Võ Thị Hảo
 03/11/2010 - “các nhà nước phải chịu trách  nhiệm về quyền được sống và làm việc trong những điều kiện vệ sinh tốt, quyền có  được một môi trường lành mạnh và an toàn, quyền được chăm sóc và chi trả các  thiệt hại, quyền được thông tin và tiếp cận công lý của người dân. Trách nhiệm  hành chính là nghĩa vụ của cơ quan nhà nước phải bồi thường các thiệt hại gây ra  bởi hoạt động của mình hay của các nhân viên cơ quan ấy… (Tuyên bố của Hội nghị Thượng đỉnh  Trái đất Johannesburg năm 2002)
Đứt ruột miền  Trung
Những bàn tay lẩy bẩy thu hết sức  tàn dỡ mái nhà đã ngập tận nóc kêu cứu. Ai cứu được bây giờ? Xung quanh réo ầm  nước lũ, thổi bay cả nhà máy thủy điện kiên cố. Nhiều vùng hoàn toàn bị cô  lập!
La liệt quan tài đựng thây người.  Phập phềnh khắp chốn xác động vật thối rữa dềnh  trôi dạt. Nhiều người chết lụt  vẫn không được yên thân, xác bị buộc dây treo trên ngọn cây, trên mái nhà dăm  bảy ngày, người thân nát ruột bó tay nhìn thi thể người thân yêu của mình rữa  dần trong sóng táp. Sản nghiệp bao đời của người miền Trung đã bị quét sạch  trong những cơn lũ dữ dội với sức tàn phá ngang những trái bom phá khổng  lồ.
Những tiếng kêu nghẹt giọng bóp chặt  con tim. Bất lực! Vô số cánh tay đưa lên chới với chìm hẳn trước những quả bom  nước đổ sập từ trên cao, từ các hồ chứa thủy điện đang xả nước với tốc độ kinh  hoàng dồn thêm vào cơn lũ miền Trung, bất kể lời cam kết giữ rừng và giữ an toàn  cho miền Trung!
Nơi nơi con khóc cha, vợ khóc chồng,  trẻ con mất cha mất mẹ, mất trường học… Nơi nơi bóng vạc dật dờ đi tìm người  thân trong cơn lũ… Rồi tiếp theo là đói khát, là dịch bệnh, là những trận lở đất  và lở núi hãi hùng. Ngay tại chân núi Quyết, Nghệ An, ngày 25/10, trận lở núi  hậu lũ lụt đã khiến khoảng 30 quan tài và tiểu đựng xương người bất thần lao  xuống nhà dân, cùng đất đá vùi lấp nhà cửa…
Thảm hoạ đã tước đoạt tất cả. Còn  lại với miền Trung là những cơn ác mộng và đói rét cùng nỗi hãi hùng triền  miên.
Miền Trung ơi!
Bao nhiêu tiếng khản giọng kêu cứu  từ miền Trung và bao tiếng da diết gọi miền Trung!
Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu thương  khóc cho Người, trước nỗi đau quá to lớn này, bỗng trở nên vụng về, lễnh loãng  tắt lịm trong đau khổ mênh mang.
Miền Trung ơi! Eo lưng – Khúc ruột  nối liền hai đầu đất nước, nơi đã sản sinh bao nhiều nhân tài hào kiệt, vì đâu  nay đã trở thành một nơi chốn nguy hiểm không thể nương thân?
Lòng từ thiện và sự giúp đỡ của đồng  bào và bạn hữu trong và ngoài nước thật đáng cảm động đang yên ủi Người. Nhưng  Lễ cầu siêu nào đủ cho Người?
Dẫu thế nào thì những oan hồn chết  hàng loạt do các thảm hoạ đổ ập xuống đầu Người ấy, cũng không thể nhập trở lại  thân xác. Người về gạt nước mắt nhặt nhạnh từ mảnh vỡ, từ bùn hoang, từ xác thối  rữa sình lầy dựng lấy một mảnh lều nương thân. Nhưng không  ở được nữa rồi.  Rừng của người đã bị phá gần sạch. Nhà người thì  không còn.
Tha hương ư?
Với nhiều người, ở lại một chốn mà  một năm trung bình hứng chịu hai trận đại hồng thủy, thì cũng chẳng khác gì tự  sát.
Miền Trung ơi! Ai? Cái gì đã cướp  đoạt chốn nương náu của Người?
Và mãi mãi, sẽ là “những trái bom  nước” có khả năng hủy diệt vô cùng lớn – lơ lửng trên đầu miền Trung, với hàng  mấy trăm triệu mét khối nước, có sức công phá lớn tới mức có người đã ví với bom  nguyên tử – có thể đổ xuống miền Trung bất kỳ lúc nào.
Không trả lời sao được. Vì chúng ta  đã thấy quan tài, thấy xác người treo và thấy máu. Nhiều người cùng bị chết,  nghĩa là chết người hàng loạt. Máu đã bị pha rất loãng trong mênh mang nước lũ.  Và trong dòng sông sự kiện, sông thời gian của cả nước có bao chuyện phải bàn.  Quên ngay miền Trung thôi mà.
