Phạm Văn Bản
Năm 1953 Hồ Chí Minh phát động một lúc hai phong trào: Cải tạo ruộng đất/ nông nghiệp được giao cho Trường Chinh, Tổng bí thư đảng Lao Động Việt Nam, tiền thân đảng Cộng Sản Việt Nam, lập ra Ủy Ban Cải Cách Ruộng Đất do hai ủy viên bộ chính trị là Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương, cùng với một ủy viên trung ương đảng là Hồ Viết Thắng làm phụ tá. Mục đích xóa bỏ định chế làng nước, truất phế quyền tư hữu đất đai của nông dân để tập trung toàn bộ năng lực cho Hồ Chí Minh và Cộng đảng xây dựng chế độ chuyên chính vô sản, làm bạo lực khởi chiến tại Việt Nam.
Cũng trong năm ấy, phong trào cải tạo tư tưởng/ văn hóa được ủy nhiệm cho Phạm Văn Đồng, Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, lập một Ban Nghiên cứu Lịch Sử, Địa Lý và Văn Học do Trần Huy Liệu làm trưởng ban và đặt quyền trực thuộc trung ương đảng, sau đổi tên Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Mục đích tuyên truyền xuyên tạc Văn – Sử – Địa, đầu độc sự suy nghĩ, tâm lý và ý tưởng người dân thuận theo khuynh hướng độc tài toàn trị của đảng. Họ phủ nhận tất cả mọi thành quả xây dựng đất nước, mở mang bờ cõi hay phát triển đời sống xã hội Việt Nam của vua quan xưa nay, trong đó có nhà Nguyễn ở thời cận đại họ dễ dàng phán xét.
Phong trào cải tạo tư tưởng do "bác đảng" chủ trương, không chỉ dừng lại ở sự thay đổi tư duy hoặc thái độ từng người, mà kích động mọi người trở thành lực lượng chiến đấu và bảo vệ Tà Thuyết Mác Lê. Việc làm của ban cải tạo cũng không chỉ lôi kéo học sinh/ sinh viên ra khỏi sự nhận thức chính đáng sử liệu Việt học, mà đầu độc người trẻ Việt Nam tin tưởng mù quáng vào ý tưởng mới/ ý thức hệ cộng sản ghi trong sử sách do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam sọan ra. Do đó mỗi khi nghe nhắc tới công lao hay sự nghiệp dựng nước giữ nước của Tổ Tiên tiền nhân, thì thanh thiếu niên Việt Nam đều mất khả năng suy xét để trả lời, mà chỉ có phản xạ tự nhiên thốt ra lời báng bổ Tổ Tiên:“Chế độ phong kiến,” “quân chủ chuyên chế...” Họ phủ nhận lịch sử, cắt đứt truyền thống chính trị ngàn đời của dân tộc và giống nòi.
Những thế hệ học sinh/ sinh viên tiêm nhiễm sách sử do Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam tuyên truyền và đấu tố, họ luôn tỏ lòng vô ơn cũng như lộ chí căm thù vua chúa nhà Nguyễn, bằng kết án ghi trong sách giáo khoa: “Chế độ quân chủ chuyên chế cực kỳ phản động – Nhà Nguyễn tăng cường bộ máy đàn áp – Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát – Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà – Tự Đức bán rẻ đất nước cho thực dân Pháp…” Tóm lại, cả nước đều phát biểu rập khuôn như thế, và đắc tội với Tổ Tiên tiền nhân!
Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam chà đạp nhân quyền, thủ tiêu công lý, phán xét một chiều các vua quan nhà Nguyễn bằng những ngôn ngữ thiếu trầm tĩnh và đầy tính chất khủng bố cực đoan. Xin hỏi, dân tộc Việt Nam sẽ gặt hái gì trên chính trường văn hóa thế giới? Chính quyền Việt Nam hôm nay sẽ trả lời ra sao, một khi cho rằng ta cứ thiếu lễ nghĩa liêm xỉ, cứ hãm huyết phun người... thì chính nghĩa giải phóng dân tộc với thực dân xâm lược có còn biên giới gì khác biệt?
1. Lịch Sử Việt Nam I
Đọc "Lịch Sử Việt Nam" (1971) tập I, tác giả Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam đều lập luận một chiều theo chủ trương của phong trào cải tạo tư tưởng của đảng, chớ họ không viết theo tư duy và sử học cá nhân:
- Triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tội ác trời không dung, đất không tha, để cho tên tuổi đất nước một lần nữa, sau hàng ngàn năm độc lập, bị quân cướp nước xóa khỏi bản đồ thế giới.
- Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập ra triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân.
- Triều Nguyễn là vương triều tối phản động. Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em.
- Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì khiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế.
Xuyên qua nội dung người ta thấy rằng những đề tài trên đây không được thảo luận một cách thẳng thắn theo khoa học, mà chỉ tòan những lời bịa đặt, xuyên tạc và thóa mạ nhà Nguyễn nhằm truyền dạy cho lớp người thanh thiếu niên tỏ lòng vô ơn tiền nhân, phủ nhận những nỗ lực, những giá trị thành quả trong đại cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước của vua quan Việt Nam nói chung, và triều Nguyễn nói riêng. Tất cả làm một nhát gươm chặt đứt nguồn mạch chính trị Việt Nam, khiến cho toàn dân không còn Hồn Nước. Vì rằng Hồn Nước phải bao gồm toàn thể lịch sử, tinh hoa văn hóa mà tạo nên tinh thần sống của một dân tộc.
Hồn mất trước, Nước mất sau!
2. Lịch Sử Việt Nam II
Đọc tiếp cuốn "Lịch Sử Việt Nam" (1985) tập II phát hành mới đây, các tác giả Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam lại tiếp tục đấu tố nhà Nguyễn theo kiểu lên án địa chủ trong thời kỳ cải tạo nông nghiệp của đảng. Họ không tự giới hạn được ngôn ngữ, cho nên mỗi câu, mỗi chữ trong bài viết đã làm cho người đọc cảm tưởng như mình bị nghe đảng chửi, đang khi vua quan nhà Nguyễn lại không thể lọt tai. Trước mắt chỉ có ba thành phần là tác giả, Cộng đảng, và bạn đọc, nhưng khi xem tài liệu này người ta không thẩm định được nội dung mà "bác đảng" muốn gì; phá nước chăng? Có lẽ là như vậy:
- Triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt – Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn – Cực kỳ ngu xuẩn.
- Nhà Nguyễn đã tăng cường bộ máy đàn áp – Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát – Chế độ áp bức bóc lột nặng nề – Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động – Chính sách đối ngoại mù quáng.
- Tên chúa phong kiến bán nước số một là Nguyễn Ánh – Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp.
Đang khi theo sử liệu của Việt học cho ta thấy rằng: Người khởi đầu dựng nghiệp nhà Nguyễn, là Nguyễn Kim (1468-1545). Nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp ngôi năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa để chống nhà Mạc. Nguyễn Kim tìm được người con vua Lê Chiêu Tông, lập ngôi nối tiếp là vua Lê Tang Tông. Nhờ công này Nguyễn Kim được phong chức Quốc Công, cai quản quân đội. Nguyễn Kim về sau bị người họ Mạc dùng thuốc độc trả thù. Nguyễn Kim có hai người con là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng được phong Quận Công, nhưng binh quyền lại lọt vào tay anh rể, Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm giữ quyền chỉ huy quân đội và trông coi triều chính. Để giảm bớt thế lực họ Nguyễn, Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Lo sợ cho mình cũng bị diệt trừ, Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa theo lời khuyên “Hoành sơn nhất đái vạn dung thân: Một dải Hoành sơn có thể dung thân lâu dài” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm -- Chỉ một lời nói đã giải quyết cho hai thế lực thù nghịch xa nhau, vừa thóat cảnh đau thương chiến tranh cho dân tộc lại vừa mở rộng lãnh thổ Việt Nam.
Trịnh Kiểm giao quyền cai quản miền Nam thời đó cho Nguyễn Hoàng vào năm 1558, bao gồm phần đất thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam ngày nay. Nguyễn Hoàng lập nên căn cứ phương nam, mở rộng biên giới và xâm lấn đất đai của Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với các vua của Đế Quốc Khmer nhường lại đất xứ Phù Nam, tức miền Nam Việt Nam ngày nay. Kết qủa Nhà Nguyễn đã góp công đầu trong đại cuộc Mở Nước, xây dựng và phát triển đất nước hùng hậu như trong Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ do Quốc Sử Quán triều Nguyễn ấn hành vào thế kỷ 19 đã ghi rõ Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa, và toàn bộ cương vực này là thuộc Đại Việt.
