nhiệm.Với cây quyền trượng trong tay, những người lãnh đạo có thể xây dựng văn hiến hoặc nhanh chóng ám sát văn hiến.

* Để cứu vãn: cần cam kết một Khế ước văn minh

Với thời đại mang vận tốc chóng mặt như hiện nay, nếu để tính dã thú tự do khuynh loát, thì không khác gì ta mua chiếc máy bay phản lực rồi đặt một dã thú lên ghế điều khiển bay. Dã thú di chuyển với tốc độ máy bay phản lực, tác hại là khôn lường.

Nếu những người quản lý xã hội không kiềm chế được tính dã thú, thì mọi nỗ lực của cộng đồng sẽ bị vô hiệu hoá và mỗi ngày qua là lùi một bước trở về thời dã man. J.J.Rouseau, nhà văn, nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng ảnh hưởng đến cuộc Cách mạng Pháp 1789, ngay từ năm 1762 đã cay đắng mà viết rằng “Những tâm hồn thấp kém không thể thấu hiểu các bậc vĩ nhân. Cũng như những kẻ nô lệ thì nhe răng cười nhạo khi nghe hai tiếng Tự do...”.

Một đất nước muốn phát triển, đạt đến mục tiêu hạnh phúc cho mỗi người, thì đất nước ấy không thể thiếu những nhà lãnh đạo và công dân có tri thức, có lương tri, có lòng cao thượng và văn minh. Sự tăm tối và giáo điều, sự nô lệ trong hành xử và tư tưởng, nhất là trong thời đại ngày nay, chắc chắn sẽ đưa đến thảm hoạ.

Nhiều kinh thành sở dĩ trở thành Kinh đô ánh sáng, chính vì trước hết, bao nhiêu thế hệ các điền chủ, các chức sắc, các nhà quý tộc và các tổng thống, các Thủ tướng, lãnh đạo chính phủ và các địa phương, thành phố sau này đã biết chịu học hành, rèn luyện, học cách thưởng thức cái đẹp, trau dồi nhân cách và thẩm mỹ, bổ sung và cập nhật kiến thức về văn hoá, khoa học,văn học nghệ thuật.

Trong cuộc đời của họ, nhiều người đã đầu tư phần lớn tài sản cho các công trình kiến trúc, nghệ thuật, bảo trợ sáng tác cho các hoạ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, nhà khoa học… có thực tài và sau đó, những công trình này lập tức trở thành tài sản quốc gia.

Họ hiểu rất rõ một chân lý: sự sang trọng và quý phái, trước hết và cuối cùng, chỉ là sự sang trọng về văn hoá và văn minh chứ không nằm ở tiền bạc. Trọc phú là một tình trạng đáng xấu hổ. Paris hẳn đã khác nếu các nhà chức sắc của Pháp chỉ quan tâm đến việc tiệc tùng, vui chơi giải trí, ăn nhậu hưởng lạc, làm nô lệ cho tiền bạc và không hiểu biết gì về văn học nghệ thuật...

Rõ ràng, trình độ văn hiến và văn minh của một địa phương nào đó tự nó quảng cáo hoặc tố cáo, tự nó phơi bày tầm nhìn, khả năng lường trước vấn đề, trình độ, trách nhiệm và thẩm mỹ của những chức sắc - những người có trách nhiệm - giai cấp lãnh đạo - tầng lớp trên của địa phương đó. Thực trạng ấy, dẫu có dùng các phương tiện vật chất để che đậy cũng không có tác dụng và càng che đậy chỉ càng thảm hại mà thôi.

Trụ đỡ cho văn hiến, hạnh phúc cho mỗi công dân cũng như của mỗi quốc gia, chính là mọi người phải cam kết một Khế ước văn minh và hành động. Trước hết từ phía những nhà quản lý rồi tới các công dân.

Trong quá khứ, cha ông ta rất cần cù lao động, nhưng đã để lỡ cơ hội đổi mới và phát triển để theo kịp đà tiến của những nước như Nhật Bản. Nhật Bản đã từ một nước kiệt quệ, phong kiến bảo thủ, lệ thuộc giáo lý Khổng Tử và Trung Quốc, trở nên một cường quốc đứng thứ ba thế giới về kinh tế, xã hội cũng như các phát minh sáng tạo, tự do dân chủ và phúc lợi cho người dân. Cũng nhờ thế, Nhật Bản là nơi có nền văn hiến bền vững thuộc loại nhất nhì thế giới. Có được điều đó là nhờ tinh thần khai sáng quyết liệt, mang tên “Thoát Á luận” mà Nhật Bản đã tận dụng rất hiệu quả trong những năm đầu thế kỷ XX. Đặc biệt tinh thần khai sáng này được hưởng ứng và nhân rộng trong giới trí thức và văn nghệ sĩ Nhật Bản, được sự thực hiện mạnh mẽ của vua Minh Trị.

Như thế, nhờ những cam kết văn minh, nhìn thẳng vào thực trạng của chính mình và nhận thức rõ những điều kiện và thách thức của thời đại mà Nhật Bản đã thoát khỏi cái vỏ chật hẹp, vươn mình lớn dậy thành người khổng lồ. Cũng chỉ cần một khởi đầu quyết liệt khai sáng như vậy, cả trăm năm nay, Nhật Bản đã vững bước tiến trên con đường phát triển, mang vận tốc nằm trong tốp các nước tiền phong nhất của thời đại.

Trong khi đó, rất nhiều nước trong phần còn lại của thế giới, cho đến nay, vẫn tiếp tục trong mớ bòng bong tự mãn của mình, chưa thôi bị giam hãm trong những chiếc “túi da” chật hẹp, luôn sợ hãi và chỉ trích kẻ khác chỉ để cố thủ, chỉ loay hoay cố gắng trong việc bắt chước, mô phỏng từ văn hoá tới công nghệ, bán sức lao động rẻ mạt hoặc cho thuê, bán đất đai tài nguyên ngày càng cạn kiệt. Càng sợ hãi càng cố thủ, những đất nước phát triển theo kiểu ấy càng dễ mất danh dự, thời cơ, biến thành bãi thải công nghệ của các nước phát triển, hoặc bằng mọi giá cung cấp hàng hoá và sức lao động giá rẻ nhưng kém phẩm chất, mang tính lừa đảo, cho đến lúc bị thế giới tẩy chay.

Việt Nam đang cần một sự khai sáng quyết liệt. Một cam kết thực hiện Khế ước văn minh. Nếu không bắt đầu từ bây giờ, sẽ là quá muộn và tất cả chúng ta đều bị tổn thương, đều bị lụi tàn bởi tình trạng dã thú này, kể cả những người ở tầng lớp có quyền lực lớn.

Có những vận hội mới. Nếu biết tận dụng, sẽ vãn hồi nền văn hiến, đem lại văn minh, hạnh phúc và danh dự cho người Việt Nam. /.

V. T. H.