Nhưng máu đã đông lại trong oan  khiên.
Vì đâu? Có phải miền Trung  đã bị “thí mạng”?
Tất nhiên, đơn giản nhất là đổ tại  ông trời. Tại lượng mưa lớn. Thế thôi. Gọn một câu khô khốc để lý giải. Kế sách  đó vô cùng hữu hiệu trong mấy chục năm nay. “Mất mùa là tại thiên  tai…”
Thế còn mất mạng thì sao? Thế còn  hàng loạt mạng bị mất thì sao. Phải trả lời thấu đáo và sòng phẳng câu hỏi này,  nếu không, hàng loạt mạng nữa sẽ bị mất. Nếu ta thờ ơ không tìm ra nguyên nhân,  hoặc biết mà vờ không biết, hoặc biết mà bưng bít không cho nói sự thật, nghĩa  là ta đã tiếp tay cho những kẻ tạo ra thảm hoạ giết người hàng loạt.
Ông trời thì ta “bắc thang” lên hỏi  sau.
Có nhiều người tôn trọng sự thật đã  không thể im lặng, đưa ra những nguyên nhân lý giải “tại con người”, phần nào  giải oan cho ông trời.
Cục trưởng Cục đê điều và phòng  chống lụt bão Nguyễn Xuân Diệu công bố: tổng lượng mưa năm 2009 nhỏ hơn  tổng lượng mưa năm 1999 tại miền Trung nhưng đỉnh lũ năm 09 lại vượt đỉnh lũ năm  99 tới cả 1,5 m.
Ngày 24/11/2009, một đại biểu Quốc  hội tỉnh Phú Yên cho biết, thực tế lũ năm 2007 cho thấy, chỉ một trận mưa 330 mm  tại tỉnh này, mà thiệt hại lớn hơn mức lũ “lịch sử” năm 1991 với lượng mưa 1.300  mm, bởi vì nhà máy thủy điện Sông Ba hạ ở đây đã  xả lũ hết công suất với vận tốc 11.400 m3/s!
Sau trận lũ lụt thảm khốc tại miền  Trung hồi tháng 11/2009, nhiều đại biểu Quốc hội đã chất vấn chính phủ về nguyên  nhân lũ lụt miền Trung. Một số nhà chuyên môn có uy tín đã phát hiện là “do yếu  tố con người” – do những nhà máy thuỷ điện vì lợi ích cục bộ của mình, không  thực hiện quy trình đã cam kết về vận hành hồ chứa phòng lũ, cứ tích đầy nước để  chạy máy phát điện tối đa, đến lúc mưa lớn tràn về, liền mở cửa xã lũ ào ạt để  bảo vệ đập và nhà máy, bất kể hậu quả cho dân vùng hạ lưu.
Về cơ bản, ngành thủy điện và thủy  lợi cam kết khi xây dựng rằng các hồ chứa có thể chống hạn và cắt lũ, nhưng trên  thực tế khảo sát đã được công bố từ cơ quan chức năng thì việc vận hành hệ thống  hồ xả lũ ở đây là tùy tiện, không hề có một “nhạc trưởng”.
Theo báo Công an Nhân dân  thì ông Lê Huy Ngọ, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã  báo cáo với chính phủ từ những năm trước đây về diễn biến lũ lụt miền Trung:  trước đây, lũ lụt miền Trung chỉ khoảng 5-7 năm/lần, còn gần đây tần suất tăng  lên, 1-2 năm lần (chưa kể hai năm gần đây lũ chồng lên lũ)  và khốc liệt hơn.  Trận lũ lịch sử năm 1971, thì thời gian nước lưu lại cũng chỉ 1, 2 ngày. Kỳ lụt  đầu tháng 10 này lũ lụt về quá nhanh, hậu quả khác thường và đã qua cả tuần mà  nước chưa rút hết. Trong lũ lụt có yếu tố con người. Riêng 9 tỉnh miền Trung và  Tây Nguyên gần đây đã phát triển tới 393 dự án thủy điện lớn  nhỏ… Họ tích nước chủ yếu để sản xuất điện, chứ có mấy khi chủ động xả  nước trong hồ để chờ lũ, đón lũ và cắt lũ. Vì vậy nguy cơ vỡ đập tràn, nước lớn  từ thuỷ điện tác động vào lũ miền Trung càng gay gắt…
Bởi thế nên chỉ mới mưa chừng ấy  thôi mà đập Khe Mơ đã vỡ, giáng “bom nước” kinh khiếp xuống dân miền Trung. Thủy  điện Hố Hô, khi lũ căng nhất, khi người dân cuống cuồng chạy loạn thì nhà máy  thủy điện này cửa đóng cài then và trả lời một câu nhẹ tênh: không vận hành được  cửa xả lũ vì mất điện!
Mà lũ thì bao giờ chẳng mất  điện!
