Phạm Cao Dương
Công hàm mang tên và chữ ký của ông Phạm Văn Đồng, người đã nắm chức thủ tướng trong chính quyền Cộng Sản Việt Nam lâu nhất trong lịch sử, đã trở thành trọng tâm của sinh hoạt báo chí và truyền thông cũng như các cuộc tranh luận của không riêng người Việt mà còn cả quốc tế nữa. Tội danh bị coi như là bán nước của ông thủ tướng họ Phạm và những kẻ đồng lõa với ông cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam sau một thời gian dài được giấu kín, đến thời điểm này đã được những người liên hệ thú nhận và vụng về bào chữa. Trong ít ra là mười tuần lễ Hà Nội và Saigon với những cuộc biểu tình của ngưòi dân thuộc đủ mọi thành phần, đặc biệt là của những nhà trí thức và những chuyên viên hàng đầu của chế độ đã trở thành hai trung tâm được người Việt từ mọi nơi hướng về và được giới quan sát quốc tế hàng ngày theo dõi.
Trong
sinh hoạt vô cùng sôi bỏng kể trên, qua sinh hoạt văn nghệ và đấu
tranh của người Việt ở Hải Ngoại, một bài hát được làm từ trước, từ năm
2008, đột nhiên được phổ biến rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới, rồi
theo những làn sóng truyền thanh và truyền hình, quốc tế cũng như của
người Việt, những mạng điện tử… truyền về trong nước và được chính
những người biểu tình ở trong nước cùng nhau hát rồi được các khán giả
ngoài nước thích thú hát theo. Đây quả là một hiện tượng bất ngờ chỉ có
thể xẩy ra ở thời đại điện tử. Nhạc Sĩ Trúc Hồ và bài Đáp Lời Sông Núi
của ông bỗng nhiên trở nên quen thuộc đối với mọi người dù người đó là
một cá nhân ngồi trước máy truyền hình hay máy vi tính ở nhà riêng của
mình hay một đám đông tụ họp với nhau chống “Trung Cộng xâm lược và Việt Cộng bán nước”
ở khắp các vùng trời Á, Âu, Mỹ, Úc, đặc biệt là các cuộc biểu tình
chung quanh ngày 14 tháng 9 năm 2011, ngày nhiều người chính thức gọi là
ô nhục, ô nhục hơn tất cả những ngày ô nhục khác trong lịch sử dân
tộc. Chính nghĩa giành độc lập và giữ nước mà Hồ Chí Minh đề cao và
người Cộng Sản từ hơn sáu mươi năm tự coi là của riêng mình và là điều
mà Hồ Chí Minh coi như là “ý chí sắt đá”, “truyền thống quý báu đã có từ thời các vua Hùng”
bỗng nhiên không còn nữa.[1] Tháng 9 năm 2011 mọi chuyện đã hiện ra
trái ngưọc. Tên của Thủ Tướng Trần Văn Hữu của Quốc Gia Việt Nam, tên
của các Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu lại
được nhắc đến cùng với tên của Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà cùng với
74 chiến hữu của ông, sau này thêm 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam nữa ở
Trường Sa.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao bài Đáp Lời Sông Núi[2]
của Trúc Hồ lại có thể vượt không gian và đặc biệt là đường ranh Quốc –
Cộng để không riêng được mọi người ưa thích mà còn được hát lên như
vậy? Câu hỏi này đã khiến cho những người từng theo dõi sự xuất hiện và
phổ biến của những bài hùng ca đã xuất hiện từ cả hơn nửa thế kỷ trước
và đã từng làm dậy lên tình cảm và lòng ái quốc của toàn thể dân tộc
nhớ tới những bài hát của thời thập niên bốn mươi của thế kỷ trước.
Trong số những bài này có bài Tiếng Gọi Sinh Viên hay Sinh Viên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước và các bạn của ông ở Đại Học Hà Nội. Tiếng Gọi Sinh Viên sau đã trở thành Tiếng Gọi Thanh Niên, đoàn ca của tổ chức Thanh Niên Tiền Phong ở Miền Nam trong nhũng ngày đầu chống Pháp, rồi sau đó thành Quốc Ca của Quốc Gia Việt Nam thời Quốc Trưởng Bảo Đại để cuối cùng là của Việt Nam Cộng Hoà và hiện tại là của Người Việt Hải Ngoại.
Sự liên tưởng này không phải chỉ là bắt nguồn từ hiện tượng được phổ biến nhanh chóng của hai bài hát mà từ cái tên của bài hát của Trúc Hồ: Đáp Lời Sông Núi. Bốn chữ này ai cũng phải nghĩ là được lấy từ câu đầu của bài Quốc Ca của miền Nam: “Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi” mà Trúc Hồ hồi còn đi học ở quê nhà của ông không tuần nào là không hát, ít ra là một lần.
Sau này vượt biên ra Hải Ngoại chúng đã trở thành nỗi nhớ nhung không bao giờ phai nhạt, dưới hình thức này hay hình thức khác và đã được phản ảnh qua những ca khúc của ông. Vì vậy khi tìm hiểu Đáp Lời Sông Núi, người ta không thể không tìm hiểu Tiếng Gọi Sinh Viên và tìm hiểu Tiếng Gọi Sinh Viên, người ta không khỏi tìm hiểu Tiến Quân Ca vì hai bài sau đã trở thành Quốc Ca của hai chế độ đối nghịch nhau trong suốt thời gian từ sau năm 1945 cho đến những ngày hiện tại. Trong bài này người việt sẽ tìm hiểu ba bài hát qua ba phần chính yếu là tác giả và hoàn cảnh sáng tác, nội dung của các bài hát và cuối cùng là đối tượng và khả năng lôi cuốn của những tác phẩm này.
Trong số những bài này có bài Tiếng Gọi Sinh Viên hay Sinh Viên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước và các bạn của ông ở Đại Học Hà Nội. Tiếng Gọi Sinh Viên sau đã trở thành Tiếng Gọi Thanh Niên, đoàn ca của tổ chức Thanh Niên Tiền Phong ở Miền Nam trong nhũng ngày đầu chống Pháp, rồi sau đó thành Quốc Ca của Quốc Gia Việt Nam thời Quốc Trưởng Bảo Đại để cuối cùng là của Việt Nam Cộng Hoà và hiện tại là của Người Việt Hải Ngoại.
Sự liên tưởng này không phải chỉ là bắt nguồn từ hiện tượng được phổ biến nhanh chóng của hai bài hát mà từ cái tên của bài hát của Trúc Hồ: Đáp Lời Sông Núi. Bốn chữ này ai cũng phải nghĩ là được lấy từ câu đầu của bài Quốc Ca của miền Nam: “Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi” mà Trúc Hồ hồi còn đi học ở quê nhà của ông không tuần nào là không hát, ít ra là một lần.
Sau này vượt biên ra Hải Ngoại chúng đã trở thành nỗi nhớ nhung không bao giờ phai nhạt, dưới hình thức này hay hình thức khác và đã được phản ảnh qua những ca khúc của ông. Vì vậy khi tìm hiểu Đáp Lời Sông Núi, người ta không thể không tìm hiểu Tiếng Gọi Sinh Viên và tìm hiểu Tiếng Gọi Sinh Viên, người ta không khỏi tìm hiểu Tiến Quân Ca vì hai bài sau đã trở thành Quốc Ca của hai chế độ đối nghịch nhau trong suốt thời gian từ sau năm 1945 cho đến những ngày hiện tại. Trong bài này người việt sẽ tìm hiểu ba bài hát qua ba phần chính yếu là tác giả và hoàn cảnh sáng tác, nội dung của các bài hát và cuối cùng là đối tượng và khả năng lôi cuốn của những tác phẩm này.
A. Tác giả và hoàn cảnh sáng tác
I. Lưu Hữu Phước
Lưu
Hữu Phước là người Miền Nam. Ông ra Hà Nội “du học” vào mùa “thu năm
1940” sau khi đã học các truờng Tiểu Học Ô Môn, Trung Học Cần Thơ rồi
Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký và tất nhiên là đã đậu tú tài toàn phần.
Lý do là vì ở Việt Nam thời Pháp cả xứ Dông Dương chỉ có một trường
đại học ở Hà Nội. Sự ra Hà Nội học của một thanh niên Nam Kỳ ở thời này
là một giai đoạn mới trong đời Lưu Hữu Phước.
Sau này trong hồi ký của ông, Lưu Hữu
Phước viết: “Cũng như một số bạn bè, tôi đi Hà Nội với cảm xúc của một
người con đi xa trở về quê nhà. Tình yêu nước dạt dào trong tim chúng
tôi.”[3] “Với tâm trạng đó, chúng tôi cảm thấy mình ra Bắc như về thăm
quê cũ. Những tên địa phương như sông Hồng, núi Ba Vì, núi Tam Đảo, Ải
Chi Lăng, Cửa Bạch Đằng… là những danh từ mầu nhiệm, và mầu niệm hơn
nữa là những đền đài lịch sử như Lý Bát Đế, Đồng Nhân, Cổ Loa, Phù
Đổng, mỗi di tích giống như một quyển sử dân tộc.”[4].
Từ những khám phá mới bằng nội tâm và bằng tình cảm kèm theo với phong trào và cuộc sống tươi trẻ của giới thanh niên, sinh viên, học sinh và hướng đạo đương thời và cùng với bạn bè, Lưu Hữu Phước đã sáng tác những bài Ta Cùng Đi, Người Xưa Đâu Tá, Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hận Sông Hát tức Hồn Tử Sĩ, Hội Nghị Diên Hồng… và tất nhiên Tiếng Gọi Sinh Viên ở thời điểm này.
Tất cả cho đến khi bài này được viết và có lẽ chừng nào lịch sử Việt Nam còn, tất cả những bài hát này vẫn còn giữ nguyên được giá trị ban đầu của chúng[5]. Nên nhớ là trong thời gian này quân Nhật đã kéo vào Đông Dương và đã chia sẻ quyền hành với người Pháp. Toàn Quyền Đông Dương, Đô Đốc Decoux do nhu cầu ngăn chặn ảnh hưởng của người Nhật, đồng thời cũng để làm lệch hướng đấu tranh của giới trẻ Việt Nam thời đó đã tỏ ra cởi mở hơn. Giới thanh niên, đặc biệt là học sinh, sinh viên được chú ý tới hơn và phần nào được đãi ngộ khá hơn. Cả một phong trào thanh niên dưới sự lãnh đạo của Hải Quân Đại Tá Ducoroy đã được phát động từ Bắc chí Nam và luôn cả Miên, Lào.
