Không phải là giai cấp công nhân, giai cấp này không có được một tổ   chức lãnh đạo quy củ, bài bản. Hầu hết những cuộc đình công của họ là tự   phát. Bằng vũ lực và mưu mô xảo quyệt chính quyền dễ dàng xé lẻ, hứa   hẹn họ giải tán rồi giải quyết sau. Sau đó âm thầm bắt riêng lẻ những   người hăng hái nhất và quy cho họ là cầm đầu, kích động những người còn   lại nghe theo. Chiêu này rất hiệu quả thường áp dụng với  dân oan, nông   dân khiếu kiện.
Cũng  không phải các  đảng phái, vì các đảng phải chưa có đủ cơ sở nhân lực,  khí tài để kịp  triển khai hoạt động của mình cho quần chúng hưởng ứng.  Đôi lúc, ngay từ các bước  xây dựng nhân lực, khí tài hạ tầng đã bị phát  hiện. Có lúc vì nhu cầu kinh tài cho hoạt đông,  vài tổ chức phải trình  bày để quyên góp bên hải ngoại. Thỉnh thoảng lại có vài người đấu đá,  kể xấu nhau khiến thông tin lan truyền, ảnh hưởng đến những cơ sở ban  đầu trong nước.
Cũng   không phải đồng bào Công Giáo, nhiều giám mục Việt Nam giờ đang có  chiều hướng hiệp  thông với Cộng Sản. Những giám mục, linh mục kiên  định, can trường đã bị  buộc từ nhiệm, thuyên chuyển, về hưu. Đại bộ  phận đồng bào Công Giáo ở  miền Bắc có tinh thần yêu công lý- sự thật,  thế nhưng tinh thần ấy của  họ đang dần bị một số giám mục bị áp lực của  Cộng Sản  hướng sang lối đi khác với ngôn từ mỹ miều là đồng hành với  dân tộc  (thực chất là nhượng bộ trước sức ép của Đảng). Thậm chí có vài  giám mục  hiệp thông với CS còn quay sang chỉ trích những người anh em  của mình ở  Dòng Chúa Cứu Thế là thích gây sự với chính qutền, không  chịu yên ổn  thờ phụng Chúa. CS đang thành công trong mục tiêu chia rẽ  Công Giáo. Nếu  tình trạng hiện tại kéo dài, trong vòng 5 năm nữa thì  khó mà có biến cố nào  như Tòa Khâm Sứ hay Đồng Chiêm, bởi một số lãnh  tụ Công Giáo Việt Nam  ngày nay quan hệ mật thiết với chính quyền đến  nỗi có thể ăn nhậu với  phó thủ tướng, chủ tịch, bí thư tỉnh bất kỳ lúc  nào.
Cũng   không phải là các trí thức, tuy rằng phần đông các trí thức Việt Nam   đều nhận thức xã hội đang băng hoại về đạo đức, hành chính quan liêu,   độc đoán… bất công đầy rẫy. Thế nhưng nhiều trí thức lại nhút nhát bởi  bản chất cố hữu, hơn nữa với bằng cấp,  kiến thức và mớ quan hệ bùng  nhùng với quan chức cộng sản, họ cũng tự  tìm ít váng mỡ nào đó cho mình  một cuộc sống mà họ an phận bằng lòng.  Một số trí thức hiếm hoi cất  tiếng nói phản biện, nhưng họ cũng chỉ dừng  ở mức độ phản biện có tính  góp ý. Cá biệt có một vài trí thức can đảm  trực diện đòi hỏi cải cách,  thay đổi triệt để như tiến sĩ luật Cù Huy Hà  Vũ, bác sĩ Nguyễn Đan Quế  và vài nhân sĩ, trí thức khác. Số nhân sĩ  hiếm hoi này, cộng sản dễ  dàng bắt bớ họ, bởi các tầng lớp khác không  dám kiên quyết bảo vệ cho  họ. Thậm chí một số kẻ trí thức hèn không dám  làm, thấy ê chề trước sự  dũng cảm của họ, đáng lẽ phải xấu hổ thì quay  ngoắt người bĩu môi chê  những người bị bắt là ngông cuồng ảo tưởng. Họ  chê thế để dấu đi cái  hèn của mình, một biện pháp tự bảo vệ là dẫm lên  người khác để mình là  đúng đắn. Đây là điểm đê tiện nhất mà một số trí  thức thường hay dùng,  âu cũng bởi tính khiếp nhược cường quyền lớn quá  mà đành cắn nhau để  giữ thế cho mình. Đó là hạn chế lớn nhất của trí  thức khiến họ không  thể làm lực lượng chính thay đổi xã hội.