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải thừa  nhận, nhiều nơi chưa có quy trình vận hành liên hồ chứa thủy địện… và khi xảy ra  sự cố phải xả lũ thì “ngay cả Thủ tướng có ra lệnh cũng không được đóng cửa xả  vì không một nhà máy nào cắt được lũ nếu vượt quá khả năng của nó”…
Và, trong cái dàn đồng ca của những  người chuyên gật gù, bất kể hậu quả thế nào cho đất nước, có người đã kiên trì  và dũng cảm cảnh báo trước thảm hoạ cho chính phủ. Đó là đại biểu Quốc hội  Nguyễn Đình Xuân, thành viên Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc  hội. Ông nói: Tôi đã cảnh báo từ 8 năm trước. Theo tính toán ban đầu, với diện  tích rừng tự nhiên che phủ mà miền Trung hiện có trước khi mở thủy địện thì phải  1000 năm mới có một trận lũ lớn. Nhưng vì sau đó rừng bị tàn phá quá nhiều, các  hồ thủy điện chỉ chịu được khoảng 10 năm. Như thế, tất cả quy hoạch, tính toán  ban đầu đều bị phá vỡ. Hiện quy hoạch mỗi hồ thủy điện không dựa trên quy  hoạch tổng thể, không có quy hoạch chiến lược, đánh giá môi trường của toàn bộ  lưu vực con sông và làm thế nào để không gây hại cho dân sinh, môi trường thượng  và hạ nguồn. Hệ quả là hạ nguồn hứng chịu lũ lụt. Các trận mưa bão lớn bé vào miền Trung đều gây lũ lụt  chết người. Quay trở lại 20-30 năm trước, các số liệu đã chứng minh không  có chuyện đó. Các nhà máy thủy điện miền Trung, đã xả lũ đúng lúc lũ căng nhất,  nên là “cánh tay nối dài cho Thủy tinh”!
Thế là đã rõ. Hầu hết các nhà máy  thủy điện tha hồ tích nước đầy hồ để bán điện lấy lãi, không quan tâm đến cam  kết sống còn khi lập dự án là phải luôn xả nước trước khi lũ về, đảm bảo mức độ  an toàn chủ động phòng chống lũ. Khi lũ đến, từng ấy hồ lại tha hồ  tự tung tự tác để xả lũ bảo vệ đập.
Xả lũ như thế, nghĩa là “thả bom  nước”. Thả bom nước, dù có lấy tiếng là bảo vệ đập, thì vẫn là một chuỗi hành vi hy sinh dân, hy sinh miền hạ  lưu.
Ngoài ra, các chuyên gia cũng nêu  vấn đề các nhà máy thủy điện đã ngăn sông chặn dòng tích nước vào mùa khô, hạ  lưu bị cạn nước làm giảm lưu lượng động lực sông, khiến cho động lực biển thắng  áp đảo động lực sông, kèm theo hậu quả các cửa sông ra biển được xây dựng nhiều  công trình, đắp đê quai nuôi trồng thủy sản, phá rừng phi lao chắn cát… Chưa kể  Đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 1 nâng cao tới 3-4 m mà không mở khẩu độ thoát lũ  thích hợp…
Tất cả cộng lại hủy diệt miền  Trung.
Có bao nhiêu “quả bom nước”  treo trên đầu dân?
Miền Trung nhỏ bé của chúng ta có  bao nhiều hồ, và bao nhiêu “quả bom nước hẹn giờ nổ” đang treo trên đầu người  dân cả nước?
Theo công bố của các nhà quản lý,  thì hiện tại, có ít nhất 393 dự án thủy điện phát triển nóng tại miền Trung.  Ngay tại một tỉnh nhỏ như Quảng Nam mà cũng có tới hơn 50 công trình thuỷ điện!  Một đại biểu Quốc hội đã thốt lên: tôi nghe con số đó thì tôi liền bảo: “Thôi  chết rồi!”
Ông Trần Đình Đàn, Chủ nhiệm Văn  phòng Quốc hội khẳng định với báo chí: lũ lụt có nguyên nhân từ “nhân tai”, do  làm hồ đập thủy điện không có quy hoạch đầy đủ, các địa phương cứ thấy đâu làm  được là cho làm, chưa kể phá rừng, làm đừơng… ngăn chặn thoát lũ, khiến cho hễ  mưa là nước từ đại ngàn, từ Lào đổ ập sang miền Trung, không theo dòng chảy tự  nhiên, gây lũ lớn. Khi làm hồ đập thủy điện Hố Hô, đập thủy điện Hương Sơn, hồ  Kẻ Gỗ… tất cả đều không tính đến sự nguy hiểm của nó. Hồ Kẻ Gỗ cao 32 m trên mặt  nước biển, vừa rồi chỉ mưa thế thôi đã tràn đập và xả nước làm ngập cả Thành phố  Hà Tĩnh. Đập thủy điện Hố Hô tràn, cây đổ từ đại ngàn tràn xuống chặn cửa mà nhà  máy thủy điện không mở nổi cửa đập, may có bộ đội biên phòng kịp dùng tay ứng  cứu… Theo ông, chỉ riêng đập Hố Hô hoặc Hương Sơn mà lở thôi thì thiệt hại gấp  hàng trăm lần và mất hàng ngàn sinh mạng, không lường hết được.
