Kim Nguyên
Vào dịp lễ Giáng Sinh vừa qua, đài phát thanh RFA đã phát  loạt bài nói về tội ác của Cộng Sản tại trại giam Cổng Trời do thông tín viên Mặc Lâm  thực hiện. Trong bài đầu tiên, tác giả đề cập đến chuyện bách hại xảy ra tại nhà  thờ lớn Hà Nội vào mùa Giáng Sinh năm 1959. Kết quả là linh mục chánh xứ Trịnh  Văn Căn (sau là Hồng Y thứ nhì của giáo hội Công Giáo Việt Nam) bị 12 tháng tù  treo, cha phó Nguyễn Văn Vinh cùng một số tu sĩ, giáo dân khác bị bắt đưa vào  trại giam Cổng Trời và tất cả đã bỏ mình trong chốn địa ngục trần gian  ấy.  
Điều  đáng nói ở đây là thủ phạm trực tiếp của vụ bách hại chính là Ủy Ban Đoàn Kết  Công Giáo, tiền thân của cái gọi là Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam hôm nay,  tổ chức do nhà nước thành lập này đã gây biết bao nỗi đoạn trường cho giáo hội  Công Giáo, đã giúp Cộng Sản len lỏi vào hang ngũ lãnh đạo giáo hội và hiện đang  tiếp tục đóng vai trò trung gian để “nối kết” giáo hội Công Giáo và nhà nước  Cộng Sản qua chiêu bài “đối thoại”. Xin bấm vào “link” để xem (và nghe)  loạt bài này.
Đọc lại những trang sử viết bằng máu và nước mắt của giáo  hội Miền Bắc dưới chế độ Cộng Sản, những ai còn có chút lòng với Giáo Hội không  khỏi cảm thấy bùi ngùi và căm phẫn cho cái chính sách tàn độc cũa những người  Cộng Sản, từ Liên Xô qua Trung Quốc, đến Việt Nam. Và cảm thông cho cái thái độ  im lặng, nhẫn nhục và bất hợp tác của các vị chủ chăn miền Bắc trong một thời  gian dài. Các ngài chẳng có sự lựa chọn nào khác, vì chủ trương nhất quán của  Cộng Sản là tiêu diệt Công Giáo thẳng tay, không thương tiếc, không khoan  nhượng. Những giáo sĩ, giáo dân tội nghiệp kia nếu muốn trung thành với niềm tin  của mình thì bắt buộc phải bước đi trên những con đường khổ nạn. Qua những kinh  nghiệm đau thương, giáo hội Miền Bắc đã chín chắn hơn, hiểu rõ CS hơn và cung  cách tiếp cận, ứng xử với CS cũng già dặn hơn như chúng ta thấy được qua biến cố  Đồng Chiêm hay Thái Hà. Người không tán thành thì chỉ trích thái độ của các giám  mục miền Bắc là “não trạng tiền Vatican” và họ cổ võ việc “đối thoại” với Cộng  Sản vô thần..
Đối thoại dĩ nhiên là điều tốt, nhưng dưới chế độ Cộng Sản  vô thần, không bao giờ người công giáo được đối thoại theo đúng nghĩa: nói  chuyện với nhau một cách bình đẳng, không có cái cung cách kẻ trên - người dưới,  kẻ vênh váo - người khúm núm; trình bày một cách thẳng thắn những gì muốn nói  với nhau, và lắng nghe nhau trong tinh thần tôn trọng: nếu anh sai tôi có quyền  chỉ cho anh thấy cái sai mà không hề bị anh để ý, trả thù; nếu tôi nói đúng thì  anh phải thành tâm phải sửa đổi. Nếu ngồi vào bàn chỉ để nghe người ta “lên  lớp”, “hô khẩu hiệu”, còn mình thì cười cầu tài hay nói vuốt theo, mình chỉ có  thể tán thành chứ không có quyền phản đối, khi ý kiến hai bên bất đồng thì họ  giành quyền bác bỏ ý kiến của mình và hành động theo ý của họ thì đó không phải  là đối thoại mà là mối tương quan của kẻ thống trị và người bị  trị.