Cũng   không phải nông dân, nông dân bức xúc đi khiếu kiện. Chính quyền chỉ   cần dằng dai kéo dài, dân hết tiền ăn, ở nhà còn bao công việc, sức đâu   mà theo đuổi được những quả bóng mà bộ này chuyền cho ban kia, xuống ủy   nọ, mỗi đường chuyền ít nhất cũng 3 tháng đến nơi, ngâm  bóng thêm 3   tháng. Khán giả xem còn không chịu nổi nữa nói chi là nông dân khăn gói,   cơm đùm ăn trực nằm chờ ở cửa cơ quan hành chính. Mà nông dân tỉnh này   có vấn đề về đất kéo nhau đi, tỉnh nào cũng có, thế nhưng chẳng bảo  giờ  các tỉnh kéo nhau đi một lượt. Vì bản tính người Việt là thường dòm  nhau  xem cơ hội thế nào. Việc đó làm mất đi sức mạnh tổng hợp để vấn  đề này  là của quốc gia, khiến cho vấn đề giải quyết khiếu kiện đất đai  chỉ là  chuyện lẻ từng địa phương.
Nhưng  với  một xã hội mà chứa quá nhiều sự bất công trước mắt trông thấy,  hiển  nhiên gắn với nó là sự bất ổn sẽ tới. Vậy lực lượng nào sẽ… làm  sụp đổ  triều đình ?
Xin thưa theo ý của cá nhân người viết bài này. Lực lượng đó chính là… các anh Công An Nhân Dân!
Có   điều các anh ấy chẳng có mục đích cỏn con nào trong việc đem lại cho   nhân dân sự công bằng, dân chủ, mang lại cho xã hội một chế độ hành   chính sạch sẽ, hiệu quả. Mà các anh tạo ra tình trạng đột biến bởi do  tính ngông cuồng, tự kiêu của một lực lượng đang giữ quyền to nhất thể  chế.
Lịch sử đang lập lại một giai đoạn có một lần trong lịch sử, đó là Vua Lê, Chúa Trịnh.
Hãy   hình dùng vua Lê bây giờ là TBT ĐCS, còn chúa Trịnh là đương kim thủ   tướng Nguyễn Tấn Dũng. Ta dễ hình dung ngay các anh công an nhân dân là   cánh tay của chúa Dũng. Tức đám kiêu binh, xin hãy xem đoạn sau của  lịch  sử:
———————————————————————————————–
Sau   này, nhà Lê đuổi được nhà Mạc ra khỏi Thăng Long, thì quân ở ba phủ   trên (tục gọi là lính tam phủ) được coi là thân binh hay ưu binh, nhất   binh; và được vua chúa tin dùng làm quân túc vệ bởi họ đã đóng góp nhiều   công lao trong chiến đấu. Chính vì có công lớn, lại được vua chúa  nuông  chiều, nên họ sinh ra thói kiêu căng, xem thường luật vua phép  nước.  Cho nên dân chúng thời bấy giờ gọi họ là kiêu binh.[1] 
Đề cập vấn đề này, sách Việt Nam sử lược có đoạn:
Nguyên   từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê Trung Hưng về sau, đất kinh kỳ chỉ dùng   lính Thanh, lính Nghệ gọi là ưu binh để làm quân túc vệ. Những lính ấy   thường hay cậy công làm nhiều điều trái phép. 
Năm   Giáp Dần (1674) đời Trịnh Tạc, lính tam phủ tức là lính Thanh, lính   Nghệ đã giết quan Tham Tụng Nguyễn Quốc Trinh và phá nhà Phạm Công Trứ.
Năm Tân Dậu (1741) quân ưu binh lại phá nhà và chực giết quan Tham Tụng Nguyễn Quý Cảnh. 
Những   lúc quân ưu binh làm loạn như vậy, tuy nhà chúa có bắt những đứa thủ   xướng làm tội nhưng chúng đã quen thói, về sau hễ hơi có điều gì bất   bình, thì lại nổi lên làm loạn.[2] 
Tuy   nhiên kiêu binh thật sự trở thành quốc nạn, kể từ tháng 10 năm Nhâm  Dần  (1782), tức lúc lính tam phủ tôn Trịnh Khải lên ngôi chúa và kết  thúc  vào khoảng tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), là lúc Nguyễn Huệ dẫn quân  ra  bình Bắc Hà. Trong khoảng thời gian dài này, có hai lần lính tam  phủ  hoành hành rất dữ, vì cậy công. 