Theo thống kê của ngành điện, hiện miền Trung và Tây Nguyên có 97 hồ chứa  thủy lợi với dung tích trữ 2,4 tỉ m3 nước và 27 hồ chứa thủy điện với dung tích  hơn 6,4 tỉ m3 nước!
Nếu những “quả bom nước” ở các hồ  đập khổng lồ trên cả nước mà bị kích hoạt nổ vỡ do động đất, do lún sụt, do mưa  lâu hơn người ta mong muốn một chút, hoặc do bê tông rởm, thép rởm, xây dựng dối  (xẩy ra quá phổ biến, bất kỳ nơi nào ở Việt Nam)… chẳng hạn, thì sức công phá ấy  “không thua gì bom nguyên tử”.
“Nếu đập thủy điện Sơn La bị vỡ, chỉ 30 phút sau một  chiếc xe tăng nặng 4 tấn ở Sơn Tây sẽ bị thổi bay như một chiếc lá vàng, toàn bộ  đồng bằng Bắc Bộ sẽ chìm sâu từ 4 đến 60 m, cướp đi sinh mạng khoảng 15 triệu  người….” (Đại biểu Quốc hội cảnh báo tại cuộc thảo luận về dự án thủy  điện Sơn La, 2002).
Trái với phản biện và lo ngại của  nhiều nhà khoa học và đại biểu Quốc hội, dự án thủy điện Sơn La không những  không bị dừng lại, mà còn được đẩy nhanh tiến độ, đến nay được đầu tư “đặc cách  phá rào” tới 58.483,412 tỉ đồng, tăng hơn  60% với số vốn đầu tư ban đầu do Nghị quyết Quốc hội duyệt.
Theo nhiều nhà khoa học, thủy điện Sơn La được xây dựng rất mạo hiểm, xây trên  một miền địa chất mong manh gồm ít nhất là 3 đới đứt gẫy. Ghi nhận qua  khảo sát,  từ năm 1990 đến 2003 trên khu vực bán kính 200 km quanh hồ thủy điện  Sơn La, đã xẩy ra 1.098 vụ động đất lớn  nhỏ. Nếu vỡ thủy điện Sơn La, thủy điện Hoà Bình và Thác Bà cũng bị vỡ.  Dù tháng 2/2009, hội đồng nghiệm thu các công trình xây dựng quốc gia đã ra cảnh  báo rằng có nhiều vết nứt tại đập tràn bờ – cả  bờ trái và bờ phải của công trình thủy điện này, nhưng những người có  trách nhiệm vẫn khẳng định “không có vấn đề gì” và đẩy tiến độ hoàn thành lên  sớm 2 năm. Hiện nay thủy điện Sơn La đã tích nước vào hồ chứa chuẩn bị phát  điện.
Trên thực tế đã xẩy ra nhiều nơi  trên thế giới, các hồ thủy  điện với sức chứa lớn đã gây lở núi, lún sụt và động đất. Tháng 1/2009,  báo chí Trung Quốc đăng một nghiên cứu kết luận đập thủy điện Tử Bình Phô (độ  cao chỉ 156 m, thấp hơn cao độ thủy điện Sơn La tới 59 m) đã là một trong những  nguyên nhân gây động đất tại Tứ Xuyên với phạm vi ảnh hưởng tới 65.000 km, làm  cho hơn 80.000 người bị thiệt mạng và hơn 10 triệu người rơi vào cảnh vô gia cư,  chưa kể vô vàn thiệt hại khác. Ngay cả với một nước tiềm năng lớn và trình độ kỹ  thuật, khả năng kiểm soát cao như Trung Quốc, chính quyền Trung Quốc cũng phải  thừa nhận là đã và đang có 400 đập đã bị phá hủy hoặc đang có nguy cơ bị  vỡ.
47%  nguồn nước của thủy điện Sơn La phụ thuộc Trung Quốc. Nếu Trung Quốc  không kiềm chế (và thực tế thấy rằng họ chẳng việc gì phải kiềm chế cả), họ sẽ  nắn dòng Sông Đà, vô hiệu hoá thủy điện này, hoặc một ai đó sơ suất hoặc không kiềm chế, họ kích  hoạt “bom nước” Sơn La – chỉ cách biên giới Trung Quốc khoảng 16 km thôi – dù  dưới bất kỳ hình thức nào, thì cũng tựa như “ngày tận thế” với vùng hạ lưu là  Việt Nam. Như thế, càng làm thủy điện, Việt Nam càng có nguy cơ bị mất  nhiều vùng dân cư, tài nguyên có nguy cơ bị xoá sổ và càng phụ thuộc vào Trung  Quốc từ thượng nguồn Sông Mêkông cho tới Sông Đà.
Vì sao đua nhau làm thủy  điện?
Chúng ta thừa nhận sự vất vả của  những người đã phải đau đầu để tìm kiếm nguồn điện năng cung cấp cho cả nước.  Trong đó, thủy điện đã góp phần sản xuất ra điện, làm dịu bớt tình trạng thiếu  điện gay gắt, triền miên của Việt Nam trong nhiều năm nay.
