Isaac Stone Fish -
Newsweek 18 Tháng 10 2010
Hai tuần vừa qua, tất cả châu Á đã theo dõi với sự lo lắng khi Trung Quốc buộc Nhật Bản phải nhượng bộ trong một cuộc tranh chấp trên biển bằng cách hạ thấp các quan hệ ngoại giao, và sẽ dung túng nếu không muốn nói là khuyến khích các cuộc biểu tình trên đường phố của công chúng chống lại Đông Kinh cũng như ngưng vận chuyển các mặt hàng kim loại công nghiệp quan trọng cho Nhật Bản. Cuộc đối mặt này tượng trưng cho thái độ mới của Bắc Kinh: đã từng chính thức hứa hẹn vươn lên một cách hòa bình trong hợp tác với các nước láng giềng, nhưng giờ đây Trung Quốc quyết tâm biểu lộ với các nước láng giềng và Mỹ rằng họ đã và đang phát triển các quyền lợi quân sự và kinh tế mà các quốc gia khác bỏ qua vào những lúc nguy hiểm của mình.
Trung Quốc đã khơi lại vết thương cũ với Ấn Độ bằng cách công khai đưa ra những đòi hỏi về chủ quyền lãnh thổ tại bang Arunachal Pradesh, dẫn đến sự tập trung quân đội của cả hai nước dọc theo biên giới. Bắc Kinh đã từng công bố biển Đông là khu vực "lợi ích cốt lõi", một thuật ngữ trước đây được sử dụng cho Đài Loan và Tây Tạng để báo hiệu rằng Bắc Kinh sẽ không cho phép những lời chỉ trích từ bên ngoài đối với yêu sách của mình về một dải đại dương rộng lớn, có giá trị về chiến lược cũng như phong phú về dầu lửa.
Hải quân Trung Quốc ngày càng quấy rối các tàu thuyền của Mỹ và Nhật Bản trong vùng biển châu Á. Và Bắc Kinh đã ngăn chặn một cách rộng khắp các khiếu nại của các quốc gia trong lục địa Đông Nam Á, nơi các con đập mới của Trung Quốc trên phần thượng nguồn sông Mekong đã chuyển hướng lưu vực và làm tổn thương đời sống của ngư dân và nông dân ở dưới hạ lưu. Trung Quốc cũng đã kịch liệt lên án cuộc tập trận hải quân chung Mỹ-Hàn, và gây áp lực ngày càng tăng lên các quốc gia Đông Nam Á buộc các nước này phải chấm dứt ngay cả những quan hệ không chính thức với Đài Loan, nước đã từng có quan hệ rất gần với các quốc gia như Tân Gia Ba và Phi Luật Tân.
Hành vi hung hăng của Trung Quốc cho thấy một sự thay đổi lớn trong chính sách từ lâu của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình đã thường thúc giục các nhà lãnh đạo Trung Quốc hãy giữ một thái độ khiêm tốn trong công tác đối ngoại. Trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào cuối những năm 1990, Bắc Kinh đã phát động một cuộc tấn công lôi kéo các nước láng giềng, những nước vẫn còn nhớ những năm tháng cách mạng, chủ nghĩa can thiệp Trung Quốc của Mao Trạch Đông, khi họ ủng hộ chế độ diệt chủng Khờ Me Đỏ và quân nổi dậy ở Miến Điện. Lối tiếp cận êm dịu nhẹ nhàng đã gặt hái được thành công. Bắc Kinh đã ký được một thỏa thuận thương mại tự do với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có hiệu lực vào đầu năm nay giúp Bắc Kinh trở thành một trong những đối tác thương mại hàng đầu của gần như tất cả các nước trong khu vực. Trong cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000 Trung Quốc nâng cấp vai trò của nước này trong các tổ chức khu vực ở châu Á, trong đó có ASEAN, và chuyển trọng tâm quan hệ của mình về Ấn Độ, người khổng lồ mới nổi khác, từ các mối thù địch cũ để trở thành các mối liên kết thương mại mới, bao gồm quan hệ đối tác giữa các công ty công nghệ thông tin hàng đầu thế giới của Ấn Độ với các đối tác Trung Quốc của mình. Các nhà ngoại giao trong khu vực đã đánh giá cao lối tiếp cận mang tính xây dựng dựa trên sự đồng thuận của Trung Quốc, và tương phản sắc nét với phong cách kiểu "không theo chúng tôi là chống lại chúng tôi" của Chính quyền George W. Bush.