1. Cậy công tôn phò chúa 
Sách Việt Nam sử lược chép:
Năm   Nhâm Dần (1782) Trịnh Sâm mất, Đặng Thị Huệ và Hoàng Đình Bảo (Quận   Huy) lập Trịnh Cán lên làm chúa. Con trưởng Trịnh Sâm là Trịnh Khải mưu   với quân tam phủ để tranh ngôi chúa. Bấy giờ có tên biện lại thuộc đội   Tiệp bảo tên là Nguyễn Bằng[3], người Nghệ An, đứng lên làm đầu, vào  phủ  chúa đánh ba hồi trống làm hiệu, quân ưu binh kéo đến vây phủ, vào  giết  Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên  làm  chúa. 
Trịnh  Khải phong  quan tước cho Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho quân tam phủ.  Từ đó quân  ấy một ngày một kiêu, cứ đi cướp phá các nhà, không ai kiềm  chế  được…[2] 
Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, là người đương thời, kể:
(Sau   khi tôn Trịnh Khải) quân lính cậy có công…đòi hỏi những mối lợi nơi   điếm tuần, bến đò, đầm hồ, gò bãi, cửa ải, chợ búa… Dân chúng khổ sở  vì  sự quấy nhiễu hà khắc của chúng, mối hận thấm cốt cốt tủy. Từ đấy,   lính với dân coi nhau như kẻ thù. Triều đình phải đặt ra đội Phong vân   để tuần phòng trong kinh kỳ, dò xét quân lính, hễ ai còn có thói cũ, rủ   nhau tập hợp phá nhà lấy của thì lập tức bắt giải về triều xét xử.[4] 
2. Cậy công tôn phò thái tử
Trước   đây (1782), sau khi giết chết Quận Huy, quân tam phủ đã mở ngục rước  ba  con của Lê Duy Vĩ là Lê Duy Khiêm (sau này là vua Lê Chiêu Thống),  Lê  Duy Trù và Lê Duy Chi về cung.
Nghe   tin Duy Khiêm được thả, Trịnh thái phi Nguyễn Thị (mẹ Trịnh Sâm) vốn   ủng hộ Lê Duy Cận (chú ruột của Khiêm), sợ Duy Khiêm về sẽ tranh ngôi   thái tử, nên sai hoạn quan là Liêm Tăng (không rõ họ) đến bắt ép Duy   Khiêm sang chầu, để toan bí mật giết chết. Duy Khiêm từ chối không được,   phải khóc mà đi. Dọc đường, quân tuần sát ngăn lại. Rõ chuyện, họ la   hét ầm ĩ, yêu cầu tra cứu người lập mưu làm hại Duy Khiêm. Họ truy lùng   tìm Liêm Tăng không được, ngờ là Duy Cận chủ mưu. Lúc ấy, Duy Cận đang   chầu Trịnh thái phi, nghi trượng để ngoài cửa phủ đường, quân sĩ kéo  đến  đập phá tan nát. Duy Cận sợ quá, phải thay đổi quần áo lẻn về cung.
Chúa   Trịnh Khải biết việc này là do bà nội mình gây ra, bèn dụ quân sĩ thôi   làm huyên náo, rồi xin nhà vua Lê Hiển Tông lập Duy Khiêm làm hoàng  thái  tôn, và bắt Duy Cận làm tờ biểu nhường ngôi thái tử. Tháng Giêng  năm  1783, Lê Duy Khiêm, lúc ấy 18 tuổi, với cương vị là cháu trưởng,  được  ông nội lập làm hoàng thái tôn, còn chú là Duy Cận bị truất làm  Sùng  Nhượng Công.
Một  hôm, quân  lính họp nhau, đem việc đón rước hoàng tôn (Duy Kỳ) ở nhà  giam ra tâu  lên hoàng thượng, để xin được ban ơn. Nhà vua (Lê Hiển  Tông) liền sai  người làm tiệc thết đãi, rồi từ từ bàn đến cách thưởng  công cho họ. Lúc  đó, có kẻ chạy đi báo tin với chúa (Trịnh Khải). Chúa  cho đòi ngay  Nguyễn Khản [5], Dương Khuông vào phủ. Sau khi nghe ý kiến  của hai cận  thần, Chúa bèn sai viên đầu hiệu đội Nhưng Nhất là Triêm  vũ hầu (Nguyễn  Triêm) đem đội quân Phong vân đến vây bắt được bảy  người.