Nhưng ta hãy xem xét lại cái giá  phải trả để có thủy điện. Và vì quyền lợi cộng đồng, cần cân nhắc thật nghiêm  túc các yếu tố lợi và hại trong bất cứ hành vi nào, nhất là những hành vi có thể  vô hình trung dẫn đến việc làm chết người hàng loạt.
Các nhà chuyên môn, thành viên Ủy  ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết, để có được 1 MW điện, có ít nhất 10-30ha rừng bị phá  để làm hồ chứa, chưa kể để làm những thứ “mượn gió bẻ măng” khác, chẳng  hạn phá rừng lấy tài nguyên bán thu lợi. Thực tế đã xẩy ra, khi lấy 1000 ha làm lòng hồ thuỷ điện thì lại mất thêm  từ 1000 đến 2000 ha đất rừng hoặc đất nông nghiệp thượng  nguồn.
Chưa kể, các nhà đầu tư và các quan  chức duyệt dự án cam kết rằng hồ thủy điện  và hồ chứa nước thủy lợi sẽ điều  tiết khô hạn và lũ, nhưng thực tế chứng minh, thủy địện A Vương, thủy điện Dak  Mi… đã chặn dòng lấy nước làm khô hạn vùng hạ lưu sông và hủy hoại nhiều loại  động thực vật, làm mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng.
EVN công bố: năm 2010, sẽ đưa thêm  14 nhà máy điện mới vào, bổ sung thêm 3.300 MW. Công suất lắp đặt ngành điện cả  nước là 18.400 MW, trong đó 1/3 là thủy điện. Từ chỗ đó, có thể tính được diện  tích rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn bị phá ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền Trung  là bao nhiêu!
Có một câu hỏi: tại sao người ta lại  hăng hái lao vào đầu tư thủy điện đến thế?
Theo khảo sát của các nhà chuyên  môn, thì đầu tư vào thủy điện là đầu tư siêu lợi  nhuận.
Trong bài “Miền Trung héo hon vì thủy điện” đăng trên  Tuổi trẻ Cuối tuần ngày 27/6/2009 có đưa tin ông Nguyễn Văn Lê, chủ  tịch HĐQT công ty cổ phần  thủy điện A Vương tỉnh Quảng Nam cho biết, công trình  này chỉ phát điện sớm trên 180 ngày mà đã mang về cho công ty doanh thu khoảng  240 tỉ đồng. Trong 9 năm là hoà vốn (chưa tới 4 tỉ đồng), còn lại, 31 năm (tuổi  thọ công trình ít nhất 50 năm) là lợi nhuận ròng! Còn một cán bộ tài chính của  nhà máy thủy điện A Lưới (quy mô rất nhỏ) cho biết, mỗi năm nhà máy bán điện  được lãi khoảng 500 tỉ đồng…
Người người đua nhau làm thủy điện  miền Trung vì lãi khổng lồ, trong khi đó cung điện luôn nhỏ hơn cầu và nhà nước  lại luôn bù giá điện. Đặc biệt, vào mùa khô từ tháng 9-12 hàng năm, các nhà máy  thủy điện lớn như Hoà Bình, Trị An, Yaly giảm công suất, thì miền Trung là mùa  mưa, các nhà máy thủy điện miền Trung chạy hết công suất và lãi khổng  lồ.
Qua khảo sát cho thấy, trên thực tế,  mặc dù chủ đầu tư công trình thủy điện nào cũng cam kết điều tiết lũ và điều  tiết nước chống hạn nhưng vì lợi nhuận, các chủ công trình đua nhau tích nước để  máy chạy hết công suất trong bất kỳ hoàn cảnh nào và đua nhau xả lũ ồ ạt khi lũ  về, bất kể dưới xuôi dân chết, gây nên thảm hoạ.
Cả nước có hơn 800 công trình thủy  điện lớn nhỏ. Miền Trung chiếm gần một nửa. Vì sao?
Vì miền Trung sông ngòi nhiều, địa  hình dốc, đầu tư ít, thu lợi nhanh và lãi vô cùng lớn. Chưa kể nguồn lợi lâm sản do phá rừng được hợp pháp  hoá. Nhiều công trình thủy điện thậm chí không còn thèm xây hồ chứa nước.  Họ chỉ cần làm các bậc thang nâng cao động năng của dòng nước xả. Dòng nước lũ  hậu quả từ việc nâng cao động năng này càng vô cùng hung dữ vì không được sử  dụng để quay tuốc-bin chuyển thành năng lượng điện.
Nhiều nhà khoa học đã công bố hiện  trạng: do bản chất thủy điện miền Trung quy mô vừa và nhỏ, khả năng điều tiết chống lũ kém, nhiều bậc,  khiến cho dòng chảy lúc bình thường vốn đã mạnh càng thêm hung bạo và kéo dài  hơn. Hiện tại, các hồ chứa thủy điện miền Trung chỉ xây dựng quy trình vận hành  độc lập để đảm bảo nước phát điện và an toàn đập, khi thiết kế chưa bố trí xây  dựng dung tích cắt lũ cho hạ lưu. Vì thế, khi lũ về, toàn bộ lượng nước đến hồ  đều được xả xuống hạ lưu gây lũ.