Các chúa Nguyễn ngày ấy, về hình thức vẫn thần phục vua Lê và xưng chúa. Nguyễn Hoàng được tôn là chúa Tiên, vì người mở đầu cho sự nghiệp tiên đế của nhà Nguyễn ở phương nam. Con Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên, Chúa Sãi lên ngôi năm 1613, là người mang họ Nguyễn Phúc và từ đó con cháu trong dòng đều mang họ này. Sáu đời sau Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vào năm 1738, là người xưng vương, Vũ Vương vì chúa Trịnh ở phương Bắc đã xưng vương, đang khi vua Lê chỉ còn hư vị.
Vũ Vương chết, theo di chúc người nối nghiệp là Nguyễn Phúc Luân, nhưng phản thần Trương Phúc Loan lập Nguyễn Phúc Thuần 12 tuổi lên ngôi Định Vương năm 1765, nhằm dễ bề thao túng. Trương Phúc Loan là người độc ác, tàn bạo nên bị dân chúng óan hận và nổi lên khởi nghĩa, trong số ấy có anh em nhà Tây Sơn. Tây Sơn được lòng dân nên thế lực rất mạnh khiến chúa Nguyễn phải toàn tâm đối phó. Nhân cơ hội này, chúa Trịnh đem quân vào lấy cớ là giúp chúa Nguyễn trị Trương Phúc Loan, nhưng sau khi bắt được Trương Phúc Loan quân Trịnh tiếp tục đánh chiếm Phú Xuân, năm 1775. Chúa Nguyễn phải chạy vào Quảng Nam, tới năm 1777 Tây Sơn đánh bại quân chúa Nguyễn, bắt giết tất cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, và nhiều người và thuộc dòng tộc Nguyễn Phúc, chỉ còn người con duy nhất của Nguyễn Phúc Luân, là Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát.
Năm 1778 Nguyễn Phúc Ánh quay lại và tập hợp lực lượng đánh chiếm Gia Định và tới năm 1780 xưng vương. Tây Sơn sau đó nhiều lần tấn công Nguyễn Vương khiến vương trốn chạy và quay lại nhiều lần. Mãi cho đến năm1790 Gia Long mới chiếm trọn Gia Định, tỏ ra là một trang anh hùng nghĩa khí, xây dựng nền độc lập tự chủ, mở mang bờ cõi và thống nhất lãnh thổ Việt Nam. Vua Gia Long rất xứng đáng cho con cháu Việt Nam noi gương!
3. Đại Cương Lịch Sử Việt Nam
Đọc tiếp đến cuốn sử mới đây có tên "Đại Cương Lịch sử Việt Nam" (2007) do Đinh Xuân Lâm biên soạn. Ông Lâm được chính quyền Việt Nam hiện thời ca tụng là giáo sư có công xây dựng Bộ môn Lịch sử cận đại và hiện đại… Giáo sư Lâm còn là Phó Chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, và là Chủ tịch Hội đồng Khoa học Trung tâm UNESCO. Tác giả viết:
- Triều Nguyễn thành lập là sự thắng thế của tập đoàn phong kiến tối phản động trong nước có tư bản nước ngoài ủng hộ.
- Nhà Nguyễn là một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ với một chế độ chính trị lạc hậu, phản động. Mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn.
Và, các biện pháp khai hoang hay mộ dân lập ấp của Nhà Nguyễn, ông Lâm cho rằng nó“đã xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.”
- Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách.
- Đối nội, chúng ra sức đàn áp khủng bố các phong trào của quần chúng.
- Đối ngoại, chúng ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng như Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nước tư bản phương Tây thì chúng thi hành ngày một thêm gắt gao chính sách bế quan toả cảng và cấm đạo, giết đạo.
- Với những chính sách phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư bản phương Tây.
Xuyên qua nội dung của cuốn sách Đại Cương Lịch sử Việt Nam (2007), chúng ta thấy rằng gíá trị của một người mưu cầu hạnh phúc cho dân, cho nước đã chỉ có thể được đo bằng sự hy sinh, lòng xả kỷ và tinh thần phục vụ lợi ích dân nước… Một vài bộ sách, một vài hình thức hoạt động thì chưa phải là điều “ắt có và đủ” để kết luận việc làm của giáo sư như theo lời tán tụng “nhà nước…” chỉ là “Chí Phèo” tên một nhân vật trong tiểu thuyết tiền chiến. Đây cũng là điều hoang tưởng của nhiều giáo sư… thái độ ấy, người ta cho là quá khích, cực đoan, không ích lợi gì cho việc phát triển đất nước mà tác giả muốn trình bày.