Sau đó, theo sách Lê quý dật sử, thì:
Triều   đình bàn xét nếu đem giết hết e sẽ gây ra biến loạn. Nếu không giết  thì  không lấy gì răn đe được. (Dự tính) trước tiên đem chém một hai tên  đầu  sỏ gian ác để dần dần ức chế tính kiêu ngạo của chúng. Bấy giờ  trong  triều có Tham tụng Nguyễn Khản, Quản trung cơ Nguyễn Khuông (cậu  chúa  Trịnh Khải) mới được cất nhắc, vốn ghét quân sĩ không phục mình,  đã  chiếu theo luật: “lẻn vào hoàng thành” xử tội chém hết để răn quân  lính. 
Được  sáu ngày, quân sĩ  lại gây bạo loạn. Họ gào thét xông thẳng vào phủ  chúa, tìm giết Khản và  Khuông. Khản trốn về trấn Sơn Tây, Khuông nấp  mình trong phủ chúa. Mẹ  chúa là Dương Thị bước ra phủ đường khóc kêu  xin tha cho Khuông. Chúa  lại cho nhiều tiền bạc để chuộc cho cậu, quân  sĩ mới chịu kéo trở về đập  phá nhà riêng của Khản, Khuông. Hôm sau,  quân lính lại đòi đem Nguyễn  Triêm giết đi để hả giận riêng. Chúa không  có cách nào nữa, vời Triêm  đến lấy lời lẽ yên nước, yên nhà ra bảo;  lại cho dân một xã thờ cúng,  ruộng thế nghiệp 30 mẫu, rồi sai Triêm ra  chịu chết.[6]
—————————————————————————-
Các   CAND ngày này có những đặc điểm giống kiêu binh là trấn áp được các   “thế lực phản động”, phò được Chúa Dũng tại vì giữ ngôi thủ tướng sau   thảm nạn Vinashin, tiền mất giá, lạm phát bằng cách trấn áp báo chí, các   đại biểu quốc hội. Giống nữa là đánh người, cướp của, giết dân… không   bị đưa ra xét xử hay xét xử làm vì. Tướng công an được bổ sung thêm vào   Bộ Chính Trị nhờ những công lao phò Chúa Dũng, uy thế của kiêu binh   CAND ngày càng lớn ở bộ máy điều hành đất nước. Đoạn văn sử  trên có   đoạn không khác gì ngày nay:
-  Sau khi tôn Trịnh Khải) quân lính cậy có công… đòi hỏi những mối lợi   nơi điếm tuần, bến đò, đầm hồ, gò bãi, cửa ải, chợ búa… Dân chúng khổ   sở vì sự quấy nhiễu hà khắc của chúng, mối hận thấm cốt cốt tủy. Từ đấy,   lính với dân coi nhau như kẻ thù.
Trước   sau, sớm hay muộn, bởi những ưu quá lớn dành cho các anh CAND và tính   tự phụ cho mình có công lớn của các anh, nếu gặp mâu thuẫn nào trong xã   hội mà các anh CAND không được tôn trọng, ý kiến các anh không được ai   nghe, Chúa của các anh bị phế truất thì ắt các anh sẽ thực hiện một  diễn  biến không hòa bình tí nào như tổ tiên kiêu binh nhà các anh đã  từng  làm xưa kia.
Đến  nay Việt Nam đang  phải đối mặt với lạm phát, cuộc sống người dân lao  động rất thảm hại.  Thế nhưng không ai dám tiếc khoản tiền mà Vinashin  đã làm mất, hay vụ  tiêu tốn vào lễ hội 1000 năm Thăng Long và hằng hà  đa số những tham  nhũng, lãng phí khác. Bởi Chúa Dũng và đám kiêu binh  đang hung hăng xoi  mói đè bẹp những tiếng nói chỉ trích như vậy.
Ngày  hôm nay các anh CAND cậy công lớn, có chúa Dũng sau lưng,  đang chà đạp  lên pháp luật, ức hiếp dân lành. Bởi các anh đang là thế  lực lớn nhất ở  Việt Nam, các anh có động cơ chiến đấu rõ ràng, không như  cánh quân  đội giờ mất mục tiêu. Quân đội không giữ được chủ quyền thì  còn trọng  lượng gì nữa, làm sao bằng các anh công an có mục tiêu giữ  được là phò  Chúa Dũng và bảo vệ thành công nước VN CNXH.
Nhưng quá mù sẽ ra mưa, chính sự kiêu căng ngạo mạn của CAND sẽ làm thay đổi, biến đổi triều đình thối nát này.
Câu hỏi là sau biến cố đó, nước Việt Nam sẽ về đâu, ai dẫn dắt. Đó mới là điều quan trọng.
 

