Lê Nguyên
Cái mà nền giáo dục Việt Nam thiếu trầm trọng là một môi trường học thuật lành mạnh. Ở đó cho phép phát huy tối đa sức sáng tạo của con người. Ở đó có tự do tranh luận, ở đó có sự đua tranh tư tưởng, ở đó có các chế tài và ưu đãi khuyến khích người học đi đến tận cùng các suy tư khoa học của mình.
Cái thừa và cái thiếu
Năm   2010 đã khép lại. Bên cạnh những âu  lo phiền muộn về bức tranh  kinh   tế, giá cả đột biến, về lụt lội kinh  hoàng gây nên cảnh tang thương   cho  miền Trung ruột thịt… thì năm 2010  cũng là năm bừng lên niềm hân    hoan làm nức lòng hàng triệu người Việt  Nam và dịu bớt đi những căng    thẳng. Việt Nam lần đầu tiên có một người  giành được huy chương  Fields,   phần thưởng có uy tín như là một giải  Nobel trong lĩnh vực  toán học.
Giáo   sư Ngô Bảo Châu ngay sau sự kiện  đó, đã trở thành một cơn sốt:  Cơn  sốt  trên báo chí, cơn sốt cho các  bậc cha mẹ bắt chước tên của anh  để  đặt  tên cho con cái của mình. Và  phần nào đó là cả cơn sốt của các   nhà quản  lí xã hội, trong việc dùng  hình ảnh Ngô Bảo Châu để phục vụ  cho  các  mục tiêu chính trị!
Chẳng  có gì là  không đáng tự hào khi  trí tuệ Việt Nam chinh phục được  đỉnh  cao trí tuệ  nhân loại. Phần  thưởng một căn hộ lộng lẫy trị giá 12  tỉ  Việt Nam  đồng, dù sao đi nữa,  cũng là một món quà quý giá, về phía   Nhà nước, là  sự cụ thể hoá thành  vật chất để ghi công GS Ngô Bảo Châu,   và cũng là kỳ  vọng sự đóng góp  cho đất nước của người GS tài năng.
Rồi   thì ngay sau khi tin tức về huy  chương Fields được lan truyền và   bùng  nổ trên các phương tiện thông  tin đại chúng, trong niềm hân hoan  có   phần bồng bột của dân chúng và  của tầng lớp lớp lãnh đạo, những  nhà hữu   trách đã lập tức có ngay kế  hoạch phát triển nền khoa học  nước nhà bằng   cách đề ra ý tưởng xây  dựng một Viện nghiên cứu và đào  tạo cấp cao về   Toán.
Nhưng  rồi cơn hứng khởi nào  cũng sẽ qua  đi, và chúng ta cần phải tỉnh  táo  nhìn lại chính mình.  Không chỉ là  nhìn lại cái thực trạng khoa học,   thực trạng xã hội chung  của nước  nhà, mà còn là tỉnh táo nhìn lại để   cho ra những quyết sách  khôn  ngoan, đúng đắn. Người Việt Nam ta vốn có   thừa cái “nhiệt tình  nóng”  trong chiến tranh giữ nước, nhưng dường  như  lại thiếu cái khối  nhiệt  tình vô cùng cần thiết trong thời bình.
Cái   tinh thần không chịu nhục vì nghèo  hèn, cái tinh thần sống chết  theo   đuổi lí tưởng, đam mê của bản thân.  Việt Nam vốn thừa những Phạm  Ngũ   Lão bị đâm vào đùi vẫn không hay bởi  đang nung nấu nỗi căm hờn giặc    Nguyên và nghĩ mưu cứu nước. Nhưng Việt  Nam lại cũng thiếu những nhà  bác   học như Archimedes của Hi Lạp cổ  đại, vẫn mải mê với những suy tư  trừu   tượng về các bài toán xung quanh  các hình kỉ hà bất kể quân  giặc đã  kéo  đến sát sau lưng mình.