Giáo hội Công Giáo Việt Nam hôm nay bị chỉ trích từ nhiều  phía về sự thụ động trước những vấn đề hệ trọng liên quan đến sự sống còn của  dân tộc, hay những tệ trạng xã hội, những bất công, nghịch lý xảy ra hàng ngày,  khắp nơi trên mọi lãnh vực và xảy ra khắp mọi miền đất nước. Để biện hộ cho thái  độ bàng quang, vô cảm này. Người ta thường trưng ra cái lý do “giáo hội không  làm chính trị”. Thoạt nghe cũng có vẻ có lý. Nhưng suy xét cho kỹ thì rõ ràng  không phải vậy, mà đó chỉ là cái cớ để né tránh những va chạm với kẻ có quyền  thế nhằm đổi lấy sự an toàn cho bản thân và nhận đươc những ân sủng được ban  phát bằng cách này cách khác. Đồng ý là giáo hội có sứ mạng riêng, không lập  đảng giành lấy chính quyền để cai trị quốc gia, hay hô hào dùng bạo lực truất  phế người này, hạ bệ người kia; những việc đó không phải là ơn gọi của những  người chọn con đường tu trì đang làm nhiệm vụ cai quản giáo hội. Nhưng lên tiếng  trước những bất công và nghịch lý của xã hội, cổ võ cái đúng, phê phán cái sai  không phải là làm chính trị. Cho dù phải chịu bách hại, phải chấp nhận hy sinh  thì những người chọn con đường bước chân theo Thầy Chí Thánh cũng vẫn luôn được  mời gọi làm chứng cho lẽ phải. 
Xin đơn cử một thí dụ về thái độ cần phải có của những  người được Thiên Chúa trao phó trọng trách dẫn dắt đoàn chiên của Ngài: Hiện nay  Việt Nam là nước có tỷ lệ phá thai cao nhất Đông Nam Á. Theo thống kê chính thức  của nhà nước thì mỗi người phụ nữ Việt Nam phá thai 2,5 lần trong đời. Nếu kể cả  những trường hợp không chính thức (phá thai chui, phá thai ở bệnh viện nhưng  không ghi vào sổ hay phá thai bằng những phương pháp dân gian…) thì số lần phá  thai trong đời người phụ nữ Việt Nam còn cao hơn nữa, có thể là cao nhất thế  giới cũng nên. Xin được hỏi Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã làm gì trước những tội  ác kinh khủng này? Điều đáng nói là xã hội (trong đó có những con chiên mà các  ngài có nhiệm vụ chăn dắt) ngày càng trở nên thờ ơ vô cảm trước tệ trạng này, họ  không xem đó là tội ác nữa. Hay là các ngài vô tư quá không nhìn thấy? Hội Đồng  Giám Mục có dám đặt vấn đề với những người có trách nhiệm với xã hội về việc này  không? có dám gióng lên tiếng nói của lương tri trước thảm cảnh hàng triệu thai  nhi vô tội bị “tàn sát” hàng năm không ? hay đó là việc của nhà nước? Giáo Hội  “không làm chính trị” nên không tiện đề cập đến? 
Một hiện tượng bất công đang diễn ra, không thể chấp nhận  được đối với những người còn lương tâm là việc Chủ tịch tỉnh, các quan chức hàng  đầu trong tỉnh Hà Giang hè nhau đi mua dâm nữ sinh, mà người dắt mối chính là  ông hiệu trưởng ngôi trường các em học, sau đó chính các em nữ sinh lại bị ở tù  trong khi các quan vô sự. Mới đây, các cơ quan điều tra đã đưa ra kết luận là  “không đủ chứng cớ” để buộc tội các quan, nghĩa là họ được “hạ cánh an toàn”  trong khi hai cô bé nạn nhân nhỏ bé tội nghiệp cô thân cô thế kia vẫn đang (và  sẽ) phải tiếp tục ngồi tù. Những đấng bậc có trách nhiệm về đạo đức đâu cả rồi  mà không ai có tiếng nói trước chuyện tưởng như hoang đường ấy đang xảy ra trên  đất nước Việt Nam?