Lịch sử, tinh thần ái quốc của người Việt Nam cũng được khai thác và cổ võ. Vai trò của Hoàng Đế Nam Triều, lúc đó cũng được đề cao. Những bài hùng ca lịch sử nhờ đó đã có cơ hội xuất hiện và phổ biến. Ngườì ta có thể, theo một khuynh hướng tự nhiên coi những biện pháp này của người Pháp là có thâm ý không tốt, nhưng dù thế nào đi chăng nữa nó đã mở đầu cho một sinh hoạt mới của tuổi trẻ Việt Nam và đã ảnh hưởng tới nhiều phạm vi khác về sau này.
Theo như chính Lưu Hữu Phước, bài Tiếng Gọi Sinh Viên
đã được sáng tác vào một đêm tháng tư năm 1941 do ông khởi đầu, sau đó
được các bạn cùng phòng “chúng tôi gọt giũa” và “cùng hát vang”[6].
Lời đầu tiên của bài này, có lẽ chịu ảnh hưỏng của những tuyên truyền
về “Khởi Nghĩa Bắc Sơn” nên đã nặng tính tranh đấu và hận thù với những
từ ngữ như lầm than, đau khổ, loài muông thú, hút máu, cửa nhà tan rã…
và văn phong còn thô kệch vụng về, sau này mới được mọi người sửa
lại.
Cũng chính Lưu Hữu Phước kể tiếp: “bài hát bí mật của chúng tôi được anh em lấy làm bài hát sinh viên công khai. Anh em làm lại lời ca, và sau nhiều lần sửa đi sửa lại và đấu tranh với Sở kiểm duyệt, phong trào sinh viên đã có bài hát của mình tức là bài Tiếng gọi sinh viên (Lời ca của Lê Khắc Thiều và Đặng Ngọc Tốt) khi phong trào lan rộng bài hát được nhân dân tự động đổi là Tiếng gọi thanh niên.”[7]
Nhưng đó là theo Lưu Hữu Phước, theo những tác giả khác trong đó có Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy thì hơi khác. Dẫn theo lời của Bác Sĩ Nguyền Tôn Hoàn, đương thời là Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Đông Dương tức Đại Học Hà Nội, Giáo Sư Huy cho biết là nhân dịp Tổng Hội tổ chức một đêm ca nhạc vào ngày 15 tháng 3 năm 1942 tại Đại Giảng Đường của nhà trường, nhằm lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo ở các bệnh viện, nơi các sinh viên y và dược khoa thực tập, Tổng Hội lựa một bài ca lấy tên là Sinh Viên Hành Khúc với tiếng Pháp là Marche des Étudiants. Lưu Hữu Phưóc đã đưa cho Bác Sĩ Hoàn một số bản nhạc do ông soạn và bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã được lựa.
Tiếp theo là một ủy ban sửa hay soạn lại lời ca gồm có các ông Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Phan Thanh Hoà, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Tăng Nguyên. Lời ca mà người ta có sau này là của tập thể của ủy ban sinh viên này.[8]
Sau ngày 15 tháng 3, là mùa hè năm đó một đại lễ mãn khoá đã được tổ chức tại nhà hát lớn của thành phố, có Toàn Quyền Decoux và các quan chức cao cấp Pháp-Việt đến dự và khi ban nhạc của Hải Quân Pháp cử hành bài Sinh Viên Hành Khúc này, tất cả mọi ngườì, kể cả Toàn Quyền Decoux, đều đứng dậy.[9]
Lưu Hữu Phước đã không nói tới những buổi lễ này dù cho chúng là những danh dự mà một nhạc sĩ bình thường phải coi là một niềm hãnh diện. Ông cũng không nói tới hai người nữ sinh viên là Nguyễn Thị Thiều, sau này là vợ của Bác Sĩ Nguyễn Tú Vinh và Phan Thanh Bình, sau này là Bà Nguyễn Tôn Hoàn, là những ca sĩ đã hát bài của ông đêm tác phẩm của ông được chính thức ra mắt tập thể sinh viên và công chúng thời ấy. Phải chăng, khi viết hồi ký, ông đã sợ một điều bất ổn nào đó khi nói tới những vinh dự mà phía những người không phải là Cộng Sản dành cho ông và tác phẩm của ông, lúc bấy giờ và sau này khi Tiếng Gọi Sinh Viên trở thành Tiếng Gọi Thanh Niên, Tiếng Gọi Công Dân rồi Quốc ca của phía Người Việt Quốc Gia. Tất cả đều không được ông nhắc tới trong hồi ký của ông, ngay cả tên của Tổ Chức Thanh Niên Tiền Phong.
Về phía Người Việt Quốc Gia, từ các nhà lãnh đạo Thanh Niên Tiền Phong đến Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, người đã đề nghị chọn Tiếng Gọi Sinh Viên làm quốc ca cho Chính Phủ Quốc Gia đầu tiên do Cựu Hoàng Bảo Đại thành lập và lãnh đạo và những người liên hệ không thể không suy nghĩ kỹ càng và không có lý khi làm quyết định này.
Lưu Hữu Phước không phải là tác giả duy nhất của bài Tiếng Gọi Sinh Viên và bài này khi được ra mắt công chúng không những đã trở thành sở hữu chung của tổ chức sinh viên hồi ấy mà, dưới danh xưng chính thức là Sinh Viên Hành Khúc, còn là biểu trưng cho tinh thần và ưóc nguyện của toàn thể giới thanh niên đương thời. Từ Hà Nội nó đã được phổ biến mạnh mẽ ra toàn quốc, đặc biệt là ở miền Nam, ở Saigon và ở các tỉnh song song với các phong trào thanh niên thể thao Ducoroy, Hướng Đạo…Phải đọc những hồi ký hay những lời kể lại của các nhân vật đã từng sống ở miền Nam và đã từng tham gia hay bị lôi cuốn vào phong trào này hay của chính Lưu Hữu Phước người ta mới thấy được tầm phổ biến và sự quan trọng của bài Sinh Viên Hành Khúc, cũng như là các bài Bạch Đằng Giang, Lên Đường, Ải Chi Lăng… trong sinh hoạt thanh niên thời bấy giờ. Gió Mùa Đông Bắc của Bác Si Trần Ngươn Phiêu, “Nhớ Quê Hương” của Nguyễn Minh Hoài Việt, “Hồi Ký “của Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và sau này là các bài viết của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và của Giáo Sư Phạm Hồng Đảnh… đã nói lên điều đó.
Tinh thần của những sinh hoạt này cho nguời ta thấy rõ một ý thức mới về sự thống nhất thể hiện qua sự trực tiếp khám phá ra qua những cuộc thăm viếng tiếp những di tích của lịch sử oai hùng của dân tộc của các sinh viên gốc miền Nam ở Đại Học Hà Nội, qua những cuộc thăm viếng tiếp những di tích ở chung quanh thành phố Hà Nội trong những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ trước, đã thành hình và đã trở thành căn bản của các cuộc đấu tranh của toàn thể dân tộc Việt Nam trong những năm kế tiếp. Độc lập luôn luôn phải đi đôi với thống nhất, bắt đầu là thống nhất lãnh thổ sau đó là thống nhất tinh thần dân tộc mà cả hai phía Cộng Sản và Quốc Gia đều đề cao không riêng trong sinh hoạt chính trị và quân sự mà luôn cả trong giáo dục, văn hóa và nghệ thuật nữa.
Cũng chính Lưu Hữu Phước kể tiếp: “bài hát bí mật của chúng tôi được anh em lấy làm bài hát sinh viên công khai. Anh em làm lại lời ca, và sau nhiều lần sửa đi sửa lại và đấu tranh với Sở kiểm duyệt, phong trào sinh viên đã có bài hát của mình tức là bài Tiếng gọi sinh viên (Lời ca của Lê Khắc Thiều và Đặng Ngọc Tốt) khi phong trào lan rộng bài hát được nhân dân tự động đổi là Tiếng gọi thanh niên.”[7]
Nhưng đó là theo Lưu Hữu Phước, theo những tác giả khác trong đó có Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy thì hơi khác. Dẫn theo lời của Bác Sĩ Nguyền Tôn Hoàn, đương thời là Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Đông Dương tức Đại Học Hà Nội, Giáo Sư Huy cho biết là nhân dịp Tổng Hội tổ chức một đêm ca nhạc vào ngày 15 tháng 3 năm 1942 tại Đại Giảng Đường của nhà trường, nhằm lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo ở các bệnh viện, nơi các sinh viên y và dược khoa thực tập, Tổng Hội lựa một bài ca lấy tên là Sinh Viên Hành Khúc với tiếng Pháp là Marche des Étudiants. Lưu Hữu Phưóc đã đưa cho Bác Sĩ Hoàn một số bản nhạc do ông soạn và bài Tiếng Gọi Sinh Viên đã được lựa.
Tiếp theo là một ủy ban sửa hay soạn lại lời ca gồm có các ông Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Phan Thanh Hoà, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Tăng Nguyên. Lời ca mà người ta có sau này là của tập thể của ủy ban sinh viên này.[8]
Sau ngày 15 tháng 3, là mùa hè năm đó một đại lễ mãn khoá đã được tổ chức tại nhà hát lớn của thành phố, có Toàn Quyền Decoux và các quan chức cao cấp Pháp-Việt đến dự và khi ban nhạc của Hải Quân Pháp cử hành bài Sinh Viên Hành Khúc này, tất cả mọi ngườì, kể cả Toàn Quyền Decoux, đều đứng dậy.[9]
Lưu Hữu Phước đã không nói tới những buổi lễ này dù cho chúng là những danh dự mà một nhạc sĩ bình thường phải coi là một niềm hãnh diện. Ông cũng không nói tới hai người nữ sinh viên là Nguyễn Thị Thiều, sau này là vợ của Bác Sĩ Nguyễn Tú Vinh và Phan Thanh Bình, sau này là Bà Nguyễn Tôn Hoàn, là những ca sĩ đã hát bài của ông đêm tác phẩm của ông được chính thức ra mắt tập thể sinh viên và công chúng thời ấy. Phải chăng, khi viết hồi ký, ông đã sợ một điều bất ổn nào đó khi nói tới những vinh dự mà phía những người không phải là Cộng Sản dành cho ông và tác phẩm của ông, lúc bấy giờ và sau này khi Tiếng Gọi Sinh Viên trở thành Tiếng Gọi Thanh Niên, Tiếng Gọi Công Dân rồi Quốc ca của phía Người Việt Quốc Gia. Tất cả đều không được ông nhắc tới trong hồi ký của ông, ngay cả tên của Tổ Chức Thanh Niên Tiền Phong.