Ban   thưởng một ngôi biệt thự để ghi  công, hình thành ngay kế hoạch  xây  dựng  một viện nghiên cứu cấp cao về  toán học hay về một lĩnh vực nào   đó…  không có gì là sai cả, nhưng  liệu đã đủ chưa, liệu đã là đúng   hướng, là  giải pháp căn cơ cho cơn  khủng hoảng giáo dục nước nhà hiện   nay? Cần  bao nhiêu biệt thự lỗng  lẫy để ghi công hay bao nhiêu viện  khoa  học  nghiên cứu cấp cao được  mọc lên, để đưa giáo dục Việt Nam  thoát  khỏi  vũng lầy? Đâu là giải  pháp then chốt?
Có tố chất nhưng tại sao không có đỉnh cao?
Muốn   trả lời được câu hỏi đó, trước hết  phải trở lại đi tìm căn  nguyên  của  vấn đề. Chưa cần căn nguyên nào xa  xôi, hãy xét căn nguyên  ngay  từ  chính giải thưởng cụ thể là huy  chương Fields cao quý đó.
Rõ   ràng, không chỉ với Ngô Bảo Châu mà  còn với nhiều nhân tài khác  nữa   hiện đang thành danh trong môi trường  khoa học ở các nước phát  triển,   chúng ta có thể khẳng định rằng tố  chất của người Việt Nam không  hề   thua kém các nước trên thế giới.  Nhưng tại sao các nhân tài đó không    thể cất cánh khi ở trong nước, mà  chỉ có thể đạt đến đỉnh cao và thành    danh khi ra nước ngoài học tập?
Không   nghi ngờ gì nữa, cái mà nền giáo  dục Việt Nam thiếu trầm trọng  là  một  môi trường học thuật lành mạnh. Ở  đó cho phép phát huy tối đa sức   sáng  tạo của con người. Ở đó có tự do  tranh luận, ở đó có sự đua  tranh  tư  tưởng, ở đó có các chế tài và ưu  đãi khuyến khích người học  đi đến  tận  cùng các suy tư khoa học của  mình.
Toán   học với các GS tên tuổi như Ngô  Bảo Châu, Vũ Hà Văn, hay là vật  lí   thiên văn với các GS như Trịnh Xuân  Thuận… là thuộc về lĩnh vực khoa học tự nhiên.  Nhưng  cái môi trường học thuật ở đó có tự do tranh luận và cá nhân  được   phép  đi đến tận cùng các ý tưởng của mình thì lại thuộc về trách  nhiệm   của  các ngành khoa học nhân văn và khoa học xã hội,   cái  nền tảng  quan trọng cho sự phát triển bền vững của bất cứ quốc  gia   nào. Cái mảng  mà lâu nay ta lơ là, hờ hững nếu không muốn nói là  lãnh   đạm, ghét bỏ nó.
Thực  tế đáng ngại  đó về mặt khách quan  cũng bắt nguồn từ điều kiện  nước  nhà. Bao nhiêu  năm chiến tranh đói  nghèo, người ta phải xao lãng  cái  nhiệm vụ chăm lo  “phần hồn” của dân  tộc để lo lắng cho cái chết cận   kề và miếng cơm manh  áo. Khi tiến hành  đổi mới mở cửa, cả xã hội bung  ra  làm kinh tế, toàn  dân hối hả kiếm  tiền bất chấp mọi thứ, nhiệm vụ  “chăm  sóc phần hồn” kia  một lần nữa  lại bị lơ là, lãng quên.