Những người mang sứ mệnh Ngôn Sứ trên vai đã làm gì trước cảnh  hàng trăm, hàng ngàn đồng bào bị chính quyền cưỡng bức, đánh đập, xua đuổi ra  khỏi mái nhà, khu đất mà tổ tiên họ bao đời vun xới để “thu hồi” đất bán cho  những doanh nghiệp với giá gấp trăm, gấp ngàn lần số tiền rẻ mạt họ trả cho  những khổ chủ tội nghiệp kia. Số tiền lời thì quan chức chính quyên chia nhau bỏ  túi! Thật, những người dẫn dắt giáo hội đã không có tiếng nói nào cả, thậm chí  khi chính những tín hữu cô đơn, đau khổ kia chạy đến cùng chủ chăn của mình để  kêu cầu (trường hợp Cồn Dầu), thì nhận được câu trả lời lạnh lùng, vô cảm, Vô  Tri: “rất tiếc, tôi không làm được gì cả… ”, và bỏ mặc đàn chiên của mình trước  đàn sói dữ. Những giáo dân khốn khổ kia chưa bỏ cuộc, họ tiếp tục kêu cầu đến  những cấp cao hơn: Hội Đồng Giám Mục, Uỷ Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Đồng  Giám Mục. Tiếng kêu của họ nhờ những phương tiện truyền thông đã vang đi khắp  nơi trên thế giới. Lần này, người ta cảm thấy được an ủi cộng thêm một chút vui  mừng (?) khi thấy lá thư của Giám Mục Nguyễn Thái  Hợp chủ tịch Uỷ Ban Công Lý và Hòa Bình  gởi cho chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng. Nhưng rồi sau khi lá thư được công bố  thì những người dân vô tội kia vẫn bị đưa ra tòa, bị xử án, không có một dấu  hiệu nào cho thấy nhà của họ, đất của họ sẽ khỏi bị chính quyền cướp mất, thậm  chí họ còn tiếp tục chịu những đe dọa, khủng bố của nhà cầm quyền. Đến nay người  ta chưa thấy một tiếng nói khác từ phía giáo quyền, mà chỉ thấy hình ảnh “hữu  nghị thắm thiết” giữa giám mục của họ với ông xếp của lũ cướp ngày kia. Nếu sự  “can thiệp” của hội đồng giám mục ngưng lại ở đó thì có lẽ không quá đáng khi  bảo các ngài đã “đánh trống bỏ dùi”. Trong việc này, có thể một trong 2 trường  hợp sau đây đã xảy ra: Trường hợp 1: Hội Đồng Giám Mục thực lòng muốn can thiệp  nhưng chính quyền không đếm xỉa đến, cứ tiếp tục hành vi cướp đất của dân. Điều  này chứng tỏ họ không xem Hội Đồng Giám Mục là đối tác để đối thoại, và Hội Đồng  Giám Mục cũng im lặng, mặc nhiên chấp nhận cách cư xử bất công (và bất nhân)  này. Trường hợp thứ 2 là thấy dư luận (trong cũng như ngoài nước) “bức xúc” quá  nên các ngài cho tung ra một lá thư để cho dư luận xì xú bắp, rồi thôi. Trong cả  2 trường hợp, các vị chăn dắt Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã không làm tròn vai  trò của những chủ chăn đối với đoàn chiên, tự chối bỏ vai trò làm chứng và bênh  vực cho lẽ phải.
Vào cuối tháng 11-2010 đại hội Dân Chúa, được Hội Đồng giám  mục cho là một biến cố trọng đại của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, vừa qua đi với  lễ nghi long trọng và những bài tham luận không lấy gì làm đặc biệt, đề cập đến  những vấn đề chung chung, vô tội vạ, ai cũng thấy, trong khi những điều tối quan  trọng lại cố tình tránh né, lãng quên. Những vấn đề “nóng” như: sự băng hoại tột  cùng nền đạo đức; niềm tin của giáo dân vào những vị đại diện Thiên Chúa bị tổn  thương trầm trọng; sự can thiệp thô bạo của thế quyền vô thần vào nội bộ các tôn  giáo (nói chung) và Công giáo (nói riêng); những bất công, áp bức tràn lan khắp  nơi mà nạn nhân chính là những con người bé nhỏ, cô đơn mà giáo hội có bổn phận  phải bênh vực; phụ nữ, trẻ gái, công nhân Việt Nam bị buôn bán như những món  hàng ….không hề được nêu lên trong đại hội “hoành tráng” ấy. 
Đại hội dân Chúa vừa được tổ chức có rất nhiều điểm giống  với cách tổ chức của những cuộc đại hội đảng: những cuộc vận động, tuyển chọn  đại biểu, những thành phần “không nên cho tham dự” bị loại ra bằng cách này hay  cách khác… Cho dù vị giám mục đại diện hội đồng giám mục giải thích như thế nào,  cũng không thuyết phục được người tín hữu về việc dòng Chúa Cứu Thế, một hội  dòng bề thế, hiện diện ở Việt Nam hàng thế kỷ nay, đã đóng góp rất nhiều cho  công việc quảng bá Tin Mừng, đã đồng hành với Giáo Hội Việt Nam qua nhiều thăng  trầm lại không có đại diện trong đại hội này. Điều đáng chú ý là dòng Chúa Cứu  Thế không được đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam dành cho nhiều thiện cảm (nếu  không muốn nói là căm ghét, muốn khai trừ) chỉ vì các cha dòng Chúa Cứu Thế  không chấp nhận cúi đầu chấp nhận cái ác, không chịu im lặng trước bất công. 