Về phía Người Việt Quốc Gia, từ các nhà lãnh đạo Thanh Niên Tiền Phong đến Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, người đã đề nghị chọn Tiếng Gọi Sinh Viên làm quốc ca cho Chính Phủ Quốc Gia đầu tiên do Cựu Hoàng Bảo Đại thành lập và lãnh đạo và những người liên hệ không thể không suy nghĩ kỹ càng và không có lý khi làm quyết định này.
Lưu Hữu Phước không phải là tác giả duy nhất của bài Tiếng Gọi Sinh Viên và bài này khi được ra mắt công chúng không những đã trở thành sở hữu chung của tổ chức sinh viên hồi ấy mà, dưới danh xưng chính thức là Sinh Viên Hành Khúc, còn là biểu trưng cho tinh thần và ưóc nguyện của toàn thể giới thanh niên đương thời. Từ Hà Nội nó đã được phổ biến mạnh mẽ ra toàn quốc, đặc biệt là ở miền Nam, ở Saigon và ở các tỉnh song song với các phong trào thanh niên thể thao Ducoroy, Hướng Đạo…Phải đọc những hồi ký hay những lời kể lại của các nhân vật đã từng sống ở miền Nam và đã từng tham gia hay bị lôi cuốn vào phong trào này hay của chính Lưu Hữu Phước người ta mới thấy được tầm phổ biến và sự quan trọng của bài Sinh Viên Hành Khúc, cũng như là các bài Bạch Đằng Giang, Lên Đường, Ải Chi Lăng… trong sinh hoạt thanh niên thời bấy giờ. Gió Mùa Đông Bắc của Bác Si Trần Ngươn Phiêu, “Nhớ Quê Hương” của Nguyễn Minh Hoài Việt, “Hồi Ký “của Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và sau này là các bài viết của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và của Giáo Sư Phạm Hồng Đảnh… đã nói lên điều đó.
Tinh thần của những sinh hoạt này cho nguời ta thấy rõ một ý thức mới về sự thống nhất thể hiện qua sự trực tiếp khám phá ra qua những cuộc thăm viếng tiếp những di tích của lịch sử oai hùng của dân tộc của các sinh viên gốc miền Nam ở Đại Học Hà Nội, qua những cuộc thăm viếng tiếp những di tích ở chung quanh thành phố Hà Nội trong những năm đầu của thập niên bốn mươi của thế kỷ trước, đã thành hình và đã trở thành căn bản của các cuộc đấu tranh của toàn thể dân tộc Việt Nam trong những năm kế tiếp. Độc lập luôn luôn phải đi đôi với thống nhất, bắt đầu là thống nhất lãnh thổ sau đó là thống nhất tinh thần dân tộc mà cả hai phía Cộng Sản và Quốc Gia đều đề cao không riêng trong sinh hoạt chính trị và quân sự mà luôn cả trong giáo dục, văn hóa và nghệ thuật nữa.
II. Trúc Hồ
Cũng giống như Lưu Hữu Phước, Trúc Hồ cũng sở trường về các bài ca lịch sử mang dấu vết của thời đại mình đang sống. Từ Bên Em Đang Có Ta (lời của Trầm Tử Thiêng), Một Ngày Việt Nam (lời của Trầm Tử Thiêng), Việt Nam Niềm Nhớ (lời củaTrầm Tử Thiêng), Cám Ơn Anh (lời của Trầm Tử Thiêng), Con Dường Việt Nam (lời của Anh Bằng), Con Rồng Việt Nam (lời của Việt Dũng), Thiên Thần Trong Bóng Tối, Đáp Lời Sông Núi… Trúc Hồ cũng đã cống hiến cho đám đông người hát và người nghe nhiều bài được họ nồng nhiệt đón nhận.
Và cũng giống như Lưu Hữu Phước với Tiếng Gọi Sinh Viên, Trúc Hồ, với Đáp Lời Sông Núi, cũng có một bài kêu gọi anh em, đồng bạn của mình. Bài hát được phổ biến nhanh chóng từ một nơi xa xôi ở Hải Ngoại lời ca dội ngưọc trở lại quê hương Việt Nam của tác giả.
Nhưng khác với Lưu Hữu Phước, Trúc Hồ không có đưọc sự may mắn của Lưu Hữu Phước. Sinh ra và lớn lên trong thời Pháp Thuộc nhưng Lưu Hữu Phước vẫn được sống một tuổi thơ an bình, hạnh phúc. Khi lớn lên ông lại được cha mẹ nuôi cho ăn học đầy đủ ở khắp các trường danh tiếng ở miền Nam rồi sau đó ra Hà Nội “du học”. Ở Hà Nội ông đã có những ngày thật đẹp và thật phong phú cho một thanh niên mới lớn, từ lâu khát khao trở về với quá khứ dân tộc qua những buổi du ngoạn cùng với các bạn đồng hương của mình trong những ngày nghỉ. Trúc Hồ trái lại chỉ có một tuổi thơ là tương đối hạnh phúc, được sống với cha mẹ, được cắp sách đến trường trong một nước Việt Nam độc lập và độc lập hoàn toàn ít ra là trong phạm vi giáo dục như bất cứ một đứa trẻ nào khác, dù cho đất nước của ông lúc này đã bị chia đôi và đang trải qua một thời gian chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử.
Sau này trong bài Thiên Thần Trong Bóng Tối, ông đã ghi lại:
“Từ khi tôi chào đời, bập bẹ hai tiếng Việt Nam. Yêu quê hương qua từng trang sách, Hùng Vương, Phù Đổng rạng ngời.”
Biến cố Tháng Tư 1975 đã cướp đi tất cả. Trường cũ, thày cô ngày trước không còn như xưa nữa. Ngay cả cái tên trường ông theo học, Trường Petrus Trương Vĩnh Ký thân yêu, quen thuộc và là niềm hãnh diện của toàn thể dân chúng miền Nam cũng đã bị loại bỏ và bị thay thế bằng một cái tên Lê Hồng Phong lạ hoắc. Nhưng cũng may là, ngoài Trường Petrus Ký, Trúc Hồ còn có một trường khác, hay nhiều “trường” khác và nhiều thày khác mà ông không những cũng yêu mến không kém mà còn gắn bó hơn, bằng cách này hay cách khác theo học suốt đời. Đó là những trường nhạc, nơi ít ra ba vị thày đã không những hướng dẫn ông về chuyên môn mà còn giúp ông đứng vững để tiến tới trong thời kỳ dễ bị khủng hoảng và hư hỏng nhất của đời người. Đó là các nhạc sĩ và giáo sư âm nhạc nổi tiếng của miền Nam đương thời, các nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi, Hùng Lân và Đại Tá Trần Văn Tín, Chỉ Huy Trưởng ngành quân nhạc của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà, sau này là nhiều thày cô khác, sau năm 1975, từ miền Bắc vào như Chí Vũ, Cao Lê Thuần và các thày mà bây giờ ông chi còn nhớ tên mà không nhớ họ như Thày Dung, Cô Diệu…, mà ông luôn luôn nhắc tới với những lời trìu mến, biết ơn.[10] Tất nhiên là còn nhiều vị thày hay các bậc đàn anh hay bạn bè khác. Nói cách khác, Trúc Hồ có rất nhiều thày, thày chính thức hay thày ở ttrường đời.
Đây là điểm thứ hai Trúc Hồ may mắn hơn Lưu Hữu Phuớc vì Lưu Hữu Phước khi học tân nhạc chỉ là tự học qua sách vở hay bạn bè. Cuộc sống thiếu êm đềm của Trúc Hồ không ngừng ớ đó. Nó vẫn tiếp tục với cuộc vượt biên tị nạn của ông, vượt biên theo đúng nghĩa vượt biên giới của nó. Ở đây là vượt biên giới Việt Miên với tất cả những gì nguy hiểm và đầy hãi hùng của cuộc phiêu lưu, vô cùng liều lĩnh và vô vọng này . Tiếp theo là những ngày sống trong trại tị nạn, đúng ra là trại tù ở biên giới Thái Lan-Căm Bốt như là một trẻ em vị thành niên đi một mình, một “unaccompanied child”trong trại NW-9. Sau đó là cuộc sống không người thân ở bên Mỹ.[11] Tìm hiểu những bài hùng ca của Trúc Hồ, người ta cần phải để ý tới những yếu tố liên hệ tới cuộc sống đầy bão tố của riêng ông, đồng thời cũng là của toàn thể miền Nam và nhân dân miền Nam trong suốt thời gian này và những kinh nghiệm của riêng ông, những kinh nghiệm mà không phải bất cứ người tị nạn Việt Nam nào cũng có, ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại. Bên Em Đang Có Ta là một trong số những kinh nghiệm đó:
Bao nhiêu em bé thơ, như nụ hoa, dưới mặt trời
Cười hồn nhiên tung tăng hát vang, mừng nắng tươi.
Bao nhiêu em bé thơ, như nụ hoa dưới mặt trời,
Rời lòng nôi trong đêm gió mưa, ra biển khơi.
Mẹ yêu em thiết tha hơn mùa xuân trong cuộc đời,
Chờ nhìn con theo hoa hướng dương, tìm nắng tươi.
Cha yêu em thiết tha, mang gửi con cho tình người,
Mặc đại dương mênh mông khoác lên thân nhỏ nhoi.
Bên em đang có ta, hát về em tương lai xót xa,
Hát giùm em cơn mơ thiết tha, giấc mơ tuổi hoa.
Bên em đang có ta, thống thiết kêu vang lương tâm thế gian
Cứu vớt em rời khỏi ngày u ám, giữa trại giam.
Khóc trong lầm than, Khóc trong trại giam.
Khi con tim thế nhân, chưa thờ ơ, chưa lạnh lùng,
Thì cùng nhau đêm nay hát lên, lời hát chung.
Cho em tôi héo hon, đang ngửa tay xin tình người,
Dòng lệ rơi trên đôi má khô, trong lẻ loi.
Tại sao nhạc của Trúc Hồ lại vừa bi thảm, vừa hùng mạnh, vừa nồng nàn, tha thiết, xót xa và nhiều hấp lực đối với đám đông như vậy? Bỏ qua những yếu tố này người ta không thể nào cắt nghĩa được. Phải nhìn sâu vào hoàn cảnh và tâm tư của chú bé unaccompanied Trúc Hồ vào thời điểm lúc ở trong trại, được chính mắt thấy, chính tai nghe những thảm cảnh bi đát của những em còn nhỏ tuổi hơn mình và của thày giáo nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cũng vượt biên tị nạn như các em người ta mới phần nào thông cảm được.