Trong một số cách thức, sự thay đổi trong thái độ là một sự mở rộng mối quan tâm lâu dài của Trung Quốc trong việc bảo vệ quyền chủ quyền của mình, kể từ rất lâu trước cả thời Đặng Tiểu Bình là lãnh tụ. Hơn thế nữa, mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã đưa Trung Quốc lên một vị trí quốc tế mạnh hơn nhiều so với nhiều nước láng giềng của họ. Các nhà ngoại giao và lãnh đạo Trung Quốc hiện nay dường như cảm thấy họ có thể thể hiện thế lực của mình trong vấn đề quốc tế. Chính từ việc các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày càng lên lớp các quan chức phương Tây một cách công khai về các thất bại của thị trường tự do tư bản chủ nghĩa mà từ đó người Trung Quốc cũng trở nên sẵn sàng thực hiện các đòi hỏi công khai đối với các nước châu Á khác. "Có một mức độ ngạo mạn nhất định trong hành động của Trung Quốc," ông Lam Peng Er, một chuyên gia trong quan hệ Trung-Nhật tại Đại học Quốc gia Tân Gia Ba đã nói. Trung Quốc gần đây đã vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và một số người xem đấy như là một sự "trưởng thành".
Nhưng có lẽ lý do lớn nhất cho sự thay đổi hành vi của Trung Quốc là mối căng thẳng xung quanh những thay đổi lãnh đạo ở Bắc Kinh.
Trong năm 2012, Hồ Cẩm Đào dự kiến sẽ nhường lại vị trí cho nhân vật được xem là người thừa kế: Phó Chủ tịch hiện nay Tập Cận Bình (Xi Jinping). Ông Kerry Brown, thành viên cao cấp trong Chương trình châu Á của Chatham House, một tổ chức tư vấn của Anh, cho biết không giống như Đặng Tiểu Bình, người đã chiến đấu trong cuộc nội chiến Trung Quốc - hoặc ngay cả như cựu lãnh tụ Giang Trạch Dân, người có quan hệ chặt chẽ với quân đội - Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình không có sự tín nhiệm rõ ràng hoặc một mối liên kết nào với quân đội. Hậu quả là, các nhà lãnh đạo mới có thể ít có khả năng hơn những nhà lãnh đạo trong quá khứ để kiểm soát một cơ sở quốc phòng hiện đang đẩy mạnh các quyền lợi hiếu chiến của chính mình, chẳng hạn như mở rộng khu vực ảnh hưởng hàng hải của Trung Quốc, mà không phải là luôn nhất quán với các mục tiêu ngoại giao rộng hơn hay hòa bình hơn của Trung Quốc. Hiện tại, Hồ Cẩm Đào và Tập Cận Bình, thiếu mất sự hậu thuẫn quyền lực như Đặng Tiểu Bình, đang thấy rằng họ phải hòa giải với các lực lượng vũ trang. Nhiều người Trung Quốc và các chuyên gia, thậm chí cả một số quan chức Trung quốc, cho rằng mối căng thẳng có thể tiếp diễn dưới một số hình thức, tối thiểu đến sau năm 2010.