Nhân đề cập đến dòng Chúa Cứu Thế, xin được mở một dấu  ngoặc nhỏ: Giáo dân Việt Nam ai cũng thấy sự khác thường và vô lý khi dòng Chúa  Cứu Thế ở Sài Gòn muốn phong chức cho các cha, các thầy lại phải lên tận vùng  Cao Nguyên mời Giám Mục Micae Hoàng Đức Oanh “xuống núi” để truyền chức khi mà  ngay tại Sài Gòn có một hồng y và một giám mục, xa hơn thì Xuân Lộc, Bà Rịa,  Phan Thiết , Mỹ Tho... nơi nào cũng có giám mục. Tại sao đi đến tận Kon Tum mời  một vị chủ tế? Và không phải ngẫu nhiên khi vị chủ chăn đáng kính này cũng là  một đối tượng “được” nhà nước đặc biệt chú ý vì sự khẳng khái của ngài. Chẳng lẽ  không được lòng nhà nước vô thần cũng có nghĩa là không được lòng giáo quyền? có  khi nhà nước chưa khai trừ thì giáo quyền đã khai trừ trước. Người giáo dân Việt  Nam không dám tin điều này, nhưng trước những sự kiện hiển nhiên như vậy, xin  những người có trách nhiệm hãy lý giải làm sao cho thuyết phục. Cách nay một vài  năm, chú tôi, một linh mục cai quản một giáo xứ ở địa phận Xuân Lộc, đã bị giám  mục địa phận cách chức, cho về ngồi chơi xơi nước dù chưa đến tuổi nghỉ hưu chỉ  vì ông dám lên tiếng phản đối nhà nước lấn chiếm đất của giáo xứ ông cai quản.  Trên đất nước Việt Nam còn bao nhiêu vị linh mục bị “kỷ luật” ví dám phản đối  hành động cướp ngày của nhà nước như chú tôi?
Hôm trước, đọc bài Trung Quốc: Giáo hội tự trị – Việt  Nam: Tôn giáo lễ hội của cha pascal  Nguyễn Ngọc Tỉnh thấy ngài phân tích thật đúng, tôi cảm phục những tiếng nói can  đảm (và cô đơn) như vậy của cha Tỉnh, cha Đỗ Xuân Quế và một số hiếm hoi những  vị chủ chăn “uy vũ bất năng khuất”. May mà giáo hội Việt Nam hôm nay còn có các  ngài. Dù biết có thể sẽ phải trả giá bởi những cách trả thù hèn hạ của chính  quyền, có khi phải trả bằng cả chính mạng sống của mình nhưng các ngài vẫn can  đảm cất tiếng. Sống với Cộng Sản lâu ngày, các vị có trách nhiệm trong giáo hội  của mình cũng bị ảnh hưởng cái bệnh “hoành tráng về hình thức, đại khái về nội  dung”, nặng phần phô trương bề mặt hơn là đi vào chiều sâu của tâm linh qua các  lễ hội đình đám ở các giáo xứ, giáo phận. Tôi không vơ đũa cả nắm, vì không phải  tất cả các linh muc, giám mục đều như vậy, nhưng phải đau lòng nhìn nhận rằng  hiện tượng phô trương ngày càng phổ biến trong giáo hội Việt Nam. Thông thường,  các Giám Mục, Linh Mục cử hành lễ kỷ niệm vào những dịp ngân khánh (25 năm), kim  khánh (50 năm) ngày chịu chức. Ngày nay, nhiều vị tổ chức kỷ niệm hàng năm, rất  “hoành tráng”, để phô trương thanh thế, để tiêu tiền hơn là để cảm tạ hồng ân về  đoạn đường đã đi qua và cầu xin ân sủng trên bước đường sắp tới. 
c3 
Vài ngày nữa đây, sẽ là lễ bế mạc  Năm Thánh kỷ niệm 350 năm thiết lập Giáo Hội tại Việt Nam, kỷ niệm 50 thiết lập  hàng Giáo phẩm Việt Nam, có mời đại diện nhà nước Việt Nam, nghe nói là chủ tịch  nước Nguyễn Minh Triết. Đã đến tham dự, lẽ nào lại không lên đọc diễn văn, thế  là người Cộng Sản vô thần lại được dịp dùng chính diễn đàn của đại hội để hô  khẩu hiệu, để dạy dỗ hàng giáo phẩm và giáo dân Việt Nam. Nghĩ tới việc đó, ai  còn có lòng yêu mến giáo hội không khỏi ngán ngẩm, cay đắng và đau lòng.