Nhà   quản lí xã hội đã thiếu một tầm  nhìn dài hạn,  không lường trước được   các vấn nạn đó khi tiến hành mở  cửa kinh tế, cho  nên đã chậm trễ  trong  việc tập trung phát triển khoa  học xã hội nhân  văn, và đề ra  các giải  pháp then chốt cho các bài toán  xã hội. Đó chính  là nguyên  nhân sâu xa  của các vấn nạn nhức nhối  trong xã hội hiện nay:  Sự thờ ơ  của lớp trẻ  với vận mệnh dân tộc, sự  dửng dưng vô cảm với nỗi  đau  đồng loại, sự  thiếu ý thức tuân thủ pháp  luật, ý thức bảo vệ môi   trường,…
Cho   nên, sau những cơn hân hoan hào  hứng lâng lâng trong chiến thắng,    chúng ta cần tỉnh táo nhìn lại chính  mình. Và đặc biệt hơn lúc nào hết,    các nhà quản lí xã hội phải có các  quyết sách khôn ngoan và sáng  suốt,   các giải pháp căn cơ cho bài toán  giáo dục nước nhà. Theo đó,  những  biệt  thự sang trọng đắt tiền, những  viện nọ viện kia chỉ mới là  các  hành  động tức thời, không hề là cái  chìa khoá then chốt.
Tăng   lương, nâng cao chế độ đãi ngộ  cũng chưa phải là giải pháp tối  ưu  cho  người làm khoa học. Cái mà  người làm khoa học cần là một môi   trường  khoa học đích thực, ở đó  không bị vẩn đục bởi những sự phiền   nhiễu vô  văn hoá. Ở đó có tự do  học thuật, có tự do tư tưởng, được   khuyến khích  và được đảm bảo cho  việc đi đến tận cùng tư tưởng của  mình.
Xã   hội đương đại mà chúng ta đang sống  cần phá bỏ “độc quyền” chân  lí,   kiên quyết loại bỏ tư tưởng chụp mũ và  dán nhãn phản động hay lệch   lạc  về tư tưởng cho những ai dám nói lên  quan điểm khác biệt… là những    việc cần làm ngay để cứu vãn nền khoa  học và giáo dục nước nhà.
Xã hội lành mạnh là xã hội “bách gia tranh minh”
Muốn   xoá bỏ điều đó, trước hết phải  xuất phát từ ý thức của những  người   quản lý. Những nhà quản lí xã hội  cần thấy rằng một xã hội dân chủ  và   tiến bộ chưa bao giờ là một xã hội  đồng phục về tư tưởng. Một xã hội    lành mạnh và phát triển năng động  phải là một xã hội của “bách gia    tranh minh”, ở đó có sự cọ xát của  các tư tưởng, ở đó tôn trọng các ý    kiến khác biệt trên tinh thần  thượng tôn pháp luật.
Theo   đó, một giải pháp căn cơ cho nền  giáo dục nước nhà phải được thể   hiện ở  việc đề ra các chính sách đề  phát triển không chỉ ngành toán  học  hay  bất kì ngành cụ thể nào. Mà  quan trọng hơn là tạo ra một môi   trường,  một chế tài cho phép tự do  học thuật được nảy nở. Đó là nhiệm  vụ  của  khoa học xã hội nhân văn. Đó  là các giải pháp cần thiết để  tạo điều   kiện cho khoa học xã hội nhân  văn phát triển.
Khoa   học xã hội và nhân văn chỉ có thể  phát triển trong một môi  trường   không có sự áp đặt tư tưởng và sự độc  quyền chân lí. Giáo dục  phải đào   tạo ra các công dân tự tin sống trong  một xã hội thượng tôn  pháp  luật,  chứ không phải là các thần dân chỉ  biết câm lặng tuân phục.
Chỉ   khi nào chúng ta cảm thấy sẵn sàng  chấp nhận những lời chỉ trích,   cho  dù trong thâm tâm cảm thấy phần nào  khó chịu, chấp nhận những sự   khác  biệt, để biết lắng nghe, tận dụng  trí tuệ của các giai tầng, điều    chỉnh, sửa đổi những chủ trương, chính  sách chưa phù hợp với thực  tiễn,   với sự phát triển của xã hội trên  hành trình hội nhập. Chỉ khi  đó, cá   nhân tôi tin rằng sự khủng hoảng  giáo dục mới có cơ hội được  giải quyết   triệt để, các vấn nạn nhức nhối  hiện nay của xã hội có cơ  hội được dẹp   trừ.
 