Nhưng tất cả sự ngoan cố này đang đến với một cái giá: phản ứng dữ dội trên toàn châu Á sẽ làm tiêu hao giá trị cả một thập kỷ tích lũy thiện chí của Bắc Kinh. Đầu năm nay, một báo cáo của Viện Lowy ở Úc Đại Lợi cho thấy rằng "thay vì sử dụng sự nổi lên của Trung Quốc như một đối trọng chiến lược với vị trí hàng đầu của Mỹ, hầu hết các nước ở châu Á có vẻ lặng lẽ đi theo phía Mỹ." Một cuộc điều tra của Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế (CSIS), một tổ chức tư vấn ở Hoa Thịnh Đốn, cho thấy rằng hầu hết giới lãnh đạo ở châu Á nói rằng trong 10 năm tới, Mỹ sẽ là cội nguồn lớn nhất cho hòa bình trong khu vực, trong khi Trung Quốc sẽ là mối đe dọa lớn nhất. Vì lý do đó, các quốc gia Đông Nam Á gần đây đã hoan nghênh sự hiện diện mạnh hơn về quốc phòng của Mỹ.
Việt Nam, về lý thuyết vốn ưa thích một mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc như một nhà nước cộng sản anh em, đã bắt đầu một cuộc đối thoại chiến lược với Mỹ và có thể bắt tay vào một thỏa thuận hạt nhân mà theo đó Hoa Thịnh Đốn sẽ cung cấp cho Hà Nội loại công nghệ làm giàu mà Trung Quốc đã từng hy vọng sẽ cung cấp. Trong thời hạn 10 năm, Việt Nam có thể là một đồng minh mặc nhiên gần nhất của Mỹ ở Đông Nam Á, ngoài Tân Gia Ba. Nam Dương, cũng từng được Trung Quốc lôi kéo mạnh mẽ, năm nay đã bắt tay vào một hình thức "đối tác toàn diện" mới với Mỹ bao gồm các liên kết quân sự mới. Tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN ở New York, Ngoại trưởng Nam Dương Marty Natalegawa công khai bác bỏ yêu cầu của Trung Quốc rằng các nước trong khu vực Đông Nam Á loại Mỹ ra khỏi các tranh chấp trong vùng biển Đông. Ngay cả Miên (Cambodia), một quốc gia phụ thuộc nhiều vào viện trợ của Trung Quốc, cũng đã mở ra mối quan hệ quốc phòng mới với Ngũ Giác Đài, cụ thể là đầu năm nay quân đội Miên và Mỹ đã tiến hành một cuộc tập trận chung có biệt danh là Người gác đền Angkor ( Angkor Sentinel).
Đồng thời, nhiều quốc gia Á châu đang thực hiện các thương thảo với nhau để tạo ra một sự cân bằng với Trung Quốc.
http://www.newsweek.com/2010/10/04/how-china-may-have-overplayed-its-hand.html
Đồng thời, nhiều quốc gia Á châu đang thực hiện các thương thảo với nhau để tạo ra một sự cân bằng với Trung Quốc.
Việt Nam vừa công bố một cuộc đối thoại an ninh với Nhật Bản, trong khi Ấn Độ đã mời Nhật Bản thực hiện một đầu tư mới rất lớn trong cơ sở hạ tầng của Ấn Độ - những mối thương thảo mà, dưới những điều kiện khác, có thể đã bị các công ty Trung Quốc giành lấy. Hơn nữa, gần như mọi quốc gia ở Đông Nam Á đang bỏ tiền ra để mua vũ khí. Theo Viện Khảo cứu Hòa bình Quốc tế Thụy Điển (Stockholm), số tiền chi cho việc mua sắm vũ khí ở Đông Nam Á chỉ riêng từ năm 2005 đến 2009 đã tăng gần gấp đôi, với việc Việt Nam gần đây đã chi 2,4 tỉ để mua tàu ngầm của Nga và loại máy bay thiết kế để tấn công tàu biển. Cho rằng các nước như Việt Nam và Mã lai, một nước mua vũ khí lớn gần đây, mang lại những đe dọa trong nội bộ Đông Nam Á, dù các hệ thống vũ khí này được thiết kế chỉ nhằm đẩy lùi Trung Quốc, Bắc Kinh cũng gia tăng chi tiêu quân sự của mình đến mức 15% mỗi năm trong những năm gần đây. Điều này cho thấy những căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước láng giềng chỉ thực sự mới bắt đầu.