"Hèn mà còn nhận ra mình là thằng hèn, là hèn tử tế. Hèn mà ngậm miệng ăn tiền là hèn nhơ bẩn.
Hèn mà ngậm máu phun người là hèn bất nhân. Hèn bán đất bán nước thì trời tru đất diệt"
(Phạm Chuyên)

Samstag, 8. Januar 2011

Trung Quốc và cuộc chiến Việt Nam

Bìa sách của GS Địch Cường
Quan hệ Việt-Trung trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau

Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc chắc chắn sẽ tiếp tục là đề tài được quan tâm nhiều trong năm 2011, và nhìn vào quá khứ là một trong số các câu chuyện thường gặp.

Mặc dù quyển sách tiếng Anh của GS Địch Cường (翟强, Qiang Zhai) đã xuất bản từ năm 2000, nhưng khá nhiều chi tiết mà ông kiểm chứng và giới thiệu từ nguồn tài liệu giải mật của Trung Quốc nay vẫn chưa thấy phổ biến trên báo chí hay diễn đàn tiếng Việt.

Ví dụ như chuyện trong giai đoạn 1965-1968 Trung Quốc đã gửi 320.000 lượt quân hậu cần sang Bắc Việt, mà có trên 1.000 người chết.

Nghiên cứu của GS Địch Cường cho rằng lúc đó Mao sẵn sàng đụng trận với Hoa Kỳ nếu lính Mỹ vượt qua biên giới đường bộ vào miền Bắc cộng sản của Việt Nam.

Nghiên cứu này còn xác định "rằng Bắc Việt thiếu vấn ý Trung Quốc khi bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ vào năm 1968, rằng ảnh hưởng của Trung Quốc lên Bắc Việt tan biến từ thời điểm này và của Liên Xô thì tăng," như lời GS John Lewis Gaddis từ đại học Yale.

Chuyên gia này đánh giá cao một kết luận "rằng gốc rễ của cuộc chiến giữa Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1979 nằm ở chỗ mà chúng ta bây giờ có thể nhìn thấy là sự tan rã liên minh Trung-Việt vào cuối thập niên 1960 và 1970," như đoạn giới thiệu được in trong phần đầu sách.

Cách nhìn đó giúp lý giải tại sao Bắc Kinh tăng viện trợ quân sự cho Hà Nội trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán bốn bên, vì khó giải thích chuyện đón Nixon sang thăm vào năm 1972.

Vốn là chuyên gia về lịch sử quan hệ ngoại giao của Trung Quốc, góc nhìn của GS Địch Cường còn quán xuyến cả thái độ của Mao Trạch Đông với chủ trương chống "diễn biến hòa bình" (和平演变 heping yanbian) vào năm 1959, như trong một phân tích khác của ông từ hồi ký của Bạc Nhất Ba (薄一波 Bo Yibo).

Theo đó, Mao không chỉ đối phó với ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles và còn cả lãnh đạo Liên Xô Khrushchev, khiến từ sau 1960 quan hệ giữa hai cường quốc cộng sản chia rẽ, ảnh hưởng vào cuộc chiến Việt Nam, vốn là một trong các tâm điểm của Chiến tranh lạnh.

Phần mở rộng nội dung một chương sách được trung tâm Wilson giới thiệu toàn bộ trên mạng, thể hiện rõ nét quan điểm các bên trong quá trình đàm phán hòa bình của Việt Nam trong giai đoạn 1965-1968.

Chính phủ Johnson leo thang chiến tranh nhưng buộc phải có đối thoại vì bị dư luận chỉ trích, thủ tướng Nga sang thăm Hà Nội với lời hứa viện trợ vật chất, còn Trung Quốc ở vào thế muốn phản đối Việt Nam đàm phán hòa bình vì các tính toán phức tạp của Mao Trạch Đông muốn giữ vai trò lãnh đạo Thế giới thứ ba.

Thế đối đầu giữa Liên Xô và Trung Quốc hiện rõ nhất vào năm 1966 khi hai bên dàn quân dọc biên giới, mà xung đột quân sự có thể nổ ra vào 1969, GS Địch Cường diễn giải từ nguồn tư liệu.

"Khi Mao gặp nguy cơ lớn từ Liên Xô, ông bắt đầu thay đổi chính sách và khuyến khích Bắc Việt chấp nhận hiệp ước hòa bình với Hoa Kỳ," bìa cuối quyển sách tóm tắt giai đoạn 1970s.

"Giới sử gia từ lâu vẫn ước đoán về quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong một phần tư thế kỷ cuộc chiến Đông Dương 1950-1975. Chỉ đến khi có quyển sách này chúng ta mới ở vào vị trí là biết." - GS Gaddis viết trong lời giới thiệu.

GS Địch Cường dạy lịch sử tại Đại học Auburn Montgomery ở Alabama, trước tốt nghiệp đại học ở Nam Kinh, rồi sang Mỹ làm tiến sĩ. Ngoài quyển sách China and the Vietnam Wars, 1950-1975 ông còn có nhiều bài viết liên quan đến lịch sử khu vực trong mối quan hệ quốc tế trong giai đoạn này.