III. Văn Cao
Tuy nhiên, so với Trúc Hồ, Văn Cao, tác giả của Tiến Quân Ca, sau này là Quốc Ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và hiện thời là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, còn bất hạnh hơn nhiều. Văn Cao, như ai cũng biết và cũng đều phải công nhận, mãi mãi là một trong những thiên tài về âm nhạc của Việt Nam. Ông đã nổi tiếng từ lâu trước khi viết Tiến Quân Ca qua những bài hát mà không riêng gì đương thời, mà luôn cả trong hiện tại, sáu bảy chục năm đã trôi qua, rất ít người Việt Nam yêu nhạc nào mà không biết và không yêu mến. Không những thế ông còn là một nhà thơ và một họa sĩ tài hoa nữa. Có điều hoàn cảnh đã đưa ông đến việc sáng tác Tiến Quân Ca là cả một bi kịch thê thảm nhất và đáng thương nhất trong lịch sử nghệ thuật của dân tộc Việt Nam.
Văn Cao đã không tự mình sáng tác theo cảm hứng riêng của mình mà vì đã nhận lời của một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng Sản để làm bài này, rồi cũng từ đó ông vướng mắc vào hết hệ lụy này sang hệ lụy khác, kể cả chuyện ông đã lãnh súng, tham gia ban ám sát và đã nhúng tay vào những vụ giết ngưòi.[12]
Lý do là năm đó, năm 1944, Văn Cao bị thất nghiệp, tranh triển lãm bán không được, lại gặp năm “trời rét hơn mọi năm” và khi “những ngày đói của tôi bắt đầu”. Câu chuyện đã được chính nhạc sĩ, hơn ba mươi năm sau, kể lại, nguyên văn như sau:
“Sau
triển lãm Duy Nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu
phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được trưng bày
vào chỗ tốt nhất của phòng tranh – nhà Khai Trí Tiến Đức – và được các
báo giới thiệu, cũng không bán nổi. Hi vọng về cuộc sống bằng hội họa,
tại Hà Nội không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy
là người xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi cũng không thấy nói đến
tiền nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản
nhạc viết hồi dó dù đã trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam,
tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn…. Hàng
ngày tôi nhờ mấy họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ phương tiện cho làm việc.
Cuộc sống lang thang ấy không thể kéo dài nhiều ngày. Muốn làm việc thì
không có chỗ. Hà Nội lúc ấy lại đang đói.
“Năm
ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ mặc nguyên quần áo. Có đêm phải đốt dần
bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói
của tôi bắt đầu.”[13]
Đúng vào lúc đó thì Vũ Quí, người cán bộ Việt Minh thường theo dõi Văn Cao từ nhiều năm trước xuất hiện. Văn Cao kể tiếp:
“Tôi
đã gặp lại đồng chí Vũ Quí. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động
nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua và thường khuyến khích tôi sáng tác
những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng Rừng
và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi
vào một tiệm ăn. Ở đấy quyết định cuộc đời của tôi.
Câu chuyện giữa chúng tôi hết sức đơn giản.
Câu chuyện giữa chúng tôi hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
-
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày đầu ngõ chợ
Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định và công tác. Ngày đầu tiên
chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.”[14]
Sau đó Vũ Quí đến tìm Văn Cao giao công tác. Công tác đó là:
- “Hiện
nay, trên chiến khu thiếu bài hát, phải dùng những điệu hướng đạo.
Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân
đội cách mạng của chúng ta.” [15]
Đây là một việc làm hoàn toàn xa lạ đối với một nghệ sĩ như Văn Cao. Ông đã không được làm theo ý riêng và theo hứng khởi của mình mà phải làm theo đơn đặt hàng và để trả nợ với một đề tài không chứa đựng một điều gì quen thuộc. Ông chưa bao giờ lên chiến khu và chưa bao giờ thấy quân Việt Minh ở chiến khu mà phải nói tới chiến khu và quân Việt Minh ở chiến khu.
Theo Văn Cao kể lại, ông đã làm bài hát này trong “không biết bao nhiêu ngày tại căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền” Hà Nội và trong đêm đầu tiên, sau khi đã đi lang thang dọc theo các đường phố quen thuộc với câu hỏi lúng túng trong đầu: “Phải làm thế nào đây?”, ông chỉ “viết được nét nhạc đầu”. [16] Điều này cũng dễ hiểu vì cũng như Lưu Hữu Phước, khi làm bài này ông không thể không nghĩ tới bài Quốc ca của nước Pháp, bài La Marseillaise. Bằng chứng là trong phần lời ông làm sau này có câu “Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước”, một câu tương tự như câu “L’étandard sanglant est levé” trong bài La Marseillaise.
Điều tôi muốn nói lên ở đây là Văn Cao không làm bài Tiến Quân Ca trong một hoàn cảnh đầy vui tươi, hứng khởi như hoàn cảnh của Lưu Hữu Phước khi họ Lưu làm bài Sinh Viên Hành Khúc hay của Trúc Hồ khi người nhạc sĩ thuộc thế hệ một chấm rưỡi (1.5) ở Hải Ngoại làm bài Đáp Lời Sông Núi về sau này. Tạo nên nét nhạc cho đơn giản cho mọi ngưòi cùng hát đối với một thiên tài như Văn Cao không phải là chuyện khó. Lời hát đi kèm sao cho đúng ý của người đặt hàng mới chính là vấn đề. Trong hồi ký của ông, Văn Cao không cho biết là Vũ Quí khi giao công tác cho ông có chỉ thị cho ông biết là lời hát phải như thế nào hay không, từ ý tưỏng đến từ ngữ đươọc dùng, nhưng những tiếng như cứu quốc, chiến khu, sao vàng, đời mới, võ trang, Thái Nguyên, Đô Lương, Bắc Sơn…rõ ràng là những ngôn từ của thời đại.
Ngưòi ta cũng không biết là Nguyễn Đình Thi, một cán bộ văn hóa cao cấp khác, tác giả của bài Diệt Phát Xít có ảnh hưởng gì tới Văn Cao hay không, nhưng hai người có gặp nhau theo lời kể của Văn Cao: “Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó.” Xướng âm nhạc điệu ở đây phải được hiểu là nhạc điệu thôi, không phải là lời. Còn Nguyễn Đình Thi thì sau này khi được Ngô Vĩnh Bình phỏng vấn vào tháng 3 năm 1985 “đã cười bảo: bài Diệt phát-xít thực ra chỉ diễn tả những khẩu hiệu, đường lối của Việt Minh lúc ấy.”[17] Đường lối này không thể khác hơn là đường lối đã được Trường Chinh vạch ra trong Bản Đề Cương Về Cách Mạng Văn Hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà Vũ Quí, Nguyễn Đình Thi hay cao hơn nữa là Lê Quang Đạo chỉ là những cấp thừa hành.[18] Nghi vấn này nếu được giải tỏa thì câu “Thề phanh thây uống máu quân thù” có thể hiểu là không phải của Văn Cao mà là của những người khác hay do ý của người khác. Một nghi vấn về một đồng tác giả của Tiến Quân Ca do tờ TPCN (người viết bài này nhất thời chưa rõ tên thực sự của tờ báo này là gì, không biết có phải là Tiền Phong Chủ Nhật hay không?) một dạo đã được nêu lên, căn cứ vào bản in đầu tiên do chính Văn Cao trực tiếp lo phần ấn loát. Nguyễn Thụy Kha đã hỏi lại chính Văn Cao qua một cuộc phỏng vấn vào năm 1993, một buổi sáng sau ngày mừng sinh nhật của Văn Cao, có thể phần nào giúp ta hiểu rõ hơn vấn đề này. Câu chuyện đã được Nguyễn Thụy Kha ghi và người viết xin chép lại nguyên văn để người đọc thấy thêm được nhiều chi tiết quan trọng cũng như những hệ lụy khác:
“Nguyễn Thụy Kha: Thưa bác, có lẽ vì đêm đó quá vui, bác mệt.
“Văn Cao: Đúng, vui lắm. hình như tôi đã chọc anh nhiều. Song cuộc vui nào chẳng tàn. Cái buồn lưu cữu lại ập đến.
“NTK:
Vâng! Cháu rất biết. Chúng ta đều là con người chứ có phải lằ gỗ đá
đâu. Cũng vì vậy, hôm nay, cháu xin bác nói thêm với cháu và tất cả mọi
người về cái buồn của bác trong thời gian này.
“V.C:
Có gì đâu. Mọi việc vì tôi là tác giả Quốc Ca, anh ạ! Tự nhiên bây giờ
sau 46 năm lại có tờ TPCN đặt vấn đề nghi vấn. Trong việc này, có
những cái nhìn bị nhiễu từ kênh này sang kênh khác.
“N.T.K: Bác nói chắc đấy chứ? Kẻo lại mang tiếng cho dụng ý tốt của tờ báo.
“V.C:
Tôi đã nói là chắc. Mà đã nói rồi nhưng rất tiếc là anh Xuân Ba, người
đến phỏng vấn tôi kỳ trước không viết ra hết mặt báo. Trong việc này
có ba sự thật:
“-
Sự thật thứ nhất là: Tôi là ngưòi viết Tiến quân ca, điều ấy chỉ có
tôi mới biết vì khi tôi sáng tác bài này trong bí mật, không ai được
biết. Ai nói biết là bịa.
“-
Sự thật thứ hai: Tôi đã có ý để anh Đỗ Hữu Ích đứng tên cùng là tác
giả phần lời với mật danh Anh Dũng. Lúc ấy tôi lấy mật danh là Anh Thọ.
Bài Tiến quân ca đầu tiên do tôi trực tiếp ấn loát ghi tác giả: Nhạc
Anh Thọ, lời Anh Dũng. Tôi có ý để anh Ích trong bài Tiến quân ca có
hai lý do:
“1. Lúc ấy tôi là bạn anh Ích và đang lấy tạm nhà anh Ích làm cơ sở hoạt động.
“2.
Để anh Ích đứng tên chung có lợi ở chỗ nếu anh Ích có muốn phản bội
thì cũng không dám vì đã trót đứng tên chung cùng với tôi. Đây là một
phép trong hoại động bí mật. Buộc phải đề phòng mọi khả năng. Anh Ích
quen rất nhiều hiến binh. Bài Tiến quân ca khi đó mới chỉ là bài ca của
quân cách mạng. Người sáng tác bài ca là kề với cái chết bất cứ lúc
nào. Tôi để anh Ích đứng chung bằng mật danh là để bảo vệ bài ca này.
“Nhưng
đó là thời kỳ bí mật. Sau cách mạng khi anh Ích lập nhà xuất bàn Đỗ
Văn thì lúc này anh đã tự chuyển ý sang: Nhạc Văn Cao, lời Đỗ Hữu Ích,
kể cả khi anh vận động nhà in in ở Hải Phòng. Nó đã lột được bản chất
xấu của anh Ích.