Giáo sư Phan Kỳ Nam, chủ nhiệm khoa  của Đại học Thủy lợi cho biết, báo cáo đánh giá  tác động môi trường của các dự án thủy điện chỉ làm lấy lệ, bất cập trong  khâu vận hành xây hồ chứa, dự báo lũ, kéo dài thời gian xả lũ. Tại cuộc toạ đàm  nguyên nhân lũ lụt năm 2009 (không hiểu vì lý do gì, thay vì phải ở tầm cỡ nhiều  hội nghị khoa học cho một vấn đề nghiêm trọng đến thế, lại chỉ mở trong một  khuôn khổ hẹp?!), nhà chức trách thừa nhận là nhiều trạm quan trắc lũ bị cuốn  trôi và đến nay chưa mua sắm xây dựng trở lại. GS Nguyễn Đình Hòe kết luận rằng  với thủy điện, thì sản nghiệp vùng các cửa sông “đã bị phơi trần ra trước sức  công phá của lũ lụt”.
Những người làm thủy điện và quan  chức địa phương đã cam kết trước chính phủ về việc giữ rừng, về việc vận hành an  toàn hồ chứa, về đảm bảo đời sống nhân dân và môi sinh môi trường… nhưng họ đã hầu hết không thực hiện. Khâu kiểm  tra giám sát cũng rất qua loa, thậm chí còn bao che bằng mọi giá.
Thế là, miền Trung đã bị thí  mạng?!
Nhận diện những bàn  tay
Chuyện nghiêm trọng rồi.
Hãy nhận diện những bàn tay. Bởi vì  nhiều trận lũ mới đang được cảnh báo sắp về miền Trung. Và còn bao nhiêu trận  “đại hồng thủy” nữa sẽ dập xuống miền Trung, rồi cả Việt Nam, với tình trạng chi  chít những “quả bom nước” này? Nếu không lo liệu, tức là tàn nhẫn với sinh mệnh  của dân và đất nước. Biết mà không nói, không  làm, để hậu quả xẩy ra nghĩa là chấp nhận tình trạng “giết người hàng  loạt”.
Không thể biện hộ rằng “tôi vô  tình”. Và hãy chấm dứt trò đổ quanh cho nhau. Ở Việt Nam luôn xẩy ra tình trạng  nhà xây dựng, nhà thiết kế, nhà chức trách… bao nhiêu “nhà” có quyền lợi công  khai và quyền lợi ngầm luôn khẳng định “Yên chí lớn. Chịu trách nhiệm”. Nhưng  khi xẩy ra sự cố, họ “cãi trắng”, phủi tay, chẳng ai chịu, chẳng ai đền bù cho  nạn nhân. Chỉ còn lại nạn nhân quờ quạng trong thảm hoạ. Chính phủ có lo thì cũng chỉ là lấy từ tiền dân ra,  chất thêm gánh nặng đã quá sức trên vai dân Việt Nam vốn đã nghèo để sửa chữa  cho những hậu quả xẩy ra từ những hời hợt, ấu trĩ, tham lam, vô trách  nhịêm. Thay vì người dù trực tiếp hay gián tiếp đã gây ra tình trạng này,  không trừ một ai, phải đền bù thiệt hại thỏa đáng và bị xử lý trước pháp luật,  thì người ta xuê xoa. Vẫn là một cơ chế “không ai cả”. An ủi dân lúc đó là những  ngành cứu hộ cứu nạn và nhà từ thiện. Cánh tay của những nhà từ thiện làm sao đủ  dài để cứu vớt hết dân.
Ai? Bàn tay nào  gây nên nông nỗi này?
Đó là những nhà đầu tư không phải  không nhận thức được mối nguy hiểm treo trên đầu đất nước mà vẫn cố tình làm để  nhét cho đầy túi.
Đó là những người quản lý các địa phương hoặc ở tầm cao hơn vô trách nhiệm, hoặc do ấu trĩ và  thiếu hiểu biết và tập hợp xung quanh mình một đám người giúp việc bị lung lạc  bởi tiền bạc, tiếp tay cho việc thiết kế “những quả bom nước” mà không “tháo  ngòi nổ”, gây thảm hoạ cho nhân dân.
Đó là những nhà khoa học rởm hoặc do trình độ hoặc do  bị mua chuộc đã cam tâm “bán linh hồn”, đã nhắm mắt làm ngơ đưa ra những con số  dự báo hoặc thống kê thiên lệch, tạo điều kiện bảo vệ cho “kẻ châm ngòi bom  nước” gây chết người hàng loạt.
Đó là một số người có quyền lực chuyên bưng bít thông  tin và coi đó là nghề kiếm lợi bằng mọi giá, trong đó kể cả mọi thông tin  về tham nhũng, về khiếu kiện dân oan, về phá rừng, về dân nghèo, về cho Trung  Quốc thuê rừng xung yếu biên giới, về thiệt hại do thủy điện và lũ lụt, luôn  luôn doạ dẫm đóng cửa các tờ báo, kỷ luật, cách chức bộ máy lãnh đạo báo chí và  các phương tiện thông tin đại chúng nên báo chí phải chọn cách cúi đầu ngậm  miệng. Vì thế kênh phát hiện vấn đề và cảnh báo  gần như bị vô hiệu hoá trong hầu hết các trường hợp, khiến cho lãnh đạo  nhà nước bị cô lập, không kịp nắm bắt thông tin, chủ quan, ra những quyết sách  tai hại không gì khắc phục nổi.