Sự kiện gần đây ở giáo hội bên Trung  Quốc là gáo nước lạnh dội và niềm hy vọng của những ai còn mơ hồ về “thiện chí  đối thoại” những người Cộng Sản vô thần : Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ, đứng đầu  là Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã tỏ thiện chí muốn bắt tay với chính quyền Trung  Cộng bằng những nhượng bộ quan trọng: công nhận một số giám mục, linh mục của  giáo hội do nhà nước thành lập, đồng ý cho chính quyền Cộng Sản được có ý kiến  trong việc lựa chọn giám mục. Thế nhưng Cộng Sản đã trở mặt: chính quyền Trung  Cộng mới đây ngang nhiên phong chức giám mục không cần sự đồng ý của tòa thánh  Vatican, cưỡng bách các giám mục hiệp thông với Vatican phải tham dự lễ tấn  phong. Họ vừa cho mở đại hội giáo dân, đại diện chính quyền đến dự đại hội đã  công khai công kích Vatican. Đại hội này đã bầu một giám mục quốc doanh làm chủ  tịch Hội Đồng Giám Mục Trung Quốc…. Đến nỗi Đức Giáo Hoàng , người chủ trương  đưa bàn tay ra hòa giải với những người Cộng Sản vô thần, dù không muốn, đã phải  công khai, mạnh mẽ lên tiếng chỉ trích Bắc kinh xâm phạm trắng trợn tự do tôn  giáo của người dân. Thêm một chứng cứ về sự trở mặt của Cộng Sản. 
Tại sao các vị  lãnh đạo giáo hội Việt Nam cứ phải đặt vấn đề “đối thoại” với “đối đầu” trong  tương quan với nhà nước? Tại sao không thể cư xử với nhau bằng mối tương quan  giữa những con người trưởng thành : tôi luôn luôn cố gắng đến với anh với lòng  tử tế, cư xử với anh bằng tình người và anh cũng hãy cư xử với tôi trong tinh  thần ấy. Nếu anh có gì sai thì tôi có quyền nói là nó sai, anh không được cưỡng  bách tôi phải làm ngược với lương tâm của tôi. Nói như vậy với nhà nước có phải  là “làm chính trị” không? hay là cứ phải “tốt đạo đẹp đời” mới được? và “tốt đạo  đẹp đời” theo lối giải thích của Cộng Sản là gì nếu không phải là ngoan ngoãn  cúi đầu “chấp hành” mọi sự áp đặt của nhà nước? 
Hãy nhìn thẳng vào hiện tình của  Giáo Hội Việt Nam hôm nay để thấy rằng giáo hội Công Giáo Việt Nam đang đứng  trước những cơn sóng dữ. Bàn tay thuồng luồng của Cộng Sản vô thần ngày càng  luồn sâu vào những hoạt động của giáo hội không khỏi làm cho những giáo dân,  giáo sĩ yêu mến giáo hội lo âu. Nhưng người Công Giáo không được quyền đánh mất  niềm tin. Bước qua năm 2011 chúng ta cùng thành tâm cầu nguyện cho giáo hội mẹ  được thổi vào luồng sinh khí mới, luồng sinh khí của Chúa Thánh Linh. Giáo hội  chính là Nhiệm thể của chúa Kitô, chúng ta xác tín rằng Ngài không để giáo hội  mà Ngài đã tạo dựng bằng chính máu của mình bị dẫn dắt vào con đường lầm lạc bởi  những người đã và đang thỏa hiệp với loài quỷ dữ. Xin cùng nhau nguyện cầu cho  những ai đang lầm lạc được sớm thức tỉnh để quay về như đứa con hoang đàng trong  Kinh Thánh, nguyện cầu cho họ đừng quên rằng người Cha nhân từ luôn ngóng đợi  từng giờ, từng phút để được ôm đứa con yêu dấu vào lòng và nói với nó lời thứ  tha khi nó thành tâm quay về… 
Ngày cuối cùng của năm 2010 đầy biến động. 
Kim Nguyên
 