“Sự
thật thứ ba là: Khi bài Tiến quân ca được công nhận là Quốc ca Việt
Nam, nó được sự góp ý về nhạc của anh Đinh Ngọc Liên và Nguyễn Hữu Hiếu.
Còn lời thì anh Tố Hữu đã sửa nhiều câu (xin để ý mấy chữ này). Nhưng
khi Bác Hồ yêu cầu gặp tác giả Quốc ca thì chỉ một mình tôi (do anh Tố
Hữu đưa đến gặp Bác. Vì thế, năm 1946 nhà nước in bài Tiến quân ca và
Quốc ca trong hiến pháp công bố với toàn dân và nước ngoài là Văn Cao.
Vậy báo Tiền Phong CN với lòng công tâm giúp đỡ anh Ích thì phải cùng
anh Ích đấu tranh với nhà nước để đòi bằng được cho anh Ích, Tôi làm sao
làm được việc đó…. Nếu Quốc hội đã chứng nhận tôi là tác giả Quốc ca
thì tôi phải nghe và chấp hành. Khi ấy, kẻ nào nhận thêm vào tức là mạo
danh tác giả rồi. Có ngồi với nhau cũng chả giải quyết được.”[19]
Qua những gì Văn Cao giải thích kể trên, ta có thể nói không phải dè dặt rằng bài Tiến Quân Ca
là do Văn Cao làm với sự góp ý và luôn cả sửa chữa của nhiều người
trong đó có Tố Hữu. Riêng Tố Hữu “đã sửa nhiều câu”. Cũng vậy tất cả đã
được làm trong bí mật mà nếu không có chuyện Đỗ Hữu Ích đòi chia sẻ
quyền tác giả thì Văn Cao đã không nói ra. Nói cách khác những gì Văn
Cao nói ra chỉ là một phần của sự thật nhưng người ta vẫn có thể kết
luận rằng Văn Cao không phải là tác giả duy nhất của bài Tiến Quân Ca
nhất là về phần lời hát. Phần này đã được sự góp ý của nhiều người trong
đó có Tố Hữu và Nguyễn Đình Thi, hai cán bộ cao cấp đương thời và về
sau này. Ngay cả cái tên của bài hát, Nguyễn Đình Thi cũng có góp phần,
đồng thời hai chữ Việt Minh trong câu “Đoàn quân Việt Minh đi chung
lòng cứu quốc” là hai chữ được dùng lúc ban đầu, sau này mới được đổi
thành Việt Nam. Việt Minh lúc ấy chỉ là một đảng, hay một mặt trận, còn
nhiều đảng và mặt trận khác. Chính vì vậy bài hát khi được phổ biến
mới bị những người chống Việt Minh nhái đi thành: “Đoàn quân Việt Minh
đi xe nhà phất phới, dắt họ hàng làng nước ra làm quan”.[20]
B. Nguyên văn lời hát
I. Sinh Viên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Sinh Viên
Bài này có ba lời một điệu , mỗi lời gồm mười câu và bốn câu điệp khúc chung.
Lời I kêu gọi sinh viên Bắc – Nam, cả nước, cùng nhau kết đoàn, “đứng lên đáp lời sông núi”, “mở đường khai lối” cho đồng bào, dù cho thời thế khó khăn, chông gai đầy dẫy. Trên con đường mới, mở rộng tầm mắt ra bốn phương với tâm hồn trong sáng và can trường của tuổi thiếu niên. Nguyên văn như sau:
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi, đi, đi mở đường khai lối.
Vì non sông nước xưa truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá.
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.
và phần điêp khúc:
Sinh viên ơi! Sinh viên ơi!Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơí! Sinh viên ơi! Ta nguyền đem hết lòng!
Tiến lên! Đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
Lời
II nhắc lại lịch sử “hùng cường” trong cõi “Trời Nam” của dân tộc với
những chiến thắng bình Chiêm, phá Tống, đánh đuổi quân Nguyên, kháng cự
oai hùng của Hai Bà Trưng ở Hồ Tây, Lam Sơn Khởi Nghĩa của Lê Lợi, dẹp
tan quân Thanh của Quang Trung và kêu gọi sinh viên đừng quên khí
phách từ xưa được truyền lại của nòi giống, mong mỏi có ngày đất nước
vẻ vang. Nguyên văn như sau:
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xóa!
Hùng cường Trời Nam ghi trên bảng vàng bia đá!
Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam Tiến luôn (mau tiến lên),
Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.
Hồ Tây tranh phong oai son phấn,
Lừng tiếng Sát Thát, Trần Quốc Tuấn.
Mài kiếm cứu quốc (nước) nhớ Người Núi Lam,
Trừ Thanh Quang Trung giết hàng bao đám.
Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền
(Trở lại điệp khúc)
Lời III kêu gọi sinh viên, vì đường còn xa, phải noi gương người xưa, “cùng nhau gắng”, “đem lòng son cho giống dòng”, trong vị thế và khả năng của mình “vun cây văn hoá”, “vững cầm tay lái”, “bền chí quyết gắng sức làm cho khắp nơi vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!”. Nguyên văn như sau:
Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
Hành trình còn xa, anh em phải cùng nhau gắng!
Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng.
Là sinh viên vun cây văn hóa,
Từ trước sẵn có nhiều hoa lá.
Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai
Hằng mong ta ra vững cầm tay lái.
Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời![21]
(Trở lại điệp khúc)
Khi bài được nhận làm đoàn ca của Thanh Niên Tiền Phong và sau đó là Quốc Ca của Quốc Gia Việt Nam của Quốc trưởng Bảo Đại theo đề nghị của Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và theo Bác Sĩ Hoàn thì nhan đề của bài hát được đổi thành Thanh Niên Hành Khúc và nội dung cũng được sửa lại như sau:
Này thanh niên ơi! Quốc Gia đến ngày giải phóng
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên.
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho phơi thây trên gươm giáo.
Thù nước lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy.
Người thanh niên ta cố rèn tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời.
Điệp khúc:
Thanh niên ơi! Thanh niên ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Thanh niên ơi! Thanh niên ơi! Mau làm cho cõi bờ!
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống,
Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng!
Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn giải thích sự lựa chọn này như sau:
“Khoảng năm 1947, trước khi trở về nước lập chính phủ mới, cựu hoàng
Bảo Đại có mời tôi và một số đại diện tôn giáo, các chính khách như các
ông Ngô Đình Diệm, Đinh Xuân Quảng, Phan Huy Quát, Trần Văn Tuyên, Trần
Quang Vinh, Trần Thành Đạt, BS Lê Văn Hoạch, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn
Tâm, v..v…đến họp tại Hồng Kông. Trong buổi hội nghị này có bàn về sự
lựa chọn quốc kỳ và bản quốc ca cho Việt Nam. Hình vẽ là cờ vàng ba sọc
đỏ tượng trưng ba miền Trung, Nam, Bắc của họa sĩ nổi danh tại miền Nam
là họa sĩ Lê Văn Đệ đã được chọn làm quốc kỳ Việt nam. Tôi đề nghị
chọn bản ‘Tiếng Gọi Sinh Viên’ làm quốc ca, vì nó là linh hồn cuộc
chống Pháp tại miền Nam Việt nam của Đoàn Thanh Niên Tiền Phong. Hội
nghị đã chấp thuận và bản nhạc được đổi tên là Thanh Niên Hành Khúc với lời nhạc…”[22] (được giữ nguyên như trên)
Về thời điểm Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn chỉ nói là vào khoảng năm 1947 và cũng không giải thích sự thay đổi lời hát nhưng điều này không khó hiểu vì thời cuộc Việt nam vào lúc này đã hoàn toàn thay đổi. Lực lượng của người Việt Quốc Gia đã được tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của Cựu Hoàng Bảo Đại và chính quyền Quốc Gia của một nước Việt Nam độc lập và thống nhất đang trên đà thành hình, việc lựa chọn Quốc Kỳ và Quốc Ca, những biểu tượng cho một chính thể mới, phải là một trong những việc làm đầu tiên cần được thực hiện. Cờ vàng với ba sọc đỏ là tượng trưng cho sự thống nhất ba kỳ, nguyện vọng của mọi người lúc đó, Thanh Niên Hành Khúc là linh hồn cuộc kháng chiến chống Pháp tại miền Nam Việt Nam của Đoàn Thanh Niên Tiền Phong là những lý do được nêu lên.
Ta cũng cần phải thêm vào đó một sự kiện không thể chối cãi được. Đó là những sinh viên xuất thân từ xứ Nam Kỳ là những ngưòi đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc sáng tác và phổ biến ca khúc này. Tiếp theo là sự thành hình của chính quyền quốc gia và sự thực thi nền thống nhất lãnh thổ và thống nhất dân tộc. Cả hai cùng bắt đầu từ miền Nam, từ xứ Nam Kỳ. Nói cách khác nền thống nhất của đất nước Việt Nam vào cuối thập niên bốn mươi đã không đến bằng bạo lực mà bằng hòa bình và phát khởi từ miền Nam. Miền nam đã ý thức được nguồn gốc và vai trò lịch sử của mình, đã tìm cách trở về với dân tộc. Đó là sự trở về với lãnh thổ quốc gia của xứ Nam Kỳ do chính người miền Nam chủ xướng. Trong hoàn cảnh này, lời của bài hát đương nhiên là phải được sửa đổi.
Giai đoạn tiếp theo là thời kỳ chế độ Cộng Hoà ở miền Nam được thành lập, người Pháp đã ra đi, nền độc lập đã hoàn toàn được thực hiện, một giai đoạn mới đã bắt đầu, lời của Quốc Ca một lần nữa cần được điều chỉnh thêm một lần nữa cho thích hợp với một nước Việt Nam độc lập đang trên đường củng cố và xây dựng.
Nguyên văn của lời mới như sau:
Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai quốc dân cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù nước lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người công dân luôn vững bền tâm chí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời
Điệp khúc:
Công dân ơi! Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công dân ơi! Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ!
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống,
Xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.[23]
II. Tiến Quân Ca
Tiến Quân Ca là một hành khúc gồm một điệu nhạc và hai phần lời, được làm cho quân Việt Minh lúc đó mới được thành lập trên chiến khu, theo lời yêu cầu của Vũ Quí. Nguyên văn phần lời ban đầu như sau:
Lời I:
Đoàn quân Việt Minh đi chung lòng cứu quốc,
Bước chân dồn vang trên đưòng gập ghềnh xa.
Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước,
Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca.
Đường vinh quang xây xác quân thù.
Thắng gian lao đoàn Việt lập chiến khu.
Thề phanh thây uống máu quân thù!
Tiến mau ra sa trường. Tiến lên! Cùng thét lên!
Chí trai là đây ta ước nguyền.