Đó  là sự im lặng nhẫn nhục đến đáng sợ của các nạn nhân còn sống sót qua thảm  hoạ. Nạn nhân tiềm năng, đương nhiên gồm cả nước Việt Nam này trong tương  lai.
Và trên hết, là sự “thiếu trách  nhiệm vô hạn” của rất nhiều người trong hệ thống tư pháp và hành pháp Việt  Nam đã không phát hiện, không ngăn chặn và trừng phạt bàn tay của “những  kẻ giết người hàng loạt” và “giết nền kinh tế, đạo đức của Việt Nam”. Hệ thống  này đã đương nhiên chấp nhận sự đứng trên pháp luật của những người có chức  quyền và có tiền để mua  chức quyền, khiến cho pháp luật Việt Nam trong quá  nhiều trường hợp bị vô hiệu hoá.
Vì thế, khi thảm hoạ xẩy ra thì phần  lớn những người giỏi lừa mị ấy đã ních tiền đầy túi và xa chơi, hoặc đã lên chức  cao hơn. Họ được bảo vệ bởi một mạng lưới cấu  kết cùng quyền lợi. Họ thừa sức mang cả gia quyến và tài sản ra nước ngoài tránh  lũ ngay cả trong trường hợp Việt Nam bị “xoá sổ”. Theo dư luận cho biết,  nhiều người trong số họ thừa tiền để sống sung túc hàng chục đời, để lại một  miền Trung tang thương và không gì bù đắp được.
Hãy tháo “ngòi  nổ”
Có thể sửa chữa được  không?
Đã quá muộn. Nhưng phải vớt vát  thôi. Để tồn tại.
Vấn đề cần làm ngay là hãy “tháo các  ngòi nổ” để loại trừ nguy cơ, cứu lấy dân nước. Vấn đề là phải nhận diện những  người có trách nhiệm. Mọi người dân Việt Nam cần phải lên tiếng để ngăn chặn  thảm hoạ. Những người bị thiệt hại cần phải lên tiếng, kiên trì đến cùng  kiện những người đã gây nên thảm hoạ cho họ ra toà để họ buộc phải đền bù và trả  giá trước pháp luật. Đó là lẽ công bằng tối thiểu. Một lẽ công bằng mà ngay ở  thế kỷ 21, người Việt Nam còn chưa được hưởng; trong khi đó, 137 năm trước,  người Pháp và nhiều người dân trên thế giới đã thiết lập được hệ thống công bằng  này.
Năm 1873, tại Pháp, công dân Jean  Blanco thắng kiện nhà cầm quyền Pháp tại toà. Toà đã buộc Nhà nước Pháp phải bồi  thường và phải trợ cấp suốt đời cho cô con gái 5 tuổi của ông vì một chiếc xe  đẩy của nhà máy thuốc lá công quản Thành phố Bordeaux đổ lật gây thương tật cho  cô bé. Vụ kịên này đã đặt nền tảng cho luật hành chính Pháp quy định những điều  khoản liên quan đến trách nhiệm nhà nước. Năm 1999, toà đại hình Pháp đã xử một  thị trưởng sau khi một bé gái 4 tuổi bị điện giật vì chạm tay vào cột đèn chiếu  sáng của thành phố.
Thật  thiệt thòi và đắng cay cho người Việt Nam, vì sau đó gần một thế kỷ rưỡi mà  người Việt Nam vẫn chưa được hưởng quyền tối thiểu của nhân dân trước trách  nhiệm đương nhiên của bộ máy chính quyền như trong thí dụ vừa nêu, tại  một đất nước luôn quảng cáo “chính quyền do dân, vì dân…”
Cần phải xác định rõ rằng, bộ máy  chính quyền và tất cả những người có trách nhiệm liên quan, sở dĩ họ ngồi tại vị  trí đó, họ có thu nhập, là do dân đã thuê họ thực hiện công việc quản lý xã hội  để bảo vệ đất nước, bảo vệ sự an lành của nhân dân. Đó là lý do duy nhất mà họ  được nhận việc làm ấy, chức vị ấy. Nếu không làm  được việc đó, đương nhiên họ phải đền bù thiệt hại và phải trả giá thích đáng  trước pháp luật.
Đó là lẽ công bằng tối thiểu, cũng  như một người được thuê trông xe đạp cho người ta, nếu đánh mất xe thì phải đền  xe. Cũng như hàng không phải đền bù thiệt hại cho khách hàng khi trễ giờ, khi  xẩy tai nạn dù vô tình hay cố ý. Nếu không, thì đấy là điều vô cùng bất công và  phi lý, chỉ có thể hành xử ở những nước độc tài toàn trị, trong đó người có  quyền lực muốn làm gì cũng được.