4. Xuyên tạc sử - chà đạp sách “Đại Nam Thực Lục”
"Đại Nam Thực Lục" là bộ sách ghi chép các sự kiện từ khi chúa Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa (1558) cho tới đời vua Khải Định (1925), do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, gồm hai phần tiền biên và chính biên được viết vào năm Minh Mạng thứ hai (1821) sau 88 năm công phu soạn thảo tới năm 1909 mới hoàn thành: Tiền biên có 2 kỷ và Chính biên 6 kỷ, và được dịch ra Quốc Ngữ từ nguyên bản Nho Ngữ vào năm Khải Định thứ 9 (1924) để giúp cho chúng ta tra cứu dễ dàng.
Thế nhưng vào năm 1961, trước khi cho sửa đổi và tái bản Đại Nam Thực Lục, các tác giả của Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam đã đồng loạt viết tài liệu giới thiệu với chủ đích đấu tố bộ sử triều Nguyễn như đã thực hiện trong phong trào cải tạo ruộng đất, với hai chiến thuật mà họ đã công phu tập luyện tới mức vô địch thượng thừa; đó là đánh “du kích và bắn sẻ;” đồng thời khai thác triệt để hai chiến thuật này vào các mặt trận quân sự, kinh tế, xã hội, ngoại giao, tôn giáo và văn hóa, khiến cho người ta nhớ lại câu chuyện Gà đẻ trứng vàng trong cổ học Đông phương, để phòng ngừa du kích và bắn sẻ. Các ông trong ban quản giáo này có con gà đẻ trứng vàng. Lúc đầu họ chờ gà đẻ tự nhiên mỗi ngày một trứng, nhưng một hôm họ làm theo chủ trương chỉ đạo nhà nước, muốn có nhiều vàng một lúc và sử gia quyết định làm thịt con gà Đại Nam Thực Lục. Nhưng khi mổ gà ra, lại chẳng thấy có trứng vàng. Tác giả đã không hiểu con gà nhà Nguyễn là nguồn sản xuất và cái trứng, thành tựu cải cách, là sản phẩm. Hóa ra thì tất cả chỉ muốn “lượm trứng,” chớ không “xuất của” để mua thực phẩm nuôi gà:
- Những sự kiện lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh (1558-1888) những công việc mà các vua chúa nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm ấy, tự chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trước lịch sử của dân tộc chúng ta.
- Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công việc biên soạn Đại Nam Thực Lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn…
- Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử... vẫn phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức.
Tóm lại, chúng tôi mong rằng các sách sử tương tự như của Giáo sư Đinh Xuân Lâm thì cần công khai nhận lỗi, viết lại, tôn trọng lịch sử, và những gì trình bày nơi đây không làm phiền lòng tác giả cũng như độc giả. Chúng tôi hy vọng tình trạng phê bình chủ quan, giáo điều tắc trách về sử liệu của phong trào cải tạo tư tưởng, cần phải được chấm dứt ngay và không còn tái diễn, để trả lại không khí trong sạch của sử học cho những người Con Cháu Việt đang cố gắng tô điểm cho nền văn hóa và lịch sử, ngõ hầu tìm lại truyền thống bất khuất của Tổ Tiên để thực thi đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước ngày nay.
Sau cùng, Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam bóp méo lịch sử, tuyên truyền xuyên tạc Vương triều nhà Nguyễn, được đăng tải rộng khắp trên các diễn đàn nghiên cứu về lịch sử văn học, địa lý và tư tưởng Việt Nam, biểu thị trong ngành đại học sư phạm hoặc trong sách gíao khoa của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, được giảng dạy từ bậc tiểu học, trung học và đại học trải qua hơn 2/3 thế kỷ nay. Sách sử giáo khoa thư đã giáo dục tầng lớp thanh thiếu niên, đào tạo cho họ phẫn uất căm thù vua quan triều Nguyễn, cắt đứt truyền thống chính trị dân tộc, vô cảm trước sự kiện mất đất mất đảo, phó mặc vận mệnh Tổ Quốc rơi vào tay giặc phương Bắc như thời nhà Hồ, “Mất Nước” từng xảy ra trong lịch sử.
Tác giả: Phạm văn Bản