Lời II:
Đoàn quân Việt Minh đi, sao vàng phất phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than.
Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới.
Đứng đều lên gông xích ta đập tan.
Từ bao lâu ta nuốt căm hờn.
Quyết hy sinh đời ta tươi thắm hơn.
Dù thây phơi xương nát không sờn.
Tiến mau ra sa trường. Tiến lên! Cùng thét lên!
Chí trai là đây, nơi ước nguyền
Bài này, sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ngày 19 tháng 8 năm 1945 và Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 sau đó đã trở thành Quốc ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà rồi Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện tại. Trong hoàn cảnh mới, lời ca đã được thay đổi. “Đoàn quân Việt Minh” đã được đổi thành “Đoàn quân Việt Nam” và đặc biệt là câu “Thề phanh thây uống máu quân thù”, nghe có vẻ sắt máu và đôi khi man rợ theo nhiều ngưòi nhận định cho một dân tộc tư coi là văn minh của thời đại mới không có lợi cho các vận động tuyên truyền, đã được đổi thành “Vì nhân dân chiến đấu không ngừng”…[24]
Tuy nhiên, trước khi có những sự thay đổi này, đối chiếu với những gì chính tác giả Văn Cao tiết lộ với nhà văn Nguyễn Thụy Kha năm 1991 như đã trình bầy trên đây và như một “sự thực thứ ba” là “Khi bài Tiến quân ca được công nhận là Quốc ca Việt Nam, nó đã được sự góp ý về nhạc của anh Đinh Ngọc Liên và Nguyễn Hữu Hiếu. Còn lời thì anh Tố Hữu đã sửa nhiều câu…” lời của Tiến Quân Ca và luôn cả nhạc đã bị sửa ít ra là một lần chưa kể tới sự ít ra là góp ý của Nguyễn Đình Thi và chắc chắn những chỉ dẫn của Vũ Quí. Tiếc rằng ông đã không nói rõ hơn là những góp ý và những câu được sửa ấy là những câu nào, đồng thời nguyên thủy do Văn Cao làm là như thế nào. Người ta cũng không được rõ trong thâm tâm của ông lúc đó và sau này, Văn Cao đã có những cảm nghĩ gì trước những sự “góp ý” và “sửa” đó. Đằng sau thái độ chấp nhận, vui vẻ, thụ động, hãnh diện hay bất đắc dĩ đó, ông đã nghĩ gì? Nó có ảnh hưởng gì tới những việc làm sau này của ông không? Nó có phải là một trong nỗi u uất ông mang theo khi từ bỏ cõi đời này không? Lịch sử không bao giờ được biết. Có điều sau khi ông mất một vài tác giả đã nói tới sự đau buồn của ông sau cái chết đầy nghi vấn của Vũ Quí vào giữa tháng 9 năm 1945. Kể lại chuyện này, Phí Văn Bái đã ghi: “Mỗi khi nhắc lại chuyện cũ, cũng như hôm nay anh cầm tấm ảnh đồng chí Vũ Quý, nước mắt anh lại ướt đầm.”[25] Còn Nguyễn Thụy Kha, người có lẽ được nghe Văn cao tâm sự nhiều hơn hết vì tác giả này đã viết cả một chùm 18 bài về nhạc sĩ thiên tài nhưng bất hạnh này, trong “Văn Cao, Người Viết Quốc Ca”, thì nhận xét về Văn Cao trong thời kỳ kháng chiến như sau:
“ Chín năm kháng chiến dằng dặc đi qua gia đình anh và cho anh hai đứa con trai cùng sự nghiệp âm nhạc. Nhưng cũng chín năm ấy, lòng anh biết bao trăn trở. Cái buồn đầu tiên mà anh vấp phải là cái chết khó hiểu của Vũ Quý – người mà bằng mọi linh cảm, anh không tin có thể là người xấu. Mất Vũ Quý, anh cảm thấy chống chếnh tinh thần biết bao. Rồi vết thương cũng thành sẹo. Nhưng lại bao vết thương khác mưng tấy vì những xót xa trước nhiều điều mà khi hăng hái nhập vào cách mạng, anh không cách gì nghĩ tới. Đã xen vào giữa những người từ tế là những kẻ cơ hội. Đau đớn nhất là chúng – những kẻ không của chúng ta lại vẫn đang đàng hoàng đứng trong hàng ngũ chúng ta. Đứng vững và có quyền lực nữa. Thế mới khó khăn!”[26]
Chưa hết. Sau này “Cho đến những ngày ở Hà Nội, mấy năm 1956-1957, trong văn nghệ có nhiều sóng gió, anh Văn Cao có những vấp váp buồn bực.”[27] Những sóng gió này ai cũng biết là vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
Văn Cao đã không còn được phép sáng tác và nhạc của ông cũng không còn được trình diễn nhưng người ta cũng cần phải hiểu là trong hoàn cảnh đó ông cũng chẳng còn hứng khởi để làm gì. Hậu quả là “Hai mươi năm cuối cuộc đời, Văn Cao chỉ viết vài ba bài hát, đấy là bài Mùa xuân đầu tiên (1975) và bài Tình ca trung du (1984).
Bài Mùa xuân đầu tiên ông viết sau ngày nước nhà thống nhất, khi cảm xúc trào lên ào ạt ở những người khác, thì cảm xúc của ông lắng lại, bình thản sau quá nhiều xáo trộn cuộc đời. Ông nhìn thấy mùa xuân dặt dìu theo én về, ông lắng nghe tiếng “gà đang gáy trưa bên sông” và ông khẳng định rằng cái “mùa bình thường” đã về. “Từ đây người biết quê người – Từ đấy người biết thương người – Từ đây người biết yêu người”. Âm nhạc của ông vẫn đẹp, ấm và sang trọng, thoát hẳn ra ngoài những bài hát reo vui lúc bấy giờ. Đó là bí mật tài hoa riêng của ông. Bài hát liền sau đó được dịch và in ở Liên Xô. Chỉ tiếc rằng hầu như nó chẳng được phổ biến trong đất nước của mình.”[28] Một hiện tượng hoàn toàn toàn trái ngược với hiện tượng Phạm Duy ở miền Nam.
Đáp Lời Sông Núi của Trúc Hồ thoạt nghe có vẻ đơn giản hơn hai bài trước, chỉ gồm có một điệu nhạc và một lời:
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Tổ quốc lâm nguy! Xương máu này ta nguyện hiến dâng!
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Quyết bảo vệ giang san! Ta thề chết cho quê hương!
Đây muôn triệu con tim! Đây muôn triệu khối óc!
Cũng dòng máu Việt Nam.
Đây Hưng Đạo Vương! (Hai Bà Trưng!) Đây Lý Lê Trần!
Bốn ngàn năm chưa một lần khuất phục ngoại xâm!
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Tổ quốc lâm nguy, xương máu này ta nguyện hiến dâng.
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Quyết bảo vệ giang san! ta thề chết cho quê hương!
Quyết bảo vệ giang san! từng tấc đất, từng cây cỏ
Từng phố phường, từng con đường, từng bờ biển quê hương!
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam!
Nhưng khi được hỏi, Trúc Hồ đã giải thích thêm là sự đơn giản, nhất là lời, chỉ là để cho bài hát dễ hát còn thực sự về nhạc, nội dung không hoàn toàn như thế mà bao gồm cả thảy bốn phần: phiên khúc, điệp khúc, đoạn nhạc tiếp nối (musical bridge) và đoạn nhạc coda với những chi tiết như sau:
Phiên khúc:
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Tổ quốc lâm nguy! Xương máu này ta nguyện hiến dâng!
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Quyết bảo vệ giang san! Ta thề chết cho quê hương!
Điệp khúc:
Đây muôn triệu con tim! Đây muôn triệu khối óc!
Cũng dòng máu Việt Nam.
Đây Hưng Đạo Vương! (Hai Bà Trưng!) Đây Lý Lê Trần!
Bốn ngàn năm chưa một lần khuất phục ngoại xâm!
Phiên khúc:
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Tổ quốc lâm nguy, xương máu này ta nguyện hiến dâng.
Đáp lời sông núi, anh em ta đáp lời sông núi.
Quyết bảo vệ giang san! ta thề chết cho quê hương!
Đoạn nhạc tiếp nối (Musical Bridge):
Quyết bảo vệ giang san! từng tấc đất, từng cây cỏ
Từng phố phường, từng con đường, từng bờ biển quê hương!
Đoạn nhạc coda:
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam!
C. Đối tượng và khả năng hấp dẫn
Vì được sáng tác trong những hoàn cảnh khác nhau, đối tượng được hướng tới của ba bài hát khác nhau, từ đó lời hát và điệu nhạc cũng khác nhau, tính chất và khả năng lôi cuốn người hát và người nghe cũng khác nhau.
Đối tượng của Tiếng Gọi Sinh Viên là sinh viên, là tập thể mà tác giả là một thành phần, kể cả nếu theo lời kể của nhiều người cho rằng bài này khởi thủy là được làm cho học sinh trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký khi tác giả còn theo học trường này, nó vẫn là tập thể của chính tác giả. Nói cách khác, chính thức hơn, bài hát này được Lưu Hữu Phước làm cho tập thể của chính ông, tâp thể sinh viên Đại Học Đông Dương ở Hà Nội và được mang tên là Sinh Viên Hành Khúc với tên tiếng Pháp là Marches des Étudiants. Trong hoàn cảnh đó, ước mơ và hy vọng của Lưu Hữu Phước cũng là ước mơ và hy vọng chung của tất cả mọi người trong tập thể chung của ông. Chúng bắt nguồn từ hoàn cảnh sinh hoạt đương thời, từ học hành cho đến chính trị, xã hội, văn hoá… trong đó quan trọng hơn cả là lịch sử oai hùng của nhiều ngàn năm của dân tộc mà ông và những đồng bạn cùng quê hương Nam Kỳ, một miền đất của quốc gia Việt Nam vốn từ lâu bị nhượng làm thuộc địa của người Pháp, của ông, bất ngờ tìm lại được qua sách vở và qua những chuyến du ngoạn thăm các di tích lịch sử ở xung quanh thủ đô Hà Nội. Sức lôi cuốn của Tiếng Gọi Sinh Viên ngay từ những ngày đầu và ở toàn quốc, từ Bắc chí Nam, bắt nguồn từ những yếu tố này. Lịch sử của dân tộc trực tiếp hay gián tiếp bàng bạc trong khắp cả ba phần lời của bài hát, đặc biệt là phần thứ hai. Chúng khích động người hát và đem họ lại gần nhau vì tác giả là chính họ, và họ là chính tác giả, cả hai là một, không có sự khác biệt:
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xóa!