Để nhấn mạnh chân lý đương nhiên như  mặt trời thì chiếu sáng ấy, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất Johannesburg năm 2002  tuyên bố:
“các nhà nước phải chịu trách  nhiệm về quyền được sống và làm việc trong những điều kiện vệ sinh tốt, quyền có  được một môi trường lành mạnh và an toàn, quyền được chăm sóc và chi trả các  thiệt hại, quyền được thông tin và tiếp cận công lý cho người dân. Trách nhiệm  hành chính là nghĩa vụ đối với cơ quan nhà nước phải bồi thường các thiệt  hại gây ra bởi hoạt động của mình hay cuả các nhân viên cơ quan ấy…”
Miền Trung ơi! Những người đã hứa  hẹn sự an toàn cho miền Trung, nay phủi tay.
Những người miền Trung, xưa cha anh  họ đã chết cho Xô-viết Nghệ Tĩnh, nay chính họ lại phải chết những cái chết oan  uổng cho nguồn lợi của một số ai đó, hoặc phải trả giá cho sự vô trách nhiệm của  những ai đó và trở thành kẻ vô gia cư.
Những người có mắt, có miệng, có lương tri, dù ở bất kỳ vị trí nào, hãy  lên tiếng đòi lại công bằng cho chính mình, cho miền Trung và cho những đồng bào  đã bị mất người, mất rừng, mất nơi ăn chốn ở, mất gia sản mồ mả tổ tiên tự bao  đời trên đất nước này.
Như thế mới là có ý thức công dân,  là đạo lý, mới là xây dựng đất nước và hậu thuẫn cho các nhà lãnh đạo chân chính  chấn chỉnh bộ máy. Dĩ hoà vi quý chính là gián tiếp làm suy yếu đất nước và hạ  nhục chính mình.
Cần phải làm rõ rằng, nếu định hy  sinh miền Trung hoặc một số vùng miền như đồng bằng Bắc Bộ… để có điện, thì  trước hết, hãy tránh việc “giết người hàng loạt”, bằng cách đền bù thỏa đáng cho  họ tất cả những gì họ đã mất, tìm một nơi thật an toàn tái định cư cho những  người trong phạm vi bị ảnh hưởng, xây nhà cửa cho họ sinh sống và lo các điều  kiện để họ có mức sống ổn định lâu dài, ít ra là bằng hoặc hơn mức sống hiện tại  của họ.
Còn nếu không, phải lập tức khảo sát  các công trình thủy điện, loại trừ ngay các nguyên nhân gây lũ do con người, xem  lại việc vận hành hồ chứa một cách hết sức trung thực, như thiết quân luật, có  biện pháp hữu hiệu để phòng đột biến và trong mọi trường hợp phải thực hiện hệ  thống quy định vận hành liên hồ hết sức chặt chẽ, ai trái lệnh, kẻ đó phải bị  trừng phạt ở mức án cao nhất như tội giết người. Trong những trường hợp không  thể đảm bảo, thà triệt tiêu hồ thủy điện và tìm cách khác để có nguồn địện, còn  hơn là treo những quả bom  nước có sức hủy diệt “ngang bom nguyên tử” trên đầu miền Trung, trên đầu đồng  bằng Bắc Bộ và khu vực hạ lưu Mê Kông…
Đó là lẽ phải và lương tri tối thiểu  mà chính quyền phải thực hiện bằng đựơc. Nếu không, đó chỉ là biểu hiện của một  chính quyền đi ngược lại quyền lợi của nhân dân và đất nước.
Tại sao cho đến bây giờ, trong những  vụ như “hố đen tử thần”, những vụ như Vinashin, và bao nhiêu vụ khác, những  người đã gây ra hậu quả lớn đến thế lại cứ an toạ, cứ lên cao hơn, là vì pháp luật đã bị vô hiệu hoá  đối với một tầng lớp đông đảo đứng trên pháp luật.
Ba ngành lập pháp, tư pháp, hành  pháp trên thực chất chỉ là một trong thể chế Việt Nam, nên chính thể chế đó đã  loại trừ mọi sự phản biện và giám sát có lợi cho xã hội và cho chính đất nước.  Càng ngày, điều đó càng bộc lộ nhiều bất cập, mà chính những người có lương tri  trong tầng lớp lãnh đạo cũng phải chịu bó tay trước sự rữa nát của những kẻ thừa  hành.
Cần chặn bàn tay của những “kẻ giết người hàng loạt”. Những kẻ dám thí  mạng đất nước và công dân!
Xin đừng nhầm lẫn và mơ hồ về nhân  dạng những kẻ này. Giết người hàng loạt  không chỉ là kẻ côn đồ hai tay hai  súng, mặt mũi dữ tợn hoặc tuyệt vọng. Những kẻ ấy, về khả năng hủy diệt  thua xa đám giết người hàng loạt, tay cầm bút tay cầm tiền và miệng mỉm cười rất  đỗi ngọt ngào tại Việt Nam.
Hãy sớm nhận diện những kẻ đó ở bất  cứ đâu và chặn bàn tay hủy diệt êm như nhung của họ để nhằm bảo vệ quyền sống  của mọi người Việt Nam.
© 2010 Võ Thị Hảo
 