Hùng cường Trời Nam ghi trên bảng vàng bia đá!
Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam Tiến luôn
(mau tiến lên),
Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.
Hồ Tây tranh phong oai son phấn,
Lừng tiếng Sát Thát, Trần Quốc Tuấn.
Mài kiếm cứu quốc (nước) nhớ Người Núi Lam,
Trừ Thanh Quang Trung giết hàng bao đám.
Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền.
Trưòng hợp của Tiến Quân Ca, trái lại, hoàn toán khác hẳn. Nó không được làm cho chính tác giả, dù cho trong hồi ký Văn Cao có nói tới “bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh” hay “ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt” hay việc ông “đang chờ nhận một khẩu súng lục và được tham gia vào đội vũ trang”.[29] Những sự kiện này chỉ đến với Văn Cao sau khi ông nhận lời của Vũ Quí “làm môt bài hát cho quân đội cách mạng của chúng ta” và khi ông lang thang đi tìm “một cái gì để nói, một âm thanh đầu tiên”. Cái gì để nói, âm thanh đầu tiên này lúc mới gặp Vũ Quí trở lại, được Vũ Quí giao cho công tác, được nhận trợ cấp, có chỗ ăn cơm tháng, chấm dứt cuộc đời lang thang, thất nghiệp và đói khát của ông, Văn Cao không hề có. Quân đội cách mạng cho tới thời điểm đó chỉ mới là của Vũ Qui, chưa là của Văn Cao. Quân đội cách mạng hay “Đoàn quân Việt Minh” sau này trong Tiến Quân Ca lúc đó còn ở tít trên chiến khu, Văn Cao chưa từng thấy, chưa nói tới chuyện ông có phải là một đội viên của nó hay không. Chuyện ông nhận được khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang mới chỉ là chuyện ông đang chờ. Câu hỏi được đặt ra là nếu vậy làm sao bài hát này lại được phổ biến nhanh như vậy? Câu trả lời rất đơn giản: đó là nhờ guồng máy tuyên truyền của Việt Minh thời đó rồi sau này là của chính quyền khi nó trở thành quốc ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch. Nó cách khác, tác giả và đối tượng của Tiến Quân Ca là hai chủ thể hoàn toàn khác biệt, không phải là một. Người hát cũng vậy.
Không có cái may mắn của cả Lưu Hữu Phước và Văn Cao, Trúc Hồ khi làm Đáp Lời Sông Núi không
có một đối tượng rõ ràng như hai tác giả tiền bối của ông. Khi tác giả
mới lớn lên, từ các trường thuộc bậc tiểu học đến trường Petrus Ký mà
ông đã theo học, như đã nói ở trên, đều đã không còn nữa, kể cả cái tên
Petrus Trương Vĩnh Ký. Tên này sau năm 1975 đã bị thay thế bằng tên Lê
Hồng Phong lạ hoắc. Các thày cô cũ nhiều người cũng đã ra đi hay không
còn được dạy nữa. Họ đã bị thay thế bằng những thày cô từ miền Bắc vô,
những người từ lời nói, cách đối xử đến kiến thức và cách dạy khác hẳn
các thày cô cũ.
Người ta không rõ là Trúc Hồ đã bị ngỡ ngàng, trơ trọi và cô đơn như thế nào, nhưng chắc chắn những mất mát đầu đời này đã ám ảnh ông suốt đời, từ đó đã ảnh hưởng tới âm nhạc của ông. Không còn trường và bạn học nhưng Trúc Hồ vẫn còn anh em, bạn bè và nhất là vẫn còn những người thày dạy nhạc cũ. Mạnh hơn nữa là những gì đã xảy ra ở Biển Đông trong thập niên đầu của thế kỷ 21, đặc biệt là sự săn đuổi, bắt giữ đòi tiền chuộc, đánh đập, làm nhục các ngư dân Việt Nam của các tầu hải tuần của Trung Cộng mà báo chí, truyền hình, truyền thanh và tin tức trên mạng đã đến với người Việt gần như hàng ngày.
Tất cả đã gợi lại trong trí nhớ của mọi ngườì về cuộc xâm chiến Hoàng Sa năm 1974 và sau đó là một số đảo ở Trường Sa vào năm 1988 của Trung Cộng. Theo Trúc Hồ tâm tình với người viết, sự hy sinh của Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà và 74 chiến hữu của ông cũng như sau này của 64 chiến sĩ Hải Quân khác, đã trực tiếp thúc đẩy ông làm Đáp Lời Sông Núi. Ông đã không mở đầu bài hát của mình bằng lời kêu gọi mà bằng lời rủ anh em, bạn bè thân thiết của mình và rộng hơn, những người cùng trang lứa với mình ở bất cứ nơi nào trên thế giới hay ở Việt Nam “đứng lên đáp lời sông núi!” như là một tập thể duy nhất: “Đáp lời sông núi! Anh em ta đáp lời sông núi!” Giữa người rủ và người được rủ ở đây là một, không có người kêu gọi và người được kêu gọi. Nói cách khác người làm bài hát, người hát bài hát và người nghe bài hát đều là một. Mọi ngưòi hòa nhập với nhau không có sự phân biệt giữa người nhắm và người được nhắm tới. “Anh em ta…!” so với “Này sinh viên ơi!” tuy có giống nhau nhưng đã vượt xa hơn một bực. Không dừng ở đó, Trúc Hồ vươn tới “muôn triệu con tim, muôn triệu khối óc cùng dòng máu Việt Nam” hay trong một bài khác “ những trái tim gọi Việt Nam, những trái tim cùng dòng máu”:
Người ta không rõ là Trúc Hồ đã bị ngỡ ngàng, trơ trọi và cô đơn như thế nào, nhưng chắc chắn những mất mát đầu đời này đã ám ảnh ông suốt đời, từ đó đã ảnh hưởng tới âm nhạc của ông. Không còn trường và bạn học nhưng Trúc Hồ vẫn còn anh em, bạn bè và nhất là vẫn còn những người thày dạy nhạc cũ. Mạnh hơn nữa là những gì đã xảy ra ở Biển Đông trong thập niên đầu của thế kỷ 21, đặc biệt là sự săn đuổi, bắt giữ đòi tiền chuộc, đánh đập, làm nhục các ngư dân Việt Nam của các tầu hải tuần của Trung Cộng mà báo chí, truyền hình, truyền thanh và tin tức trên mạng đã đến với người Việt gần như hàng ngày.
Tất cả đã gợi lại trong trí nhớ của mọi ngườì về cuộc xâm chiến Hoàng Sa năm 1974 và sau đó là một số đảo ở Trường Sa vào năm 1988 của Trung Cộng. Theo Trúc Hồ tâm tình với người viết, sự hy sinh của Hải Quân Thiếu Tá Ngụy Văn Thà và 74 chiến hữu của ông cũng như sau này của 64 chiến sĩ Hải Quân khác, đã trực tiếp thúc đẩy ông làm Đáp Lời Sông Núi. Ông đã không mở đầu bài hát của mình bằng lời kêu gọi mà bằng lời rủ anh em, bạn bè thân thiết của mình và rộng hơn, những người cùng trang lứa với mình ở bất cứ nơi nào trên thế giới hay ở Việt Nam “đứng lên đáp lời sông núi!” như là một tập thể duy nhất: “Đáp lời sông núi! Anh em ta đáp lời sông núi!” Giữa người rủ và người được rủ ở đây là một, không có người kêu gọi và người được kêu gọi. Nói cách khác người làm bài hát, người hát bài hát và người nghe bài hát đều là một. Mọi ngưòi hòa nhập với nhau không có sự phân biệt giữa người nhắm và người được nhắm tới. “Anh em ta…!” so với “Này sinh viên ơi!” tuy có giống nhau nhưng đã vượt xa hơn một bực. Không dừng ở đó, Trúc Hồ vươn tới “muôn triệu con tim, muôn triệu khối óc cùng dòng máu Việt Nam” hay trong một bài khác “ những trái tim gọi Việt Nam, những trái tim cùng dòng máu”:
“Tựa vào lòng nhau, ơi những trái tim gọi ViệtNam!
Tựa vào lòng nhau, ơi những trái tim cùng dòng máu!”
( Một Ngày Việt Nam)
Khả năng hấp dẫn hay hấp lực hay sự quyến rũ của Đáp Lời Sông Núi và đương nhiên Tiếng gọi Sinh Viên nằm ở điểm này, điểm mà Tiến Quân Ca không có. Đối tượng của bài hát của Văn Cao không phải là Văn Cao hay những người chung quanh Văn Cao mà là một tập thể những người ông chưa bao giờ gặp hay nhìn thấy. Lý do hoàn toàn đơn giản: ông đã làm theo “đơn đặt hàng”. Người ta có thể viện dẫn những người “đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh” mà ông đã bắt gặp khi đi lang thang tìm hứng sau khi nhận lời với Vũ Quí, hay chuyện ông sắp nhận được khẩu súng “và được tham gia vào đội vũ trang”, coi như là một danh dự và là niềm hãnh diện của ông, để biện minh phần nào, nhưng tất cả vẫn chỉ là gượng ép. Đối tượng chính của bài hát của ông vẫn là những Đội Tuyên Truyền Giải Phóng Quân mới đưọc thành lập ở một nơi xa tắp nào đó, trên tận chiến khu. “Đoàn quân Việt Minh đi…” chỉ là do trí tượng của ông cũng như “bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa” của họ. Không thấy họ, Văn Cao không thể nào kêu gọi họ. Họ đã có trước rồi nên ông chỉ có thể ngưỡng mộ họ và ca ngợi họ bằng những lời lẽ mà những cán bộ tiếp xúc với ông và giao công tác cho ông đã hướng dẫn cho ông như “cứu quốc”, “cờ in máu”, “chiến khu”, “phanh thây uống máu quân thù”, “sao vàng phất phới”… thay vì bằng những ngôn từ đẹp, đầy lãng mạn tính và nặng về hoài cổ của Buồn Tàn Thu, Thiên Thai, Suối Mơ, Trương Chi, hay ít ra là Thăng Long Hành Khúc… của ông trước đó.
Văn Cao cũng không dành cho lịch sử một chỗ đứng trong bài hát của ông, bài hát cho quân đội cách mạng. Lý do phải chăng là vì đối tượng chính phải là cách mạng, phải mang chiến đấu tính, phải có quân thù, giết quân thù và chiến thắng quân thù… và nhất là phải bỏ lại sau lưng những cái cũ. Cũng là chiến đấu cho người Việt Nam nhưng ông không hề nhắc tới truyền thống hào hùng ngàn năm của Dân Tộc Việt Nam. Những tên tuổi quen thuộc đối với giới trẻ đương thời như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Thường Khiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung…, những địa danh như Mê Linh, Sông Hát, Bạch Đằng, Chi Lăng Đống Đa… mà Lưu Hữu Phước, Hoàng Quí, Thẩm Oánh, Lê Thương và nhiền nhạc sĩ thuộc thế hệ sau của ông trân trọng ngợi ca hoàn toàn không được nhắc tới trong bài hát này của ông. Tất cả đều phải chăng không cần thiết, nếu không nói là không được nói tới vì đoàn quân Việt Minh là đủ và là khởi đầu.
Sau này, qua Đàn Chim Việt, Chiến Sĩ Việt Nam, Bắc Sơn, Làng Tôi, Sông Lô, Ngày Mùa, Tiến Về Hà Nội, Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch, Không Quân Việt Nam, Hải Quân Việt Nam… các tên tuổi của Lịch Sử Việt Nam và các địa danh liên hệ, sau Thăng Long Hành Khúc, Gò Đống Đa hoàn toàn vắng bóng, nhường chỗ cho những tên lần đầu tiên xuất hiện như Đô Lương, Bắc Sơn, Thái Nguyên, Hồ Chủ Tịch, Già Hồ…
Lưu Hữu Phước và Trúc Hồ hoàn toàn trái ngược với Văn Cao. Hai nhạc sĩ này đã lấy lịch sử của dân tộc làm khởi đầu và là nguồn căn bản cho những sáng tác của mình. Như đã nói ở trên, cuộc đời sáng tạo về âm nhạc của Lưu Hữu Phước bắt đầu bằng sự khám phá ra quá khứ của tổ tiên xa xưa nhất của ông, ngay từ ngày ông còn là học sinh ở Saigon, sau đó là khi ông cùng với các bạn sinh viên cùng quê hương Miền Nam với ông thăm viếng những di tích lịch sử ở miền Bắc, nơi phát xuất của dân tộc ông. Nói cách khác tất cả đã khỏi đầu khi hồn thiêng của sông núi và anh linh của tổ tiên của dân tộc đã trỗi dậy trong lòng ông. Ba lời ca của Tiếng Gọi Sinh Viên sau này đã trở thành những bài học lịch sử mà không ít những người dạy lịch sử, văn hóa và đạo đức dân tộc cho tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại đã dùng. Tất cả những tên tuổi lớn của nhiều ngàn năm của lịch sử dân tộc kể trên đều được trực tiếp hay gián tiếp làm sống lại trong những lời ca này, bên cạnh những danh xưng khác như Hồ Tây, Núí Lam…
Lịch
sử Việt Nam và các tên tuổi lớn của quá khứ đấu tranh để bảo vệ đất
nước, vinh quang và sự trường tồn của dân tộc cũng là nguồn cảm hứng
mạnh mẽ và phong phú cho Trúc Hồ khi người nhạc sĩ trẻ tuổi của Cộng
Đồng Việt Nam ở Hải Ngoại này làm những bài ca cho quê hương của mình,
mà Đáp Lời Sông Núi chỉ là điển hình. Tất cả đã bắt đầu bởi hai
tiếng Việt Nam. Phải dời Việt Nam ra đi từ thời còn nhỏ, sống xa lìa
quê hương, xóm làng, cha mẹ, thày cô, bạn bè…hai tiếng Việt Nam đã trở
thành một ám ảnh không dời đối với ông.
Trong Đáp Lời Sông Núi, Việt
Nam đã được ông nhắc tới bốn lần, một lần ở giữa bài và ba lần liên
tiếp được lập lại để kế thúc. Tên Việt Nam cũng được ông dùng trong
nhan đề của nhiều bài hát khác của ông như Một Ngày Việt Nam, Bước Chân Việt Nam, Con Đường Việt Nam và trong
nội dung của phần lớn các bài hát của ông. Đối với ông cũng như đối
với Trầm Tử Thiêng, Việt Dũng, Anh Bằng…, những đồng tác giả với ông
cho nhiều bài hát, Việt Nam là hai tiếng thiêng liêng gắn liền với cuộc
đời tị nạn của ông. Trúc Hồ đã gửi tới người hát, người nghe và có thể
chính mình lời nhắn nhủ “dù nhục, dù vinh, xin hãy hát vang lời Việt
Nam” để “Bạn hãy cùng tôi! Bước theo ngọn đuốc Việt Nam!”
Cuối cùng, qua Tiến Quân Ca,
người ta thấy Văn Cao đã không mở ra được một viễn ảnh, không đem lại
một ánh sáng mới, một chân trời mới cho những chiến sĩ của đoàn quân
Việt Minh, chưa nói tới đồng bào đương thòi của họ, đất nước và dân tộc
của họ. Ông chỉ kêu gọi họ “thề phanh thây uống máu quân thù”, “thắng
gian lao”, “lập chiến khu” để rồi “tiến lên cùng thét lên!” vì “chí
trai” là ở đó, “là đây nơi ước nguyền”. Cái đích cuối cùng mà ông vạch
ra cho họ là ở đó, ước nguyền mà ông nó lên cho họ là ở đó, ở chiến khu
để họ mãi mãi tiến lên cùng thét lên… Chấm hết! Tất nhiên là ở giai
đoạn Văn Cao viết Tiến Quân Ca như một người nhìn từ bên ngoài
và cho giai đoạn ông được yêu cầu sáng tác và sáng tác theo chỉ thị,
ông không thể làm hơn được. Nhưng về sau này, vì bài hát đã trở thành
quốc ca nên định mệnh của dân tộc cũng nằm ở đó, ở chiến khu, chiến khu
từ sau khi nó trở thành quốc ca và cả nước trở thành chiến khu ngay từ
cuối năm 1946, rồi liên tiếp sau nhiều thập niên tiếp theo, có thể
luôn cả đến những ngày hiện tại, trong tương lai gần, khi người ta, một
lần nữa, nói tới hiểm họa mất nước, hiểm họa đến từ ngoài khơi hay
hiểm họa xảy ra ngay trên đất liền, cuối cùng vẫn chỉ là chiến khu, là
nơi “chí trai” của người Việt đã “ước nguyền”, đến độ hậu duệ của ông,
Trúc Hồ và Trầm Tử Thiêng phải lên tiếng thê thảm kêu than:
Từng vòng tử sinh quay thấm thoát cũng vài ngàn năm.
Nhiều lần nằm mơ, Ôi đất nước bao lần đổi mớí!
Bằng cuộc bể dâu,
Xương trắng vẫn cao nghệu thành non,
Dòng máu vẫn tuôn trào thành sông.
Chưa thấy bóng thanh bình một lần.
Lưu Hữu Phước và những đồng tác giả của ông hiền lành hơn, bình thường hơn, chỉ kêu gọi tập thể sinh viên “đứng lên đáp lời sông núi”, cùng nhau đồng lòng “mở đường khai lối” cho đồng bào , đừng quên khí phách của tiền nhân với ưóc mong một “ngày vẻ vang” sẽ đến để người nước Nam vang tiếng đến “muôn đời”. Ước vọng chung của họ là đất nước quang vinh và trường tồn. Sau nàỳ khi trở thành quốc ca, ước vọng này được nêu lên một cách rõ rệt hơn với hai câu ba và bốn được đổi thành
“Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.”
hầu làm cho
“Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời”
Ngoài ra một chi tiết ta không cũng nên bỏ sót là khi Tiếng Gọi Sinh Viên được đổi thành quốc ca, hai câu “Hồn thanh xuân như gương trong sáng, đừng tiếc máu nóng tài xin ráng!” đã được đổi thành “Dù cho phơi thây trên gươm giáo, thù nước lấy máu đào đem báo.” Qua hai câu được đổi thành này “thây” và “máu” đã được nói tới nhưng thây và máu ở đây không đồng nghĩa với thây và máu trong Tiến Quân Ca, không phải thây và máu của quân thù mà là thây và máu của chính người công dân đổ ra để bảo vệ quê hương, đất nước, để làm “tươi thắm cỏ hoa” trên cánh đồng chung của cả dân tộc, như Hùng Lân, một nhạc sĩ đồng thời với Văn Cao và Lưu Hữu Phước, đã viết trong Việt Nam Minh Châu Trời Đông của ông, “Non sông như gấm hoa uy linh một phương” và như lối nói bình thường trong ngôn ngữ quen thuộc của người Việt “đem máu xương xây đắp sơn hà” hay đem máu đào tô thắm non sông”…
Trong Đáp Lời Sông Núi, Trúc Hồ không nói lên ước vọng của mình cũng như ước vọng chung của cả dân tộc so với Lưu Hữu Phước trong Tiếng Gọi Sinh Viên. Điều này không có gì khó hiểu. Đáp Lời Sông Núi
ở đây là lời kêu gọi khẩn cấp để đáp ứng cho một tình trạng khẩn cấp
và kêu gọi từ Hải Ngoại trước nạn ngoại xâm mới xảy ra ở Biển Đông.
Trong những bài hát khác, người nhạc sĩ thuộc thế hệ một rưỡi của Cộng
Đồng Người Việt Di Tản đã nói lên ước vọng đó, ước vọng Tự Do, Công
Bình, Nhân Ái, ước vọng nước Việt ngày mai ngời sáng. Điển hình là bài Thiên Thần Trong Bóng Tối mà người viết ghi nguyên văn dưới đây, thay cho phần kết luận:
Từ khi tôi chào đời, bập bẹ hai tiếng Việt Nam.
Yêu quê hương qua từng trang sách,
Hùng Vương, Phù Đổng rạng ngời.
Trải qua bao thời đại thăng trầm theo những buồn vui.
Quê hương sau ngày lửa khói, tự do hạnh phúc xa vời.
Bạn hãy cùng tôi, thắp lên ngọn đuốc Việt Nam!
Tình Yêu, Tự Do, Công lý, bình an hạnh phúc cho người!
Bạn hãy cùng tôi bước theo ngọn đuốc Việt Nam!
Niềm tin ngày mai tươi sáng, hiến dâng cuộc sống cho đời!
Tình Yêu, Tự Do, Công lý, bình an hạnh phúc cho người!
Bạn hãy cùng tôi bước theo ngọn đuốc Việt Nam!
Niềm tin ngày mai tươi sáng, hiến dâng cuộc sống cho đời!
Những thiên thần trong bóng tối,
Mang ánh sáng vào nơi tối tăm,
Mang tình yêu xóa tan hận thù,
Mang tự do công bình nhân ái,
Cho Việt Nam ngày mai ngời sáng!
Mang ánh sáng vào nơi tối tăm,
Mang tình yêu xóa tan hận thù,
Mang tự do công bình nhân ái,
Cho Việt Nam ngày mai ngời sáng!
Phạm Cao Dương